Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

Các mô hình kinh doanh bền vững Tài nguyên Giáo dục Mở (OER)

OER Sustainability Business Models

Theo: https://encoreproject.eu/2022/04/20/business-models-for-open-educational-resources-3/


business models, Circles, Innovation, OER

Konkol et al. (2021) gần đây đã viết về các mô hình kinh doanh và tính bền vững OER. Họ đóng khung điều này về các khía cạnh của những gì họ gọi là nghịch lý “rằng việc sinh doanh thu từ OER là không có ý định, nhưng việc bỏ qua thu nhập có thể làm cho OER không bền vững”. Điều này nắm bắt được sự căng thẳng cơ bản vốn có trong ý tưởng giảm chi phí tư liệu giáo dục xuống mức cận biên/tối thiểu trong khi vẫn duy trì hoạt động bền vững - mặc dù tôi không chắc liệu mình có gọi đây là nghịch lý theo nghĩa chặt chẽ nhất hay không vì về cơ bản nó là về việc tạo ra sự cân bằng giữa những căng thẳng cạnh tranh hơn là sự không tương thích cơ bản.

Việc đóng khung này dẫn Konkol et al. để khám phá một tập hợp các đề xuất rộng hơn so với các đề xuất dựa trên OER, nói đúng ra. Họ xác định các mô hình sau (được tổ chức thành ba loại):

Các mô hình dựa vào cộng đồng

Trong mô hình dựa vào cộng đồng (Community-based model), các thành viên của một cộng đồng hoặc mạng lưới OER cộng tác tạo ra và sử dụng OER. Doanh thu có thể được sinh ra bằng việc đặt chỗ lưu trữ cho hạ tầng cần thiết hoặc tính phí cho hoạt động có liên quan. Một ưu điểm ở đây là các cộng đồng có nguồn lực (đặc biệt nguồn nhân lực) mà có thể được rút ra để sử dụng và phát triển chuyên môn ngang hàng.

Nhóm nòng cốt có thể điều phối mạng lưới và tạo thu nhập bằng việc đặt chỗ lưu trữ cơ sở hạ tầng OER và tổ chức các hoạt động để phân phối nội dung (Geser et al., 2019). Tuy nhiên, nếu họ rời đi, dự án cũng có thể sẽ kết thúc. Một trong những lợi thế chính là mạng lưới này có thể được sử dụng để rà soát lại ngang hàng các tài nguyên giáo dục (Elder, 2019). Nhược điểm là nhiều khoa chưa thấy được giá trị lâu dài của việc tham gia mạng lưới bằng những đóng góp bằng hiện vật. Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu phản đối việc sử dụng tư liệu do các cơ sở khác phát triển (Tlili và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, việc hợp tác với các trường đại học khác có thể mang lại hiệu quả về mặt chi phí. Một ví dụ về mạng lưới học thuật là Hiệp hội Giáo dục Mở; các mạng phi học thuật là Wikipedia và WikiEducator.

Mô hình Chương trình Trực tuyến (Online Programme model) được hiện thực hóa bằng cách mở rộng giáo dục dựa vào sự có mặt sang các khóa học trên trực tuyến hoặc kết hợp. Điều này hơi có vấn đề vì nội dung thường chỉ được truy cập bởi các sinh viên đã đăng ký chứ không phải là nội dung “mở”. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có lẽ đã trở nên phổ biến hơn với việc chuyển sang giáo dục trực tuyến do đại dịch Covid-19. (Tôi sẽ nói thêm về MOOC và việc cung cấp các dịch vụ giáo dục trực tuyến khác bên dưới.)

Các mô hình dựa vào từ thiện

Trong mô hình chính phủ (Governmental model), các cơ quan chính phủ quốc gia và quốc tế cung cấp vốn cho việc tạo lập OER. Điều này (cùng với hoạt động từ thiện) là cách mà nhiều OER theo truyền thống đã được cấp vốn nhưng lại phụ thuộc khá nhiều vào các ưu tiên chính trị và chiến lược của những người bên ngoài bản thân doanh nghiệp. Cũng có sự cạnh tranh khốc liệt đối với một số dòng vốn cấp này, điều này có thể khiến việc lập kế hoạch dài hạn trở nên phức tạp.

Hoạt động theo cách tương tự nhưng ở quy mô nhỏ hơn, Mô hình cơ sở (Institutional model) thấy các nhà cung cấp giáo dục đại học dành một phần ngân sách của họ cho các chương trình OER. Điều này thường được triển khai theo những cách nhất quán với triết lý mở, nhưng lại liên quan đến sự cạnh tranh vì các nguồn lực khan hiếm mà không có nhiều theo cách xây dựng năng lực dài hạn. Ngoài ra còn có nguy cơ là các ưu tiên chiến lược có thể thay đổi nhanh chóng.

Mô hình quyên góp (Donations model) bao gồm các khoản quyên góp từ các cơ quan, hiệp hội, ngành, chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ. Hình thức tài trợ này phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn lực bên ngoài và có thể được coi là phiên bản thu nhỏ của mô hình từ thiện với những rủi ro rõ ràng - nhưng vẫn có thể hoạt động trong trường hợp có nguồn tài trợ đáng kể, ví dụ thế. Còn có rủi ro về các yếu tố giao dịch – việc phụ thuộc vào sự đóng góp ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục như thế nào?

Mô hình cuối cùng tập trung vào các hành động của cơ sở giáo dục đại học là Mô hình Thay thế (Substitution model) trong đó thấy việc tiết kiệm chi phí từ các dịch vụ dư thừa (ví dụ: các hệ thống lỗi thời) được chuyển hướng sang các chương trình OER. Rõ ràng đây là một cách tiếp cận có những hạn chế cố hữu.

Mô hình dựa vào doanh thu

Mô hình bán trải nghiệm khóa học (Selling course experience model) hoặc mô hình “Freemium” nơi tư liệu giáo dục (ví dụ: slide trình chiếu, văn bản, dữ liệu) được cung cấp miễn phí. Tính bền vững ở đây bắt nguồn từ các nguồn thu nhập được cung cấp cùng với điều này, chẳng hạn như việc trả lời các câu hỏi, đưa ra phản hồi về bài nộp, giám sát nghiên cứu và kiểm tra, cũng như chứng nhận.

Điều đáng lưu ý là không cần có bất kỳ việc cấp phép mở nào liên quan ở đây, vì điểm thu hút chính là các tài liệu khóa học có sẵn miễn phí (miễn phí thay vì tự do - gratis rather than libre). Điều quan trọng ở đây là tỷ lệ chuyển đổi: tỷ lệ những người trải nghiệm tài liệu miễn phí trở thành khách hàng trả tiền. Nó vốn có lợi cho các hoạt động quy mô lớn hơn, những người có thể hưởng lợi từ quy mô lớn về kinh tế và tận dụng hồ sơ của họ.

Tương tự như vậy, chúng tôi có mô hình Tài trợ/Quảng cáo (Sponsorship/Advertising model) dựa vào việc tạo ra doanh thu bằng cách cho sinh viên tiếp xúc với các thông điệp thương mại. Bị nhiều người cho là phi đạo đức và phản đối các mục tiêu của giáo dục, mô hình này cũng đặt ra câu hỏi về những gì liên quan đến giao dịch giữa nhà giáo dục, người học và nhà tài trợ cũng như các thước đo đánh giá thành công.

Một lưu ý liên quan là chúng tôi có mô hình bán dữ liệu (Selling data model) trong đó doanh thu được tạo ra bằng cách bán dữ liệu về hoạt động của những người sử dụng một môi trường học tập (có thể được sử dụng để thử và cải thiện việc học tập, liên kết các ứng viên với công việc hoặc chỉ để đăng nội dung trực tuyến) . Đây là một cách tiếp cận khác chứa đầy những lo ngại về đạo đức nhưng có thể được thực hiện theo những cách thức mà mọi người có thể đồng ý với giả định rằng có đủ sự minh bạch về những gì đang diễn ra. Ưu điểm là có rất nhiều tổ chức sẵn sàng trả tiền cho loại dữ liệu này.

Có lẽ ở đâu đó giữa mô hình dựa vào cộng đồng và doanh thu, chúng tôi tìm thấy mô hình Thành viên (Membership model) dựa vào các tổ chức đóng góp cho trường đại học bằng tiền, dịch vụ và hàng hóa để đổi lấy các đặc quyền như quyền truy cập sớm tới các quyết định về lộ trình và phát hành mã. Điều này đòi hỏi sự phù hợp tốt giữa các ưu tiên của trường đại học/doanh nghiệp và ưu tiên của nhà tài trợ theo thời gian để có thể bền vững.

Mô hình Phân đoạn (Segmentation model) là cách tiếp cận dựa vào việc bán các bản sao OER ở dạng giấy cho sinh viên. (Tôi không muốn hạ thấp tầm quan trọng của việc có tùy chọn này đối với một số người, nhưng nó có thể bị giới hạn trong các bối cảnh khá cụ thể, quy mô nhỏ hơn, chẳng hạn như thay thế sách giáo khoa độc quyền.)

Cuối cùng, chúng ta có mô hình Tác giả trả tiền (Author pays model) trong đó các nhà xuất bản tạo doanh thu bằng cách tính phí đối với người tạo nội dung (ví dụ như trong trường hợp tính phí xử lý bài viết). Tuy nhiên, trong trường hợp của OER, thường có nhu cầu tối thiểu đối với nhà xuất bản bên thứ ba. Hơn nữa, vấn đề ai trả tiền vẫn còn nhưng cần cân nhắc thêm về việc cần phải trả tiền cho nhà xuất bản. Những cách tiếp cận như thế này được cho là có lợi cho những người có khả năng tiếp cận nguồn vốn cấp và phân biệt đối xử với những người chuyên nghiệp ít thành danh hơn hoặc những người đến từ các khu vực có ít nguồn vốn cấp hơn về cơ cấu.

Mô hình kinh doanh cho giáo dục trực tuyến

Chúng ta có thể thấy từ loại hình được đề xuất trong Konkol et al. (2021) rằng nhiều mô hình được đề xuất dựa trên một số hình thức giáo dục trực tuyến có thu phí. Theo nghĩa này, các thách thức đối với mô hình bền vững cho OER cũng giống như đối với MOOCs (Các khóa học trực tuyến mở đại chúng). Ở đây tôi tái tạo lại một loạt các mô hình như vậy được mô tả bởi dự án MOOC Consortium Châu Âu: Thị trường Lao động.

Nếu MOOC được hiểu là miễn phí tại thời điểm giao hàng, làm thế nào chúng có thể mang lại ý nghĩa kinh doanh? Một nghiên cứu trên 35 nền tảng MOOC và 6.351 MOOC (Rothe, Täuscher & Basole, 2018) cho thấy những người dẫn đầu thị trường bắt chước những đổi mới mô hình kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn để nâng cao vị thế của họ trên thị trường. Phần lớn các MOOCs chỉ dành riêng cho một nền tảng duy nhất và các cuộc chiến giành thị phần đầy biến động diễn ra thông qua sự khác biệt hóa hệ sinh thái. Do đó, các công ty hướng tới các mô hình kinh doanh chung bằng cách kết hợp những đổi mới của người khác.

Rothe, Tausche. & Basole (2018) gợi ý rằng các nền tảng MOOC có xu hướng tạo sự khác biệt bằng cách tận dụng tính độc đáo của các đối tác trong hệ sinh thái của nó. Các nền tảng sớm tham gia thị trường sẽ có lợi thế do có vị trí ổn định trong hệ sinh thái. Gilliot & Bruillard (2018) nhận thấy rằng chứng chỉ đại diện cho điểm chung của các mô hình kinh doanh MOOC. Slavova (2017) gợi ý rằng các mô hình kinh doanh (chứng chỉ/tín chỉ học tập/quảng cáo/đăng ký) có xu hướng được điều chỉnh phù hợp với các cộng đồng hình thành xung quanh các MOOCs cụ thể.

Friedl và cộng sự. (trích dẫn trong Ubachs & Konings, 2018:918) đề xuất ba mô hình kinh doanh tiềm năng:

  • Bổ sung các chương trình học hiện có bằng MOOCs;

  • MOOCs được tài trợ bởi các đơn vị công nghiệp hoặc chính phủ;

  • MOOCs được khuyến khích bằng chính sách tài chính (kèm theo quy định về chất lượng)

Slavova (2017:58) cũng đề xuất cách phân chia đơn giản thành hai mô hình kinh doanh chính:

  • Phần cơ bản miễn phí của khóa học (video và tài liệu bổ sung, bài kiểm tra) và phần trả phí, bao gồm các bài kiểm tra để được cấp chứng nhận hoặc công nhận mô-đun như một phần của chương trình cấp bằng giáo dục;

  • Bán khóa học với giá thấp hơn giá thành nhằm thu hút lượng lớn sinh viên theo học các chương trình cử nhân và thạc sĩ truyền thống trả phí của các trường đại học.

Padilla Rodriguez và cộng sự. (2018:2) xem xét năm mô hình kinh doanh cho MOOC (với một số điểm trùng lặp với các mô hình đã thảo luận ở trên):

  • tích hợp với giáo dục chính thống (các khóa học bổ sung; bán thêm; cung cấp tín chỉ; các dịch vụ bổ sung)

  • cách tiếp cận freemium (tính phí cho các dịch vụ bổ sung như kiểm tra)

  • đối tác với doanh nghiệp (tập trung vào phát triển nguồn nhân lực)

  • sự tham gia của đối tượng mục tiêu (đánh giá ngang hàng, kiểm duyệt, hỗ trợ)

  • hoạt động từ thiện (vốn cấp do tổ chức từ thiện/quỹ/NGO/chính phủ cung cấp)

Belleflamme & Jacqmin (2015:155-162) đề xuất các đặc điểm cơ bản của sáu mô hình kinh doanh tiềm năng (một lần nữa có một số điểm trùng lặp):

  • Nền tảng hóa - Platformization (tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác giữa các bên liên quan; giảm bớt sự tham gia của mỗi bên; yêu cầu hiểu biết về nhu cầu chung

  • Mô hình chứng nhận - Certification model (giữ bằng cấp là bằng cấp uy tín; doanh thu phụ thuộc vào việc hoàn thành chương trình chứ không phải từ tuyển sinh; có nguy cơ hạ thấp tiêu chuẩn học tập

  • Mô hình Freemium (học miễn phí rồi đến nội dung trả phí; chi phí liên quan đến dịch vụ trả phí làm giảm khả năng mở rộng; thiếu sự khác biệt về nền tảng; có thể dẫn đến trải nghiệm dưới mức tối ưu (King và cộng sự, 2018); lợi ích tiền tệ khó tính toán (Littlejohn & Hood , 2018:104))

  • Mô hình quảng cáo - Advertising model (con đường trực tuyến ưa thích để kiếm tiền; có thể có tác động tiêu cực đến việc học tập, thương hiệu)

  • Mô hình khớp nối công việc - Job matching model (sử dụng dữ liệu người dùng để giải quyết sự bất cân xứng trong thông tin thị trường việc làm (c.f. GMV Conseil, 2018); giám sát liên tục làm tăng mối lo ngại về quyền riêng tư; chưa được chứng minh trong thực tế)

  • Mô hình nhà thầu phụ - Subcontractor model (thuê ngoài một số chức năng cốt lõi của cơ sở giáo dục đại học; sử dụng hợp lý có thể cải thiện năng suất trong các lĩnh vực khác; bán nội dung; học tập/đào tạo về thiết kế)

Các mô hình kinh doanh lựa chọn thay thế được nêu ở đây chỉ ra rằng có nhiều lựa chọn sẵn có để đạt được tính bền vững. Những điều này có thể liên quan đến việc cung cấp thay thế hoặc tăng cường điều khoản hiện có; mô hình freemium hoặc 'nếm thử'; tài trợ hạt giống thông qua các sáng kiến của chính phủ; đăng ký; chứng thực; và sự tham gia của nhiều bên liên quan để cung cấp các dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, vẫn chưa có con đường rõ ràng để kiếm tiền.

Bài viết này bao gồm nội dung được phối lại từ các ấn phẩm CC BY sau: Farrow (2019); Konkol và cộng sự. (2021).

Tài liệu tham khảo:

Konkol et al. (2021) recently wrote about OER business models and sustainability. They frame this in terms of what they call the paradox ‘“that generating revenue out of OER is not intended, but ignoring income can make OER unsustainable”.  This does capture the basic tension inherent in the idea of reducing the cost of educational materials to marginal/minimal levels while remaining a sustainable operation – though I’m not sure whether I’d term this a paradox in the strictest sense as it’s essentially about striking a balance between competing tensions rather than a fundamental incompatibility.

This framing leads Konkol et al. to explore a wider set of propositions than those that are, strictly speaking, OER based. They identify the following models (organised into three categories):

Community-based models

In the Community-based model, the members of an OER community or network collaboratively create and use OER. Revenue can be generated by hosting the required infrastructure or charging for related activity. One advantage here is that communities have resources (especially human resources) which can be drawn upon to use and develop peer expertise.

A core team could coordinate the network and generate income by hosting OER infrastructure and organising activities to distribute the content (Geser et al., 2019). Nevertheless, if they leave, the project will likely end as well. One of the main advantages is that the network can be used to peer-review educational resources (Elder, 2019). Disadvantages are that many faculties do not see the long-term value of joining the network with in-kind contributions. Also, many researchers resist using materials developed by other institutions (Tlili et al., 2020). However, collaborating with other universities can be cost-effective. An example of an academic network is Open Education Consortium; non-academic networks are Wikipedia and WikiEducator.

The Online Programme model is realised by extending presence-based education to online or blended courses. This is somewhat problematic since the content is typically only accessed by registered students rather than being “open”. This approach has perhaps become more common with the pivot to online education resulting from the Covid-19 pandemic, though. (I’ll say more about MOOC and other online education offerings below.)

Philanthropy-based models

In the Governmental model, national and international governmental agencies provide funding for creating OER. This (along with philanthropy) is how a lot of OER has traditionally been funded but is rather dependent on the political and strategic priorities of those outside the business itself. There is also fierce competition for some of these funding streams which can make longer-term planning complex.

Operating in a similar fashion but at a smaller scale, the Institutional model sees higher education providers set aside some part of their budget for OER programmes. This is often implemented in ways that are consistent with the philosophy of open, but again involves competition for scarce resources without much in the way of longer term capacity building. There is also the risk that strategic priorities can change quickly.

The Donations model involves donations from, e.g., foundations, society, industry, government, or non-governmental agencies. This form of funding is very dependent on external sources and can be seen as a scaled down version of the philanthropic model with obvious risks – but could still work in the case of, for example, significant endowments. There is also the risk of transactional elements – how does being dependent on donations effect educational practice?

The final model focused on higher education institutional actions is the Substitution model which sees cost savings from redundant services (e.g. obsolete systems) being redirected towards OER programmes. Obviously this is an approach which has inherent limitations.

Revenue-based models

The Selling course experience model or “Freemium” model where educational materials (e.g., slides, texts, data) are offered for free. Sustainability here is derived from income streams offered alongside this, such as answering questions, giving feedback on submissions, supervising research and examination, and certification.

It’s worth noting that there doesn’t need to be any open licensing involved here, since the main attraction is that course materials are available without charge (gratis rather than libre). The key thing here is the conversion rate: the proportion of those who experience the free materials who become paying customers. It inherently favours larger scale operations who can benefit from economies of scale and leverage their profile.

Along similar lines we have the Sponsorship/Advertising model which relies on generating revenue by exposing students to commercial messages. Perceived by many to be both unethical and antithetical to the goals of education, this model also raises questions about what is involved in the transaction between educator, learner and sponsor as well as the metrics by which success is evaluated.

On a related note, we have the Selling data model where revenue is generated by selling data about the activities of those using a learning environment (which can be used to try and improve learning, link candidates to jobs, or just to flog stuff online). This is another approach riddled with ethical concerns but could be done in ways which people could consent to assuming there was enough transparency about what is going on. The advantage is that there are plenty of organisations willing to pay for this kind of data.

Perhaps somewhere between the community and revenue based models we find the Membership model which relies on organisations contributing to the university with money, services, and goods in exchange for privileges such as early access to roadmap decisions and code releases. This requires a good fit between the priorities of the university/business and those of the sponsor over time in order to be sustainable.

The Segmentation model is an approach that relies on selling paper copies of OER to students. (I don’t want to downplay how important it might be for some to have this option, but it’s likely to be limited to fairly specific, smaller-scale contexts such as replacing a proprietary textbook.)

Finally we have the Author pays model where publishers generate revenue by charging content creators (as in the case of article processing charges, for instance). In the case of OER, however, there is often minimal need for a third party publisher. Furthermore, the issue of who pays remains but with the added consideration of needing to pay a publisher. Approaches like this have been seen to favour those who have access to funding and discriminate against less established professionals or those from areas where less funding is structurally available.

Business Models for Online Education

We can see from the typology proposed in Konkol et al. (2021) that many of the proposed models are based around some form of online education where charges are made. In this sense, the challenges for a sustainable model for OER is much the same as for MOOCs (Massive Open Online Courses). Here I reproduce the range of such models described by the European MOOC Consortium: Labour Markets project.

If MOOC are understood to be free at the point of delivery, how can they make business sense? A study of 35 MOOC platforms and 6,351 MOOCs (Rothe, Täuscher & Basole, 2018) found that market leaders imitate the business model innovations of smaller competitors to augment their market position. The majority of MOOCs are exclusive to a single platform, and volatile battles for market share take place through ecosystem differentiation. Companies therefore converge towards common business models by incorporating the innovations of others.

Rothe, Täusche. & Basole (2018) suggest that MOOC platforms tend to differentiate themselves by leveraging the uniqueness of its ecosystem partners. Early to market platforms experience an advantage due to an established place in the ecosystem. Gilliot & Bruillard (2018) find that certification represents the nodal point held in common by MOOC business models. Slavova (2017) suggests that business models (certification/academic credit/advertising/subscription) tend to be tailored towards the communities that form around specific MOOCs.

Friedl et al. (cited in Ubachs & Konings, 2018:918) suggest three potential business models:

  • Supplement existing study programmes with MOOCs;

  • MOOCs are sponsored by industry or government bodies;

  • MOOCs are incentivized by fiscal policy (accompanied by quality regulation)

Slavova (2017:58) alternatively suggests a simple division of two main business models:

  • Free basic part of the course (video and additional materials, tests) and a paid part, which includes examinations with certification or accreditation of the module as part of a programme for educational degree;

  • Selling the course at a price below its cost in order to attract a large number of students to the traditional paid bachelor and master programmes of universities.

Padilla Rodriguez et al. (2018:2) review five business models for MOOC (with some overlap to the models discussed above):

  • integration with mainstream education (supplementary courses; upselling; offering credits; additional services)

  • freemium approach (charge for additional services such as examination)

  • partnerships with enterprises (focus on human resource development)

  • involvement of target audience (peer assessment, moderation, support)

  • philanthropy (funding provided by charity/foundation/NGO/government)

Belleflamme & Jacqmin (2015:155-162) suggest the essential features of six potential business models (again with some overlap):

  • Platformization (facilitates interactions between stakeholders; subsides the participation of each side; requires understanding of mutual needs

  • Certification model (retains the degree as the prestige qualification; revenues depend on completion, not enrolment; risks lowering academic standards

  • Freemium model (free learning followed by paid content; costs associated with paid services decrease scalability; lack of platform differentiation; can result in sub-optimal experiences (King et al., 2018); monetary benefits are hard to calculate (Littlejohn & Hood, 2018:104))

  • Advertising model (preferred online route to monetization; possible negative effect on learning, brand)

  • Job matching model (uses user data to address asymmetry in job market information (c.f. GMV Conseil, 2018); continuous monitoring raises privacy concerns; unproven in practice)

  • Subcontractor model (outsources some core HEI function; judicious use could improve productivity in other areas; sell content; design learning/training)

Alternative business models outlined here indicate that there are a range of options available to achieve sustainability. These can involve alternative provision or augmenting existing provision; freemium or ‘taster’ models; seed funding through governmental initiatives; subscription; credentialing; and involvement with a wide range of stakeholders to deliver specific services. However, there is still no obvious path to monetization.

This article included remixed content from the following CC BY publications: Farrow (2019); Konkol et al. (2021).

References:

Belleflamme, P. & Jacqmin, J. (2015). An Economic Appraisal of MOOC Platforms: Business Models and Impacts on Higher Education. CESifo Economic Studies, Volume 62, Issue 1, 1 March 2016, Pages 148–169, https://doi.org/10.1093/cesifo/ifv016

Elder, A.K. (2019). The OER Starter Kit. Ames, IA: Iowa State University Digital Press. Retrieved from iastate.pressbooks.pub/oerstarterkit

Farrow, R. (2019). Massive Open Online Courses for Employability, Innovation and Entrepreneurship: a Rapid Assessment of Evidence. EMC-LM Project. CC-BY 4.0. https://emc.eadtu.eu/images/publications_and_outputs/EMC-LM_WP1_REA_Report_v.1_web.pdf

Geser, G., Schön, S., & Ebner, M. (2019, June). Business models for Open Educational Resources: how to exploit OER after a funded project? In EdMedia+ Innovate Learning (pp. 1537-1543). Association for the Advancement of Computing in Education (AACE).

Gilliot, J.-M. & Bruillard, É. (2018). Recherches actuelles sur les MOOC. Sciences et Technologies de l’Information et de la Communication pour l’Éducation et la Formation, ATIEF, 2018. https://hal-imt-atlantique.archives-ouvertes.fr/hal01802224/document 

King, M., Pegrum, M., & Forsey, M. (2018). MOOCs and OER in the Global South: Problems and Potential. The International Review of Research in Open and Distributed Learning, 19(5). http://www.irrodl.org/index.php/irrodl/article/view/3742

Konkol, M., Jager-Ringoir, K. & Zurita-Milla, R. (2021): Open Educational Resources – Basic concepts, challenges, and business models. Faculty of Geo-Information Science and Earth Observation (ITC), University of Twente. DOI: 10.5281/zenodo.4789124

Littlejohn, A. and Hood, N. (2018) Reconceptualising Learning in the Digital Age: the (Un)democratising of Learning. Singapore: Springer.

Rothe, H., Täuscher, K. & Basole, R. (2018). Competition between platform ecosystems: a longitudinal study of MOOC platforms. Twenty-Sixth European Conference on Information Systems (ECIS2018), Portsmouth, UK. https://www.researchgate.net/profile/Rahul_Basole/publication/325896999_Competition_between_platform_ecosystems_A_longitudinal_study_of_MOOC_platforms/links/5b3a3b98a6fdcc8506e87d8f/Competition-between-platform-ecosystems-Alongitudinal-study-of-MOOC-platforms.pdf

Slavova, M. (2017). Lessons Learned from the Development and Implementation of MOOC in Digital and Social Media Marketing. Bulgarian Journal of Business Research(22), pp.56-63. https://www.ceeol.com/search/article-detail?id=559144

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

‘Sự tiến hóa của các mô hình bền vững cho Tài nguyên Giáo dục Mở: hiểu thấu từ tư liệu và các chuyên gia’ - bản dịch sang tiếng Việt

Là tài liệu của các tác giả Tlili, A., Nascimbeni, F., Burgos, D., Zhang, X., Huang, R., & Chang, T. W. (2020), với giấy phép Ghi công - Chia sẻ Tương tự 3.0 IGO (CC BY-SA 3.0 IGO) (http://creativecommons.org/licenses/by-sa/3.0/igo/).

Thông qua việc rà soát lại tư liệu toàn diện và phương pháp Delphi 2 vòng với 30 chuyên gia OER, 10 mô hình bền vững OER đã được xác định và phân tích, nơi mà việc cấp vốn công và nội bộ là những mô hình có uy tín nhất. Các phát hiện của nghiên cứu này có thể hỗ trợ cho các tổ chức để phát triển chiến lược bền vững OER của riêng họ, tạo thuận lợi cho việc áp dụng OER khắp trên thế giới và vì thế đóng góp cho việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững - SDGs (Sustainable Development Goals) của Liên hiệp quốc.

Tự do tải về bản dịch sang tiếng Việt của tài liệu có 38 trang tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/scl/fi/pe0xtfjl1aiin5uqs8zye/2_2014185631_Vi-23112023.pdf?rlkey=d80ow6volm1feeqnrsqxom680&dl=0

Xem thêm:

Blogger: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Ba, 28 tháng 11, 2023

‘Tài nguyên Giáo dục Mở - Các khái niệm cơ bản, các thách thức, và các mô hình kinh doanh’ - bản dịch sang tiếng Việt

Là tài liệu của các tác giả Konkol, M., Jager-Ringoir, K. & Zurita-Milla, R. (2021) của Khoa về Khoa học Thông tin Địa lý và Quan sát Trái đất - ITC (Faculty of Geo-Information Science and Earth Observation), Đại học Twente xuất bản năm 2021. DOI: 10.5281/zenodo.4789124 với giấy phép mở CC BY 4.0 Quốc tế.

Trong tài liệu này, chúng tôi giới thiệu khái niệm Tài nguyên Giáo dục Mở - OER (Open Educational Resources). Chúng tôi bắt đầu bằng việc thiết lập định nghĩa OER, điều gì là cần thiết để gọi các tư liệu giáo dục là OER, và những khác biệt khi so sánh các khái niệm có liên quan, chẳng hạn như các khóa học trực tuyến mở đại chúng - MOOC (Massive Open Online Courses). Tài liệu nêu về các ưu đãi để xuất bản OER có tính tới quan điểm của các bên liên quan tham gia vào, ví dụ, công chúng nói chung, các trường đại học và các giảng viên, và sinh viên. Sau đó, chúng tôi chú ý tới các thách thức đi với OER. Sau đó, chúng tôi cung cấp một danh sách các mô hình kinh doanh tiềm năng xung quanh OER, các khái niệm, lợi ích, hạn chế cơ bản của chúng, và các dự án sử dụng chúng. Chúng tôi cũng xem xét nghịch lý là OER không có ý định sinh doanh thu nhưng việc bỏ qua thu nhập có thể làm cho OER không bền vững. Tài liệu kết luận bằng việc đưa ra các bước có thể để hiện thực hóa OER (ví dụ, tổ chức họp bàn tròn để khởi xướng thảo luận về cách để hiện thực hóa OER ở mức khoa phòng).

Tự do tải về bản dịch sang tiếng Việt của tài liệu có 25 trang tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/scl/fi/waoae97qhkyzun35e6w65/open_educational_resources_Vi-21112023.pdf?rlkey=w9ugklj3tnld2btfklf4mb88f&dl=0

Xem thêm:

Blogger: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2023

‘Báo cáo tổng hợp về triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) 2019 của các quốc gia thành viên’ - bản dịch sang tiếng Việt

Báo cáo tổng hợp về triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở của UNESCO năm 2019 của các quốc gia thành viên tại Hội nghị Toàn thể lần thứ 42 của UNESCO diễn ra trong các ngày 7-22/11/2023.

Sau khi tổng hợp các hoạt động triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở 2019 của UNESCO (bản dịch sang tiếng Việt) của 78 quốc gia có báo cáo về hỗ trợ chung cũng như về 5 lĩnh vực hành động được khuyến nghị của nó, gồm: (1) Xây dựng năng lực của các bên liên quan để tạo lập, truy cập, sử dụng lại, tùy chỉnh và phân phối lại OER: (2) Phát triển chính sách hỗ trợ; (3) Khuyến khích truy cập hiệu quả, toàn diện và công bằng tới OER chất lượng; (4) Nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững OER; và (5) Thúc đẩy và tăng cường hợp tác quốc tế, tài liệu cuối cùng đưa ra Nghị quyết phác thảo như bên dưới đây:

Nghị quyết phác thảo được đề xuất

...

Tái khẳng định tầm quan trọng của Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019) và sự triển khai nó của các quốc gia thành viên,

  1. Lưu ý rằng 78 quốc gia thành viên đã gửi các báo cáo của họ trong lần tham vấn đầu tiên về triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019), và khuyến khích mạnh mẽ các quốc gia thành viên gửi các báo cáo càng sớm càng tốt;

  2. Mời tất cả các quốc gia thành viên tăng cường các nỗ lực để đảm bảo triển khai đầy đủ và toàn diện Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019), đặc biệt vì nó nó liên quan đến việc thúc đẩy nội dung dạy và học được cấp phép mở;

  3. Cũng mời các quốc gia thành viên tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực của Tổng Giám đốc để thúc đẩy và triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019);

  4. Yêu cầu Tổng Giám đốc thực hiện hành động tiếp theo thích hợp để giải quyết các phát hiện của tham vấn đầu tiên về việc triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019) và sau đó bắt đầu tham vấn lần hai các Quốc gia Thành viên;

  5. Cũng yêu cầu Tổng Giám đốc chuyển nó tới, tại phiên họp thứ 44, báo cáo tổng hợp tiếp theo về việc triển khai Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (2019) và quyết định đưa một mục về vấn đề này vào chương trình nghị sự của phiên họp thứ 44.

Chú thích: Phiên họp thứ 44 của UNESCO sẽ diễn ra vào năm 2027.

Tự do tải về bản dịch sang tiếng Việt của tài liệu có 14 trang tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/scl/fi/qo67t1wzeh74mlt82b4sl/387398eng_Vi-25112023.pdf?rlkey=xjibumtg0v6vuc4njunuje3gx&dl=0

Xem thêm:

Blogger: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2023

Đẩy nhanh việc áp dụng Khoa học Mở: Phát hành Tuyên bố khi kết thúc và kêu gọi hành động

Accelerating the Adoption of Open Science: Closing Statement Release and a Call to Action

Theo: https://zenodo.org/records/10059154

Bài được đưa lên Internet ngày: 01/11/2023

Như một phần sứ mệnh của mình, Nhóm các Nhà cấp vốn Nghiên cứu Mở - ORFG (Open Research Funders Group) nuôi dưỡng các liên minh liên ngành mạnh mẽ để thúc đẩy một hệ sinh thái nghiên cứu mở hơn, có sự tham gia, công bằng, mạnh mẽ, và bền vững. Theo tinh thần này, ORFG đã tham gia trong Hội nghị thượng đỉnh “Đẩy nhanh việc áp dụng Khoa học Mở” do CERN và NASA đồng tổ chức ở Geneva, Thụy Sỹ.

Hôm nay, NASA và CERN đã phát hành công khai tuyên bố khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh này. Văn bản đó, có sẵn ở đây (bản dịch sang tiếng Việt) bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Trung Quốc và Ả Rập, thể hiện cam kết làm việc cộng tác và theo bối cảnh để đẩy nhanh việc áp dụng khoa học mở ở phạm vi rộng.

ORFG, thông qua sự hỗ trợ hào phóng của Quỹ Gordon và Betty Moore, vui mừng hỗ trợ việc biến xung lượng của Hội nghị thượng đỉnh thành các hành động cụ thể, do cộng đồng dẫn dắt. Về điều này, chúng tôi đang tạo thuận lợi cho các thảo luận trong 4 nhóm làm việc, chúng sẽ bắt đầu tập hợp theo định kỳ đề cập tới các kết quả đầu ra chính của cuộc họp. Các lĩnh vực đó gồm:

  • Hạ tầng Mở Bền vững & Tương hợp. Các tính năng chính của hạ tầng nghiên cứu mở mà các tổ chức cần để đẩy nhanh khoa học mở. Việc hiểu các cơ chế cho việc chia sẻ dữ liệu, bài báo, mã và các thiết kế hiệu quả. Việc khám phá các cách thức có thể để đảm bảo tính bền vững của hạ tầng, bao gồm sự thừa nhận đúng cách công việc có liên quan tới hạ tầng.

  • Các ưu đãi. Các hướng dẫn thưởng cho hiệu quả của các thực hành nghiên cứu, khoa học, và uyên thâm mở, đặc biệt vì các mục đích thuê làm; rà soát lại, nhiệm kỳ, và thăng tiến; và cấp vốn trợ cấp. Việc điều chỉnh các cơ hội cấp vốn và các hệ thống thừa nhận để thúc đẩy văn hóa của nghiên cứu, khoa học, và uyên thâm mở.

  • Khoa học Mở Công bằng. Các tác động xã hội rộng lớn hơn của nghiên cứu mở và làm thế nào các cơ sở có thể nhận diện và thúc đẩy chúng tốt hơn. Đưa tính đa dạng, công bằng, tính toàn diện và khả năng tiếp cận lên đầu trong các nỗ lực nghiên cứu mở nhằm đảm bảo sự tham gia của cộng đồng một cách công bằng và bền vững hơn.

  • Chính sách Nghiên cứu Mở dựa vào bằng chứng. Các hướng dẫn cho việc thu thập, phân tích và đánh giá thành công của việc triển khai chính sách nghiên cứu mở. Thúc đẩy tính tương hợp từ khi thiết kế để tối đa hóa sự tham gia với nhiều bên liên quan: các trường cao đẳng, đại học, các thực thể nghiên cứu dựa vào phi hàn lâm, và các phòng thí nghiệm. Giữ cho các hướng dẫn linh hoạt và giám sát thành công qua thời gian, trong khi có khả năng thích nghi được để đảm bảo các đối tác trong các bối cảnh của riêng họ áp dụng được rộng hơn.

Chúng tôi biết rằng có những công việc có giá trị đang diễn ra ở từng lĩnh vực này. Chúng tôi mong muốn hài hòa hóa với những nỗ lực này, đồng thời nhận ra rằng có những cơ hội duy nhất ở cấp độ tổng thể để đạt được sự đồng thuận rộng rãi hơn giữa các bên liên quan trong các cơ sở. Trong mỗi nhóm làm việc, chúng tôi mong muốn tạo ra không gian cho công việc cộng tác hiệu quả, thúc đẩy tính tương hợp và hội nhập khu vực một cách công bằng, tích hợp các lĩnh vực nghiên cứu mở khác nhau và xem xét cách hỗ trợ các nhà nghiên cứu thế hệ tiếp theo.

Nếu bạn muốn tham gia một nhóm làm việc, vui lòng bày tỏ sự quan tâm của mình bằng cách sử dụng biểu mẫu này. Các nhóm làm việc dành cho tất cả những người tham gia quan tâm, bất kể liên kết hoặc vị trí địa lý của họ. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về quy trình, vui lòng liên hệ với Julieta Arancio.

As part of its mission, the Open Research Funders Group (ORFG) cultivates robust cross-sector coalitions to advance a more open, participatory, equitable, robust, and sustainable research ecosystem. In this spirit, the ORFG participated in the July 2023 “Accelerating the Adoption of Open Science” Summit, co-organized by CERN and NASA in Geneva, Switzerland.

Today, NASA and CERN have publicly launched the closing statement of the Summit. The text, available here in English, French, Spanish, German, Chinese and Arabic, expresses a commitment to work collaboratively and contextually to accelerate the adoption of open science at scale.

The ORFG, through the generous support of the Gordon and Betty Moore Foundation, is pleased to help translate the Summit momentum into concrete, community-driven actions. To this end, we are facilitating discussions in four working groups, which will start gathering periodically to address the main outcomes of the meeting. These areas are as follows:

  • Sustainable & Interoperable Open Infrastructure. Key features of the open research infrastructure that organizations need to accelerate open science. Understanding the mechanisms for sharing data, articles, code and designs effectively. Exploring possible pathways to ensure sustainability of infrastructure, including proper recognition of infrastructure-related work.

  • Incentives. Guidelines for rewarding effective open research, science, and scholarship practices, particularly for the purposes of hiring; review, tenure, and promotion; and grant funding. Aligning funding opportunities and recognition schemes to promote a culture of open research, science, and scholarship.

  • Equitable Open Science. Broader societal impacts of open research and how institutions can better identify and foster them. Bringing diversity, equity, inclusivity, and accessibility to the front of open research efforts to guarantee a more equitable and sustainable community engagement.

  • Evidence-Based Open Research Policy. Guidelines for collecting, analyzing and evaluating success of open research policy implementation. Fostering interoperability by design to maximize engagement with multiple stakeholders: colleges, universities, non-academic based research entities, and labs. Keeping guidelines flexible and monitoring success over time, while adaptable to ensure broader adoption by partners into their own contexts.

We are aware there is valuable ongoing work taking place in each of these areas. We aim to harmonize with these efforts, recognizing that there are unique opportunities at a landscape level for reaching broader consensus across institutional stakeholders. Within each working group, we aspire to create spaces for effective collaborative work, foster interoperability and equitable regional integration, integrate the various domains of open research and consider how to support next generation researchers.

If you are interested in joining a working group, please express your interest using this form. The working groups are open to all interested participants, no matter their affiliation or geographic location. If you have any questions about the process, feel free to contact Julieta Arancio.

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Năm, 23 tháng 11, 2023

‘Hội nghị thượng đỉnh 2023 về Đẩy nhanh áp dụng Khoa học Mở: Tuyên bố khi kết thúc’ - bản dịch sang tiếng Việt


Là tài liệu của CERN/NASA cùng xuất bản ngày 01/11/2023, giấy phép CC BY 4.0.

Để kỷ nhiệm năm 2023 là năm Khoa học Mở, CERN và NASA đã cùng tổ chức “Đẩy nhanh Áp dụng Khoa học Mở”, một hội nghị thượng đỉnh về khoa học mở dài một tuần lễ tại CERN ở Geneva, Thụy Sỹ, từ 10-14/07/2023. Sự kiện này đã tập hợp đa dạng những người tham dự để trao đổi các kinh nghiệm, ý tưởng, và sự tinh thông; thúc đẩy các chính sách và thực hành khoa học mở; và phát triển các kế hoạch hành động thực tế để triển khai các thực hành khoa học mở phù hợp với cả bối cảnh và mục đích.

Tự do tải về bản dịch sang tiếng Việt của tài liệu có 4 trang tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/scl/fi/papslywczmebzib2ytwt2/FINAL-Closing-statement_Vi-20112023.pdf?rlkey=qi55hou89mltuh3a9msqm8o7r&dl=0

Xem thêm:

Blogger: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Tư, 22 tháng 11, 2023

Giải pháp mở: Đòn bẩy để đạt được khả năng tiếp cận thông tin và kiến thức

Open Solutions: A lever to achieve access to information and knowledge

1 June 2023

Theo: https://www.unesco.org/en/articles/open-solutions-lever-achieve-access-information-and-knowledge?hub=785

Bài được đưa lên Internet ngày: 01/06/2023

Liên minh Năng động OER của UNESCO đã tổ chức một webinar ngày 4/5/2023 để nêu bật việc sử dụng hiệu quả các giấy phép mở trong thúc đẩy các xã hội tri thức toàn diện. Các giải pháp mở tham chiếu tới các lợi ích chung kỹ thuật số là sẵn sàng theo các giấy phép mở, tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu bản quyền. Các giải pháp đó cho phép những người sử dụng sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh và phân phối lại nội dung.


Shutterstock

Chúng tôi tin tưởng trong một thế giới được kết nối. Là có khả năng kết nối kiến thức được xuất bản vì lợi ích phổ cập. Điều đó đang diễn ra!”

Arianna Becerril Garcia

Giáo sư Khoa học Máy tính, Đại học Autónoma del Estado de México

và Giám đốc Điều hành của Redalyc

Cách tiếp cận ba hướng để đạt được quyền truy cập thông tin và kiến thức cho IFLA

Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội và Cơ sở Thư viện - IFLA (International Federation of Library Associations and Institutions) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các giải pháp mở trong cung cấp quyền truy cập tới thông tin và giáo dục trong một thế giới được số hóa. Các thư viện có mục tiêu biến đổi từ khả năng chỉ truy cập sang sử dụng thực sự kiến thức. Điều này liên quan đến việc thiết lập các nền tảng hoạt động cho việc giám tuyển và tạo lập kiến thức, gắn với công bằng và đạo đức, và cộng tác với các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan để biện hộ cho các giải pháp mở. Các thư viện đóng vai trò rất quan trọng trong đảm bảo triển khai hiệu quả các giải pháp mở và giải quyết bất bình đẳng và bất công về thông tin.

“Khi chúng tôi đối mặt tình huống dịch chuyển từ sự hiếm hoi sang dư thừa, điều này đã ngụ ý sự thay đổi về cách để các thư viện hoạt động - chắc chắn không còn là những người gác cổng nữa, mà là người mở cổng và hướng dẫn nhiều hơn, giúp mọi người tận dụng tốt nhất những gì ở đó và làm việc để xử lý bất bình đẳng và bất công về thông tin”.

Stephen Wyber

Giám đốc, Chính sách và Biện hộ, IFLA

Tính mở và minh bạch tối đa hóa quyền truy cập tới kiến thức

Alex Gakuru, nhà biện hộ hàng đầu về tính mở và minh bạch, đã nêu bật nhu cầu cho Bán cầu nam không chỉ tiêu dùng mà còn sản xuất kiến thức thông qua nội dung giáo dục mở. Các thách thức Bán cầu nam đối mặt gồm thiếu nhận thức về bản quyền và lợi ích của việc cấp phép mở, nhu cầu về xây dựng năng lực tạo lập OER, và thiếu các chính sách hỗ trợ. Các sáng kiến của UNESCO, như quy trình “oer hóa” (oerisation) ở Đại học Nairobi ở Kenya, đã chứng minh tác động tích cực của phát triển năng lực thúc đẩy dân chủ hóa kiến thức và quyền truy cập vạn năng tới giáo dục.

WIPO nhấn mạnh tầm quan trọng của Truy cập Mở và các giấy phép Creative Commons

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới - WIPO (World Intellectual Property Organization) đã nhấn mạnh các ưu điểm của Truy cập Mở và các giấy phép Creative Commons trong thúc đẩy quyền truy cập tới kiến thức và thông tin. Sự dịch chuyển của WIPO hướng tới các giấy phép đó và các sáng kiến như Dự án Research4Life của WIPO thể hiện cam kết của họ với tính mở và cộng tác trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Các chính sách mở đường cho tính mở: Rà soát lại toàn cầu

TS. Ard Prasad, một học giả về Khoa học Thư viện và Thông tin, đã nhấn mạnh nhu cầu kết hợp tính mở vào các khung chính sách. Ông đã nêu bật sự hiện diện của 858 chính sách Truy cập Mở ở 191 quốc gia, cũng như Cổng Truy cập Mở Toàn cầu - GOAP (Global Open Access Portal), nó cung cấp sự kiểm kê các chính sách đó cùng với các kho, các tạp chí, và các kho dữ liệu. GOAP cũng cung cấp các mẫu template và các danh sách chọn cho các chính sách mẫu có liên quan tới tính mở ở các mức khác nhau.

Truy cập Mở là cần thiết cho tương lai của việc chia sẻ kiến thức

Cô Arianna Becerril Garcia, một giáo sư và giám đốc điều hành của Redalyc, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của truy cập mở tới thông tin khoa học trong việc dân chủ hóa khoa học. Cô đã bảo vệ quyền sở hữu hàn lâm của các quy trình truyền thông học thuật và đã nhấn mạnh nhu cầu cộng tác Nam - Nam trong việc chia sẻ kiến thức thông qua việc cấp phép mở. Cô Garcia cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các tiến trình phi thương mại trong các quy trình sản xuất tạp chí.

Tương lai của việc chia sẻ kiến thức là có hứa hẹn với việc sử dụng các giải pháp mở. Việc thiết lập các chính sách giải pháp mở và xây dựng năng lực tạo lập và sử dụng các giải pháp mở sẽ đảm bảo rằng kiến thức vẫn là lợi ích chung toàn cầu truy cập được tới tất cả mọi người.

“Tương lai sẽ là mở nhưng mở cho ai, ai sở hữu, ai kiểm soát và phục vụ cho lợi ích của ai? Những người không học được từ lịch sử sẽ bị kết án lặp lại nó.”

Arianna Becerril Garcia, Giáo sư Khoa học máy tính,

Đại học Autónoma del Estado de México và Giám đốc Điều hành của Redalyc

Liên minh Năng động OER

Liên minh Năng động OER (OER Dynamic Coalition) đã được thành lập sau việc phê chuẩn Khuyến nghị OER của UNESCO bởi các quốc gia thành viên ở Hội nghị Toàn thể UNESCO vào tháng 11/2019. Mục tiêu của nó là hỗ trợ cho các chính phủ triển khai khuyến nghị bằng việc thúc đẩy và tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực giữa các bên liên quan trong các lĩnh vực chính được nêu trong khuyến nghị.

Các đường liên kết có liên quan

The UNESCO OER Dynamic Coalition organized a webinar on 4 May 2023 to highlight the effective use of open licenses in promoting inclusive knowledge societies. Open solutions refer to digital public goods that are available under open licenses, respecting the intellectual property rights of the copyright owner. These solutions enable users to reuse, repurpose, adapt and redistribute content.

“We live in a world of connectivity. It is possible to connect published knowledge for the universal benefit. It is happening!”

Arianna Becerril Garcia

Professor of Computer Sciences, University Autónoma del Estado de México and Executive Director of Redalyc

Three-pronged approach to achieving access to information and knowledge for IFLA

The International Federation of Library Associations and Institutions (IFLA) emphasized the importance of open solutions in providing access to information and education in a digitized world. Libraries aim to transition from mere accessibility to actual usage of knowledge. This involves the establishment of operation platforms for knowledge curation and creation, adherence to equity and ethics, and collaboration with policymakers and stakeholders to advocate for open solutions. Libraries play a crucial role in ensuring the effective implementation of open solutions and addressing information inequality and inequity.

“As we face a situation of moving from scarcity to abundance, this has implied a change in how libraries operate – certainly no longer gatekeepers, more gate openers and guides, helping people to make the most of what is there and working to tackle information inequality and inequity.”

Stephen WyberDirector, Policy and Advocacy, IFLA

Openness and transparency to maximize access to knowledge

Alex Gakuru, a leading advocate for openness and transparency, highlighted the need for the Global South to not only consume but also produce knowledge through open educational content. Challenges faced by the Global South include a lack of awareness about copyright and the benefits of open licensing, the need for capacity building in creating Open Educational Resources (OERs), and the absence of supportive policies. Initiatives by UNESCO, such as the "oerisation" process at the University of Nairobi in Kenya, have demonstrated the positive impact of capacity development in promoting the democratization of knowledge and universal access to education.

WIPO highlights importance of Open Access and Creative Commons licenses

The World Intellectual Property Organization (WIPO) emphasized the advantages of Open Access and Creative Commons licenses in promoting access to knowledge and information. WIPO’s shift toward these licenses and initiatives like the WIPO Research4Life Project exemplify their commitment to openness and collaboration in research and innovation.

Policies to pave Openness: A global review

Dr Ard Prasad, an academic in Library and Information Science, emphasized the need to incorporate openness in policy frameworks. He highlighted the existence of 858 Open Access Policies in 191 countries, as well as the Global Open Access Portal (GOAP), which provides an inventory of these policies along with repositories, journals, and data repositories. GOAP also offers templates and checklists for model policies related to openness at different levels.

Open Access is necessary for future of knowledge sharing

Ms Arianna Becerril Garcia, a professor and executive director of Redalyc, stressed the importance of open access to scientific information in democratizing science. She advocated for academic ownership of scholarly communication processes and emphasized the need for South-South collaboration in knowledge sharing through open licensing. Ms. Garcia also highlighted the importance of adopting non-commercial workflows in journal production processes.

The future of knowledge sharing looks promising with the use of open solutions. Establishing open solution policies and building capacity to create and utilize open solutions will ensure that knowledge remains a global public good accessible to everyone.

“The future will be open but open for who, owned by who, controlled by who and serving whose interests? Those who fail to learn from history are condemned to repeat it.”

Arianna Becerril Garcia Professor of Computer Sciences, University Autónoma del Estado de México and Executive Director of Redalyc

OER Dynamic Coalition

The OER Dynamic Coalition was formed following the adoption of the UNESCO OER Recommendation by Member States at the UNESCO General Conference in November 2019. Its objective is to assist governments in implementing the recommendation by promoting and strengthening international and regional cooperation among stakeholders in key areas outlined in the recommendation.

Related links

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Ba, 21 tháng 11, 2023

Chuyển đổi số và mã nhận diện thường trực cho các đối tượng số trong các cơ sở giáo dục đại học

Digital transformation and persistent identifiers for digital objects in higher education institutions


***

Tóm tắt: Ngày nay, mã nhận diện thường trực thường được sử dụng để quản lý các đối tượng kỹ thuật số. Bài viết này gợi ý rằng các tổ chức giáo dục đại học, cũng như các thư viện, giáo viên và nhà nghiên cứu của họ cũng nên làm như vậy.

Các từ khóa: mã nhận diện thường trực (PID), mã nhận diện đối tượng số (DOI), mã nhận diện người đóng góp và nhà nghiên cứu mở (ORCID), đăng ký tổ chức nghiên cứu (ROR).

Abstract: Nowadays, persistent identifiers are commonly used to manage digital objects. This article suggests that Higher Education istitutions, as well as their libraries, teachers and researchers, should do the same.

Keywords: Persistent IDentifiers (PID), Digital Object Identifiers (DOI), Open Researcher and Contributor IDentifier (ORCID), Research Organization Registry (ROR).

***

1. Đặt vấn đề

Để vận hành môi trường nghiên cứu FAIR trong bối cảnh chuyển đổi số và chuyển đổi sang khoa học mở, như được nhắc lại nhiều lần trong tài liệu Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO 2021[1], một trong những điều không thể thiếu, trong vô số việc phải làm khác, là ứng dụng và phát triển hệ thống mã nhận diện thường trực - PID (Persistent IDentifier), trong đó có dịch vụ gắn PID cho nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm nhưng không bị hạn chế tới chỉ dữ liệu/siêu dữ liệu, các nhà nghiên cứu và những người đóng góp cho nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đào tạo/các viện nghiên cứu, và các đối tượng khác, đặc biệt là các đối tượng số.

2. Định nghĩa FAIR, PID và hệ thống PID

Định nghĩa FAIR. Trong phần lời nói đầu khi giới thiệu các nguyên tắc dữ liệu FAIR của FORCE11[2], một cộng đồng các học giả, thủ thư, nhân viên lưu trữ, nhà xuất bản và nhà cấp vốn nghiên cứu được hình thành để giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự thay đổi hướng tới việc tạo lập và chia sẻ kiến thức được cải thiện, có đoạn giới thiệu FAIR như sau:

Một trong những thách thức lớn của khoa học tăng cường dữ liệu là tạo thuận lợi cho việc phát hiện tri thức bằng cách hỗ trợ cho cả con người và máy trong khám phá, truy cập, tích hợp và phân tích dữ liệu khoa học phù hợp nhiệm vụ và các thuật toán/các tiến trình có liên quan. Ở đây, chúng tôi mô tả FAIR - một tập hợp các nguyên tắc làm cho dữ liệu Tìm thấy được, Truy cập được, Tương hợp được, và Sử dụng lại được - FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Reusable).”


Hình 1. Các nguyên tắc dữ liệu FAIR

Định nghĩa ở trên cho thấy, để các nguyên tắc dữ liệu FAIR hoạt động được, điều kiện tiên quyết là phải sử dụng các mã nhận diện thường trực - PID (Persistent Identifiers). FORCE11 cũng chỉ ra rằng, trên thực tế, nếu dữ liệu/siêu dữ liệu không được gắn PID, thì dữ liệu đó hầu như không sử dụng lại được (tới 80%)[3] - điều hoàn toàn trái ngược với các nguyên tắc dữ liệu FAIR.

Định nghĩa PID. Tài liệu của Knowledge Exchange định nghĩa PID[4]:

Các PID như là các mã nhận diện có thể được gắn cho bất kỳ dạng đối tượng nào (vật lý hoặc số). Chúng hầu hết đang được gắn cho con người, các tổ chức, và kết quả đầu ra nghiên cứu. Các mục đích của chúng (ngoài việc nhận diện thường trực) là để cải thiện quản lý và truy xuất thông tin nghiên cứu.

PID có 3 đặc tính là:

  • duy nhất trên toàn cầu, bao gồm cú pháp và không gian tên được kiểm soát, được các cơ quan có thẩm quyền được xác định rõ ràng điều hành quản lý;

  • thường trực, bao gồm các chức năng liên kết và phân giải thường trực và ổn định, cú pháp và các lược đồ thường trực, các đối tượng được tham chiếu thường trực;

  • phân giải được cho cả con người và máy móc, bao gồm thông tin về làm thế nào đối tượng được tham chiếu có thể tìm thấy được, truy cập được, hoặc sử dụng được sẽ được tìm ra.


Hình 2. Dữ liệu/siêu dữ liệu sẽ không sử dụng lại được nếu không có PID



Định nghĩa Hệ thống PID:

Một hệ thống PID như một tổng thể được coi là sự kết hợp được tham chiếu lẫn nhau của các định nghĩa, chính sách, dịch vụ và nguồn dữ liệu được sử dụng cho việc quản trị và sử dụng các PID. Ngay cả khi các PID chủ yếu được yêu cầu để quản lý thông tin nghiên cứu, chúng cũng nên giảm bớt gánh nặng cho cá nhân nhà nghiên cứu. Giá trị gia tăng này được minh họa rõ ràng bằng khái niệm Biểu đồ PID (PID Graph) (xem Hình 3), liên quan đến các mối quan hệ liên kết và ngữ nghĩa giữa các thực thể mà PID đã được gắn vào, chẳng hạn như con người (các nhà nghiên cứu), các tổ chức, các xuất bản phẩm nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu, việc cấp vốn và các kết quả nghiên cứu khác.”

Biểu đồ trên Hình 3 là lý tưởng, khi các PID được gắn cho con người, xuất bản phẩm, dữ liệu, tổ chức, nhà cấp vốn, và phần mềm được kết nối lẫn nhau, tương hợp được với nhau, vừa giúp quản trị và sử dụng các PID, vừa tạo ra giá trị gia tăng để làm giảm bớt gánh nặng cho các nhà nghiên cứu, dù trên thực tế, hiện nó mới ở mức rất sơ khai và có lẽ còn rất lâu nữa mới có thể hiện thực hóa được nó đạt mức tới hạn đủ lớn và mức phổ cập sau đó.


Hình 3. Biểu đồ PID của Datacite



Hệ thống các PID được coi là hạ tầng không thể thiếu của nghiên cứu khoa học ngày nay. Ở thời điểm hiện tại, hệ thống các PID này đang bị phân mảnh, chưa có được sự kết nối lẫn nhau cũng như tính tương hợp như mong muốn. Điều này được giải thích là vì các PID và hệ thống PID không đơn giản là một hệ thống thuần túy kỹ thuật, mà nó là một hệ thống kỹ thuật - xã hội, dựa vào lòng tin và rủi ro ở 4 khía cạnh: chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Để có được lòng tin và độ tin cậy cần thiết, hệ thống/hạ tầng PID cần phải được xây dựng dựa vào tính mở, bao trùm cả hai khía cạnh, tính mở kỹ thuật theo nghĩa của khả năng kết nối và tính tương hợp, và tính sẵn sàng mở của dữ liệu và siêu dữ liệu. Nguồn mở và dữ liệu mở được coi là tính năng chính cho lòng tin và độ tin cậy. Theo ngữ cảnh của khoa học mở thì hệ thống/hạ tầng PID có thể được coi như là hàng hóa công cộng, và vì thế nên được cộng đồng sở hữu và do cộng đồng điều hành. Tuy nhiên, đây là những vấn đề không được phân tích sâu ở đây, vì chúng không nằm trong phạm vi của bài viết này.

3. Hệ sinh thái PID, phân loại PID và các PID được ưu tiên sử dụng hiện nay

Các tác nhân khác nhau với các vai trò khác nhau trong hệ sinh thái PID[5], gồm:

  1. Cơ quan có thẩm quyền về PID. Một nhà kiểm soát có trách nhiệm duy trì các quy định để xác định tính toàn vẹn và tính duy nhất của các PID trong hệ thống PID.

  2. Nhà cung cấp dịch vụ PID. Một tổ chức cung cấp các dịch vụ PID tuân thủ với một hệ thống PID, tuân theo cơ quan PID của nó. Các nhà cung cấp dịch vụ PID có trách nhiệm về cung cấp, tính toàn vẹn, độ tin cậy và khả năng mở rộng phạm vi các dịch vụ PID, đặc biệt việc ban hành và phân giải các PID, mà còn cả các dịch vụ tra cứu và tìm kiếm nữa.

  3. Nhà quản lý PID. Các nhà quản lý PID có trách nhiệm duy trì tính toàn vẹn của mối quan hệ giữa các thực thể và các PID của họ, tuân thủ với một hệ thống PID được cơ quan PID xác định. Một nhà quản lý PID thường sẽ thuê bao các dịch vụ PID để cung cấp chức năng cho chủ sở hữu PID trong các dịch vụ của nhà quản lý PID đó.

  4. Chủ sở hữu PID. Một tác nhân (một tổ chức hoặc cá nhân) có quyền tạo lập một PID, chỉ định PID cho một thực thể, cung cấp và duy trì thông tin hạt nhân (Kernel Information) chính xác bao gồm vị trí cho PID đó. Chủ sở hữu PID là chủ sở hữu của bản ghi PID cá nhân.

  5. Người sử dụng đầu cuối. Người sử dụng đầu cuối các dịch vụ PID và các dịch vụ của người sử dụng PID. Chúng có thể, ví dụ là, các nhà nghiên cứu, hoặc phần mềm, hoặc các dịch vụ được sản xuất để hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu. Những người sử dụng đầu cuối sẽ sử dụng các PID để trích dẫn và truy cập các tài nguyên hoặc thông tin hạt nhân về các tài nguyên đó.

Các tác nhân được nêu ở đây là thường thấy ở mức quốc gia. Tuy nhiên, như ở trên đã nêu, 1 trong 3 đặc tính của PID là ‘duy nhất trên toàn cầu’ nên các tác nhân ở mức toàn cầu trong hệ sinh thái PID có thể sẽ khác một chút.

Định nghĩa hệ thống PID và biểu đồ PID của Datacite ở trên cho thấy, có nhiều loại PID khác nhau được gắn cho các thực thể và/hoặc đối tượng khác nhau. Thông qua các tài liệu nghiên cứu, có thể chỉ ra các loại PID khác nhau và các PID hiện đang được ưu tiên sử dụng như bên dưới đây.

Các PID có thể được phân loại theo:

  • Các PID được thiết lập tốt. Một số mã nhận diện đang được các tổ chức khắp trên thế giới sử dụng rồi, chẳng hạn, ARK, DOI, Handles, URN phân giải cho dữ liệu và các xuất bản phẩm, còn ISNI, ORCID thì trỏ tới thông tin xác thực về các cá nhân

  • Các PID nội tại. Các PID này thường do chủ sở hữu PID hoặc nhà cung cấp PID quản lý. Ví dụ điển hình là SWHID do kho lưu trữ Di sản Phần mềm (Software Heritage - https://www.softwareheritage.org/) phát hành miễn phí tại: https://docs.softwareheritage.org/devel/swh-model/persistent-identifiers.html. Ví dụ khác là mã nội dung ISCC (https://iscc.codes/) cũng phát hành miễn phí cho bất kỳ tệp kỹ thuật số các dạng đa phương tiện chung nào (văn bản, hình ảnh, âm thanh, video).

  • Các PID tự quản và các PID phi tập trung. Nhận diện tự quản (Self-sovereign identity) là “hệ thống quản lý nhận diện cho phép các cá nhân sở hữu và quản lý hoàn toàn nhận diện số của họ” mà tồn tại độc lập với các dịch vụ, ví dụ, Facebook, Google hoặc bất kỳ dịch vụ nào khác yêu cầu một cá nhân đăng nhập.

Các PID cũng có thể được phân loại theo một cách khác dựa vào thực tế ứng dụng và phát triển hiện nay trên thế giới, chẳng hạn như:

  • PID cho các đối tượng số DOI, thường được sử dụng cho các kết quả đầu ra nghiên cứu ở dạng kỹ thuật số.

  • PID cho các cá nhân như ORCID và/hoặc ResearcherID. Chúng thường được sử dụng cho các nhà nghiên cứu và những người đóng góp cho nghiên cứu.

  • PID cho các tổ chức, ví dụ như OrgID[6] và/hoặc đăng ký tổ chức nghiên cứu – ROR (Research Organization Registry). Hiện đang có nhu cầu cao về các PID này nên bao trùm cả các tổ chức trực thuộc bên trong một tổ chức.

  • PID cho các dịch vụ tác giả của tài liệu nghiên cứu về kinh tế - RAS (RePEc Author Service)[7], trong đó RePEc (Research Papers in Economics) có nghĩa là các tài liệu nghiên cứu về kinh tế.

  • Số Mẫu Chung Quốc tế - IGSN (International Generic Sample Number)[8] ban đầu từng là mã nhận diện thường trực cho các đối tượng (mẫu) vật lý, thường được sử dụng trong lĩnh vực địa lý, địa chất khoáng sản, .v.v.

  • PID cho các công cụ và tiện ích nghiên cứu PIDINST[9].

  • Và nhiều loại PID đang được phát triển và mới nổi lên khác. Cũng đã có ví dụ về việc PID mức quốc gia dù đã được phát triển tốt đã bị/được thay thế bằng PID mức quốc tế, như trong trường hợptác giả số – DAI (Digital Author Identifier)[10] của Hà Lan đã bị/được thay thế bằng các mã nhận diện mức quốc tế ORCID/ISNI.

Trên thực tế, có hàng chục loại PID khác nhau nằm trong cả 3 phân loại PID này, trong đó có DOI (nơi có chấm đỏ), như được minh họa trên Hình 4.


Hình 4. Vài chục loại PID có thể được chọn khi sử dụng ORCID



Tuy nhiên, để các PID có thể kết nối lẫn nhau và tương hợp được với nhau ở mức toàn cầu nhằm hiện thực hóa các nguyên tắc FAIR, chỉ một số ít các PID được khuyến nghị sử dụng ở thời điểm hiện nay.

Một dự án nghiên cứu khảo sát[11] được tiến hành ở Vương quốc Anh vào năm 2020 với mục đích điều tra các mức nhận thức, áp dụng và tích hợp PID vào các hệ thống nghiên cứu chủ chốt ở quốc gia này. Dự án dựa vào một loạt các PID ‘ưu tiên’ cụ thể cho nghiên cứu mở. Chúng là các PID cho các trợ cấp (các mã nhận diện Đối tượng Số - DOI, do Crossref cung cấp), cho các tổ chức (mã nhận diện Đăng ký Tổ chức Nghiên cứu - ROR), cho các kết quả đầu ra (các mã nhận diện Đối tượng Số - DOI, do Crossref và DataCite cung cấp), cho con người (Mã nhận diện Người đóng góp và Nhà nghiên cứu Mở - ORCID), và cho các dự án (Mã nhận diện Hoạt động Nghiên cứu - RAiD, do Research Data Commons của Úc cung cấp).

Tham gia khảo sát có 93 người, trong đó có 67 người (71%) làm việc trong các trường đại học hoặc viện nghiên cứu. Trả lời cho câu hỏi khảo sát: Các PID nào sau đây hiện bạn đang sử dụng hoặc có kế hoạch sử dụng trong các tổ chức của bạn? Những người trả lời đã đưa ra nhiều loại PID khác nhau, bao gồm cả 5 loại PID được ưu tiên vừa được nêu ở trên, như được minh họa trên Hình 5, với xếp hạng theo trật tự được sử dụng nhiều nhất từ trên xuống cho 5 loại PID là: (1) DOI; (2) ORCID; (3) ROR; (4) ISNI; và (5) RAiD. Kết quả cũng cho thấy, với hai loại PID được sử dụng nhiều nhất là DOI (94%) và ORCID (90%), bỏ xa các loại PID còn lại.


Hình 5. Các PID hoặc đang hoặc có kế hoạch được sử dụng trong các tổ chức

Tương tự, mức độ thỏa mãn nhiều nhất khi sử dụng các PID cũng được dành cho 5 loại PID này, nhưng với trật tự có một chút thay đổi, dù 2 vị trí đầu tiên vẫn được giữ nguyên dành cho (1) DOI (90%) và (2) ORCID (72%), như trên Hình 6.


Hình 6. Các mức thỏa mãn với các PID

4. Tích hợp DOI và ORCID, một ví dụ tích hợp các PID trong thực tế

Chương trình Chuyển đổi sang Khoa học Mở TOPS (Transform to Open Science) của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ NASA nhân sự kiện năm 2023 là năm Khoa học Mở ở nước Mỹ, đã đưa ra ‘Hướng dẫn lộ trình Khoa học Mở cho bạn’[12] với mục đích để bất kỳ ai cũng có thể bắt đầu tham gia vào khoa học mở bắt đầu bằng việc xây dựng cho bản thân mình các năng lực cốt lõi của khoa học mở, trong đó có việc: (1) biết sử dụng ORCID, Zenodo, GitHub; và (2) biết cách gắn mã nhận diện đối tượng số (DOI) cho kết quả nghiên cứu, ví dụ như một bài báo, cuốn sách, tài liệu dịch .v.v.; và vài năng lực cốt lõi khác.

Hình 7 và 8 bên dưới là ví dụ trình bày kết quả của việc sử dụng và tích hợp giữa ORCID và DOI (trên Zenodo), và là bước khởi đầu để có được một vài năng lực cốt lõi của khoa học mở, cũng vừa là bước khởi đầu để hiện thực hóa biểu đồ PID của DataCite như ở Hình 3 bên trên, bằng việc sử dụng một ORCID cho tác giả và gắn DOI cho bài tham luận được trình bày tại các hội thảo và được tải lên Zenodo.

Như trên Hình 7, bài tham luận có 2 phiên bản đều ở dạng tệp PDF và đều đã được tải lên Zenodo, với mã DOI: 10.5281/zenodo.7963261 cho phiên bản 1 (Version V1.0), mã DOI: 10.5281/zenodo.7976278 cho phiên bản 2 (Version V2.0) và mã DOI: 10.5281/zenodo.7963260 chung cho cả 2 phiên bản đó (Concept DOI).


Hình 7. Các DOI cho 2 phiên bản của cùng một tài liệu trên Zenodo

Trong khi đó trên Hình 8, là một phần của màn hình ORCID cho người sử dụng, cũng cho thấy chính xác đủ cả 3 mã DOI y hệt đó.


Hình 8. Các DOI trên Zenodo được tích hợp với ORCID của cùng một tài liệu

Với việc tích hợp ORCID và DOI (trên Zenodo), người sử dụng ORCID (Hình 8), một mặt, có thể nhấn vào các đường link của từng phiên bản DOI để đến với phiên bản tương ứng của tài liệu trước đó đã được tải lên Zenodo để có thể tải về tài liệu đó, xem tất cả các thông tin liên quan tới tài liệu đó đã được tác giả của tài liệu nhập vào Zenodo, ví dụ như, tên tác giả, ngày xuất bản, tiêu đề và mô tả tài liệu, giấy phép của tài liệu, thông tin thừa nhận ghi công cho tác giả, và nhiều thông tin liên quan khác. Mặt khác, người sử dụng ORCID cũng có thể nhấn vào đường link ‘Show more detail’ (Xem chi tiết hơn) ở phía trên bên tay phải phần màn hình ORCID tương ứng với tài liệu đó (Hình 8) để xem chi tiết các thông tin mà tác giả của tài liệu đã nhập vào trong ORCID và cho phép người sử dụng nhìn thấy, bao gồm: (1) các thông tin liên quan tới tác phẩm (2) trích dẫn; (3) các mã nhận diện thường trực; (4) những người đóng góp; (5) các thông tin khác; và (6) khả năng nhìn thấy đối với mọi thông tin tác giả nhập vào. Ngoài các thông tin liên quan tới (các) tác phẩm, bạn cũng có thể nhìn thấy nhiều chủng loại thông tin khác mà tác giả nhập vào ORCID và cho phép bạn nhìn thấy, ví dụ như về: (1) công việc của tác giả; (2) quá trình đào tạo và công tác; (3) vị trí được mời và sự khác biệt; (4) thành viên và dịch vụ; và (5) vốn cấp. Mỗi chủng loại thông tin như vậy sẽ có nhiều trường thông tin liên quan. Ngoài các chủng loại thông tin đó ra, còn có thể có những thông tin khác liên quan tới tác giả, như mã ORCID, các đường liên kết tới các website và mạng xã hội của tác giả, các từ khóa tác giả đặt cho hồ sơ ORCID của mình, và quốc gia xuất thân của tác giả.

Như vậy là, với ORCID được tích hợp với DOI (trên Zenodo) bạn sẽ không chỉ có khả năng quản lý hồ sơ nghiên cứu khoa học của bạn trên ORCID, mà bạn còn có khả năng quản lý được mọi kết quả nghiên cứu của bạn và các thông tin liên quan tới chúng mà bạn đã tải lên và/hoặc nhập vào Zenodo. Có thể điều này cũng sẽ giúp bạn mỗi lần phải viết báo cáo về các sản phẩm là kết quả nghiên cứu của bạn.

Và bạn hãy thử hình dung, nếu việc tích hợp không phải chỉ là giữa ORCID với DOI, mà còn là với cả các PID khác, như trong biểu đồ PID của DataCite ở Hình 3 bên trên, và có thể với các PID khác nữa, thì hồ sơ nghiên cứu của bạn sẽ được quản lý tuyệt vời như thế nào; và chắc chắn, nó sẽ giúp giảm nhẹ gánh nặng của bạn trong công việc báo cáo và nhiều hoạt động nghiên cứu khác nữa, trong khi nhiều nhà nghiên cứu khác có thể hưởng lợi từ việc sử dụng các kết quả nghiên cứu đã được mở ra của bạn, và ngược lại. Đây chính là cách tiếp cận của ‘Hồ sơ Tính mở’ (Openness Profile) trong tương lai của từng nhà nghiên cứu/người đóng góp cho nghiên cứu mà Khoa học Mở đang hướng tới.

5. Kết luận và gợi ý

Ngày nay, hệ thống PID là hạ tầng quan trọng không thể thiếu của nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong bối cảnh Khoa học Mở đã trở thành xu thế không thể đảo ngược của thế giới.

Số lượng các PID là rất nhiều và trong số đó vẫn có các PID đang tiến hóa và/hoặc đang nổi lên, bao trùm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, và ở nhiều mức khác nhau. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, số lượng các PID được khuyến nghị ưu tiên sử dụng là không nhiều, chúng đều ở mức toàn cầu và tập trung vào các loại PID cho 5 đối tượng sau: (1) các trợ cấp (DOI, do Crossref cung cấp); (2) các kết quả đầu ra nghiên cứu (DOI, do Crossref và DataCite cung cấp); (3) nhà nghiên cứu và người đóng góp cho nghiên cứu (ORCID); (4) các tổ chức (ROR); và (5) các dự án - các hoạt động nghiên cứu (RaiD); trong đó hai đối tượng đầu đều sử dụng mã nhận diện đối tượng số DOI.

Để bước đầu có được các kỹ năng khoa học mở cốt lõi, và quan trọng hơn, để có thể tự quản lý các hoạt động nghiên cứu, tiết kiệm thời gian và gia tăng lòng tin đối với các nhà nghiên cứu và các kết quả đầu ra nghiên cứu của chính mình trong bối cảnh của chuyển đổi số và chuyển đổi sang khoa học mở như hiện nay, cũng như theo đề xuất hướng dẫn lộ trình khoa học mở của NASA, gợi ý các các giảng viên, các nhà nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học và các viện nghiên cứu nên sử dụng ORCID để nhận diện duy nhất bản thân ở mức toàn cầu, và DOI cho các kết quả nghiên cứu của mình, rồi tích hợp chúng với nhau, ví dụ như bằng việc sử dụng Zenodo, bằng cách đó tận dụng tối đa sức mạnh của kỹ thuật số theo phương châm ‘nhập liệu một lần, sử dụng lại thường xuyên’, và... miễn phí.

Các cơ sở giáo dục đại học và các viện nghiên cứu, nơi đa số các nhà nghiên cứu làm việc, cũng sẽ hưởng lợi từ việc các nhà nghiên cứu của họ sử dụng các PID như ORCID và DOI, vì nó sẽ giúp quản lý nghiên cứu và các nhà nghiên cứu tốt hơn với các ứng dụng kỹ thuật số theo tiêu chuẩn quốc tế ở mức toàn cầu, hướng tới việc xây dựng Hồ sơ Tính mở với việc tích hợp của nhiều PID khác tương hợp được với nhau trong tương lai, như được minh họa trong biểu đồ PID của Datacite (Hình 3) với mục đích mang lại nhiều lợi ích nhất có thể cho tất cả các bên liên quan tới nghiên cứu khoa học và bản thân khoa học.

Nhu cầu xây dựng các hệ thống PID chắc chắn sẽ gia tăng trong thời gian tới khắp trên thế giới, cả ở mức quốc gia lẫn ở mức cơ sở/tổ chức, và ở Việt Nam có lẽ cũng không là ngoại lệ. Việc một hệ thống PID mức quốc gia hoạt động được cho là tốt như DAI của Hà Lan bị/được thay thế bằng các mã nhận diện mức quốc tế ORCID/ISNI gợi ý rằng, các hệ thống PID mức quốc gia/cơ sở/tổ chức, nếu được xây dựng, phải luôn nghĩ tới việc tuân thủ định nghĩa PID với 3 đặc tính của nó và phải tích hợp được với các hệ thống PID mức quốc tế ngay từ lúc thiết kế ban đầu để tránh lãng phí công sức và các nguồn lực, tránh việc phải ‘Triển khai các PID lỗi và PID không tin cậy[13] như kinh nghiệm của thế giới đã chỉ ra.

Tài liệu tham khảo

[1] UNESCO, 2021: Recommendation on Open Science: https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949. Bản dịch sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0

[2] FORCE11: The FAIR Data Principles: https://force11.org/info/the-fair-data-principles/.

[3] FORCE11: Guiding Principles for Findable, Accessible, Interoperable and Re-usable Data Publishing version b1.0: https://force11.org/info/guiding-principles-for-findable-accessible-interoperable-and-re-usable-data-publishing-version-b1-0/. Bản tiếng Việt: https://vnfoss.blogspot.com/2017/07/chi-dan-cac-nguyen-tac-xuat-ban-du-lieu.html

[4] Knowledge Exchange (2023): Building the plane as we fly it: the promise of Persistent Identifiers: https://doi.org/10.5281/zenodo.7258286. Bản dịch sang tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8102956.

[5] Knowledge Exchange (2021): KE Scoping Document (Version 5.5): Risks and Trust in Pursuit of a Well-functioning Persistent Identifier Infrastructure for Research: https://doi.org/10.5281/zenodo.5018216. Bản tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8015888

[6] Knowledge Exchange (2023): The gradual implementation of organisational identifiers (OrgIDs): https://zenodo.org/record/7327535. Bản dịch sang tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8057925

[7] Knowledge Exchange (2023): RePEc Author Service: An established community-driven PID: https://doi.org/10.5281/zenodo.7330516. Bản tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8072669

[8] Knowledge Exchange (2023): IGSN – building and expanding a community-driven PID system: https://doi.org/10.5281/zenodo.7330498. Bản tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8057894

[9] Knowledge Exchange (2023): Persistent identifiers for research instruments and facilities: an emerging PID domain in need of coordination: https://zenodo.org/record/7330372. Bản dịch sang tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8057915

[10] Knowledge Exchange (2023): Adoption of the DAI in the Netherlands and subsequent superseding by ORCID/ISNI: https://doi.org/10.5281/zenodo.7327505. Bản dịch sang tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8057937

[11] Alice Meadows and Josh Brown for JISC (2020): Persistent identifiers adoption and awareness survey report: https://repository.jisc.ac.uk/8107/1/PIDs%20for%20OA%20project%20community%20survey%20report.pdf. Bản tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8105182

[12] NASA: Guide for Your Open Science Journey: https://nasa.github.io/Transform-to-Open-Science-Book/Open_Science_Cookbook/Your_Open_Science_Journey.html. Bản tiếng Việt: https://giaoducmo.avnuc.vn/khoa-hoc-mo/huong-dan-lo-trinh-khoa-hoc-mo-cho-ban-888.html

[13] Knowledge Exchage (2023): Failed PIDs and unreliable PID implementations: https://doi.org/10.5281/zenodo.7330527. Bản tiếng Việt: https://zenodo.org/record/8015956





Giấy phép nội dung: CC BY 4.0 Quốc tế.

Tự do tải về bài viết định dạng PDF ở địa chỉ DOI: 10.5281/zenodo.10183156

ORCID logo Lê Trung Nghĩa, ORCID iD: https://orcid.org/0009-0007-7683-7703

Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở (InOER),

Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (AVU&C)

(Bài viết cho hội thảo ‘Quản trị thông tin trong kỷ nguyên số’ (IMCON2023) do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức ngày 22/11/2023)

Xem thêm: