Viện
Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục
Mở (InOER)
Hiệp
hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam (AVU&C)
----------------------------------------------------
Tóm
tắt: Bình dân học vụ số là một nhiệm vụ mới và
cấp bách hiện nay, đã được Tổng Bí thư Tô Lâm giao
cho Ban Tuyên Giáo Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục
và Đào tạo nghiên cứu để sớm triển khai. Theo đề
xuất của Ban Tuyên Giáo Trung ương cho Hiệp hội các
trường đại học cao đẳng Việt Nam, bài viết này trình
bày mục tiêu, đối tượng, nội dung, nguồn lực, phương
thức tổ chức thực hiện của Phong trào bình dân học
vụ số dưới góc nhìn năng lực số cho công dân dựa
trên hàng hóa công cộng số và các giải pháp mở nhằm
xóa mù số cho toàn dân hiệu quả và bền vững.
Từ
khóa: bình dân học vụ
số, xóa mù số, khung năng lực số cho công dân, hàng hóa
công cộng số, giải pháp mở
----------------------------------------------------
Phong
trào Bình dân học vụ ra đời (1945) là nhằm giải quyết
việc diệt "giặc dốt" - một trong các vấn đề
cấp bách nhất để xóa nạn mù chữ cho nhân dân, trong
bối cảnh ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập vào
năm 1945, có tới 95% dân số mù chữ và ngân sách dành
cho giáo dục rất thiếu thốn, dựa vào sức dân là
chính1.
Trong
kỷ nguyên số ngày nay, việc xóa mù số
cho toàn dân cũng là nhiệm vụ cấp bách, như ‘Phát
biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi gặp mặt đại
diện nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhân Ngày Nhà
giáo Việt Nam 20/11’2
nêu một trong những việc cần làm ngay là: “(ii)
Phát động thực hiện phong trào "bình dân học vụ
số". Thực tế hiện nay, còn tỷ lệ lớn người
dân, kể cả cán bộ trong cơ quan nhà nước chưa nắm
vững về chuyển đổi số; trong khi đó, Bộ Chính trị
đã bàn và quyết định sẽ ban hành Nghị quyết về
chuyển đổi số quốc gia. Để thực hiện thành công
Nghị quyết này, yêu cầu nhanh chóng phổ
cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân
đang đặt ra cấp thiết.”
1.
Mục tiêu
Mục
tiêu của phong trào bình dân học vụ số
là xóa mù số cho toàn dân
thông qua việc phổ cập tri thức cơ bản về
chuyển đổi số cho toàn dân
để góp phần đạt được “mục tiêu kép là vừa phát
triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình
thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực
đi ra toàn cầu, như mục tiêu cơ bản được nêu trong
Quyết định 749/QĐ-TTg3
ngày 03/06/2020 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt
"Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030".
Định
nghĩa chuyển đổi số:
Chuyển
đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện
của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và
phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.
Cẩm
nang chuyển đổi số (2021, trang 21)4
2.
Đối tượng
Đối
tượng của phong trào bình dân học vụ số là bất kỳ
công dân Việt Nam nào, vì, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã
nêu ở trên ‘Thực
tế hiện nay, còn tỷ lệ lớn người dân, kể cả cán
bộ trong cơ quan nhà nước chưa nắm vững về chuyển đổi
số’. Khi nói bất
kỳ công dân Việt Nam nào,
là bao gồm cả tất cả những người có chuyên môn về
công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) và/hoặc đang
làm việc trong chuyên ngành CNTT-TT.
3.
Nội dung
Khác
biệt cơ bản giữa việc xóa mù chữ trong phong trào bình
dân học vụ thời kỳ 1945 với việc xóa mù số trong
phong trào bình dân học vụ số ngày nay nằm ở chỗ là
việc xóa mù chữ đòi hỏi mọi người dân phải biết
đọc biết viết chữ quốc ngữ, còn việc xóa mù số
đòi hỏi mọi người dân phải có năng lực kỹ thuật
số, hay, năng lực số.
Định
nghĩa năng lực số và các thành phần của nó5
Năng
lực số được định nghĩa là: việc sử dụng tự tin,
nghiêm túc và có trách nhiệm và tham gia với các công
nghệ số để học tập, làm việc, và tham gia trong xã
hội; Năng lực số được xây dựng dựa vào: (1) Kiến
thức; (2) Kỹ năng; và (3) Thái độ; trong đó:
Kiến
thức: kết quả của sự hấp thụ thông tin lý thuyết
hoặc thực tế bằng cách học. Kiến thức là tập hợp
các sự kiện, nguyên tắc, lý thuyết và thực hành có
liên quan đến lĩnh vực công việc/nghiên cứu.
Kỹ
năng: khả năng áp dụng kiến thức và sử dụng hiểu
biết để hoàn thành các nhiệm vụ và giải quyết vấn
đề. Có thể: kỹ năng nhận thức/thực hành.
Thái
độ: động cơ thúc đẩy sự thực thi, gồm: (1) các giá
trị; (2) cảm hứng; và (3) ưu tiên.
3.1
Khung năng lực số và sự cần thiết của nó
Để
biết một cá nhân hay tổ chức bất kỳ nào có năng lực
số hay không, và ở mức thông thạo nào, chúng ta sẽ cần
tới các Khung năng lực số.
Trên
thế giới có nhiều khung năng lực số khác nhau cho nhiều
đối tượng khác nhau, ví dụ, châu Âu có hàng loạt các
Khung năng lực số, chẳng hạn như: Khung năng lực số
cho tổ chức giáo dục; Khung năng lực số cho nhà giáo
dục; Khung năng lực cho khởi nghiệp/doanh nghiệp;
Khung năng lực số cho người tiêu dùng; Khung năng lực số
cho học tập suốt đời; Khung năng lực số cho công dân,
trong đó, Khung năng lực số cho công dân là Khung cơ bản
nhất với lập luận rằng, bất kể bạn là ai, trước
hết bạn phải là một công dân.
Bên
cạnh các Khung năng lực số mục đích chung nêu trên, còn
có các khung năng lực số dành riêng cho các lĩnh vực/ngành
khác nhau, ví dụ như Khung năng lực số cho y tế, du lịch,
v.v.
Nhiều
Khung năng lực số nêu trên đã được dịch sang tiếng
Việt6,
bao gồm cả Khung năng lực số cho công dân phiên bản mới
nhất v2.2 của Ủy ban châu Âu,
và bất kỳ ai cũng có thể tải xuống các tệp tài liệu
đó.
Nói
ngắn gọn, Khung năng lực số là không thể thiếu, vì nó
trả lời cho câu hỏi: Ai, tổ chức nào có năng lực số,
và nếu có, thì ở mức thông thạo nào.
Thành
phần của Khung năng lực số
Khung
năng lực số định nghĩa và mô tả các năng lực số
quan trọng nhất trong một lĩnh vực nhất định, thường
đi kèm với các thành phần sau:
Lĩnh
vực năng lực với một mô tả ngắn gọn cho lĩnh vực
đó;
(Các)
Năng lực trong một Lĩnh vực năng lực cụ thể & mô
tả cho từng năng lực;
Mức
thông thạo đối với từng năng lực cụ thể. Ví dụ,
theo Khung Trình độ châu Âu (EQF) có 4 mức thông thạo cơ
bản, gồm: Cơ bản, Trung bình, Cao, và Chuyên gia (Cao đặc
biệt). Mỗi mức này lại được chia thành 2 mức nhỏ,
vì thế tổng cộng sẽ có 8 mức thông thạo. Các giáo
viên/giảng viên phải có mức thông thạo Cao chứ không
thể ở mức Cơ bản hay Trung bình. Theo tài liệu được
Ủy ban châu Âu xuất bản
năm 2016 thì “khoảng
85% tất cả các việc làm ở Liên minh châu Âu cần ít
nhất mức kỹ năng số cơ bản”7
trong khi một cuộc khảo sát năm 2017 cho thấy 43% dân số
của Liên minh châu Âu không có đủ mức kỹ năng số
(không có kỹ năng hoặc có nhưng thấp) và 10% lực
lượng lao động không có kỹ năng số.
Tại Việt Nam chưa có khảo sát nào tương tự như vậy.
Các
ví dụ về kiến thức, kỹ năng, và thái độ đối với
từng năng lực số.
Kịch
bản sử dụng: thường có 2 kịch bản: (1) cho giáo dục;
và (2) cho việc làm. Theo cách tiếp cận về Khung năng
lực số của châu Âu, thì một công dân cần có năng
lực số để: (1) có khả năng được tuyển dụng để
có việc làm; (2) để có việc làm tươm tất hơn; và
(3) để tự khởi nghiệp. Các kịch bản giải thích cho
các nhu cầu về năng lực số của công dân.
Hình
1. Khung năng lực số cho công dân (DigComp) của Ủy
ban châu Âu
Khung
năng lực số cần phải được triển khai trong thực tế
và cập nhật liên tục
Khung
năng lực số chỉ là Khung lý thuyết.
Để sử dụng tốt Khung năng lực số, quốc gia
và/hoặc tổ chức cần đưa nó vào thực tế cuộc sống
bằng việc tùy chỉnh nó cho phù hợp với bối cảnh của
quốc gia/tổ chức của mình. Các quốc gia thành viên của
Liên minh châu Âu và nhiều tổ chức ở đó, cả công và
tư, đều đã và đang tùy chỉnh các Khung năng lực số
mục đích chung được nêu ở trên cho phù hợp với bối
cảnh của từng quốc gia/tổ chức của mình. Điều này
gợi ý rằng, Việt Nam cũng có thể thực hiện việc tùy
chỉnh tương tự, chứ không cần phải ‘làm lại cái
bánh xe’ từ đầu.
Trường
hợp điển hình về các tổ chức nhà nước, cơ sở giáo
dục và công ty triển khai Khung năng lực số cho công dân
(DigComp) trong thực tế tại các quốc gia trong và ngoài
châu Âu được ghi lại thành sách là: DigComp
at Work
và DigComp
in Action.
Việc
nhiều tổ chức nhà nước, cơ sở giáo dục và công ty
tùy chỉnh Khung năng lực số vào thực tế cuộc sống
giúp cho Khung năng lực số có thể được cập nhật liên
tục qua thời gian cho sát với thực tế cuộc sống hơn
sau khi nhận được phản hồi từ các triển khai thực tế
đó, nhất là khi các công nghệ CNTT-TT phát triển rất
nhanh và liên tục thay đổi. Điều này được thể hiện
thông qua sự cập nhật liên tục, ví dụ, của Khung năng
lực số cho công dân (DigComp) các phiên bản khác nhau qua
thời gian: v1.0 năm 2013; v2.0 năm 2016; v2.1 năm 2017; và v2.2
năm 2022.
Phiên
bản gần đây nhất của Khung năng lực số cho công dân
là DigComp v2.2 năm 2022 có 259 ví dụ8, trong đó
có 35 ví dụ liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI), chiếm
13,5% tổng số các ví dụ. Điều này gợi ý rằng, hoàn
toàn có thể sử dụng Khung năng lực số cho công dân
v2.2 của châu Âu và tùy chỉnh cho phù hợp với bối cảnh
của Việt Nam với trí
tuệ nhân tạo (AI) đã
được tích hợp đầy đủ sẵn trong Khung.
Khung
năng lực số không đi một mình
Để
có thể đánh giá được một cách định lượng xem ai,
tổ chức nào có năng lực số và với mức thông thạo
nào, thì Khung năng lực số không thể chỉ đi một mình,
mà cần có bộ các sản phẩm sau đây:
Khung
năng lực số, để biết
ai hoặc tổ chức nào thực sự có năng lực số và ở
mức thông thạo nào.
Công
cụ đánh giá năng lực số.
Công cụ này thường được tạo thành từ 2 thành tố:
(1) phần mềm dựa vào công nghệ web; (2) ngân hàng các
câu hỏi với càng nhiều câu hỏi càng tốt để có thể
có được nhiều đề bài khác nhau cho cùng một mức
thông thạo của cùng một năng lực cho các lần tự đánh
giá khác nhau. Công cụ này giúp đánh giá từng năng lực,
từng lĩnh vực năng lực một cách định lượng dựa
vào việc tính điểm và xếp hạng mức thông thạo thông
qua việc trả lời các câu hỏi trong ngân hàng câu hỏi.
Công cụ này cũng cung cấp vài cách đánh giá năng lực,
một trong số đó là bất kỳ ai cũng có thể tự đánh
giá và tự đánh giá lại năng lực số của mình, tương
tự như công cụ tự đánh giá Khung năng lực số PIX tại
địa chỉ https://app.pix.org/inscription.
Hình
2
chỉ ra kết quả tự đánh giá năng lực số PIX của một
người, gồm có điểm số (41), mức thông thạo (mức
5/8) của một trong số các năng lực số PIX, cùng với
gợi ý các chủ đề và liệt kê các nội dung của từng
chủ đề để người tự đánh giá có thể học để
nâng cao điểm số và mức thông thạo của năng lực số
đó trong lần tự đánh giá tiếp sau nếu người đó
muốn. Một địa chỉ khác để tự đánh giá năng lực
số là:
https://digital-skills-jobs.europa.eu/digitalskills/screen/home.
Cả hai công cụ tự đánh giá được nêu ở đây đều
chưa làm được bằng tiếng Việt.
Hình
2. Kết quả tự đánh giá một năng lực theo Khung năng
lực số PIX.
Chương
trình đào tạo để có được từng năng lực trong Khung
năng lực số. Việc xây
dựng chương trình đào tạo có thể có vài cách, một
trong số đó là dựa vào các tiêu chuẩn đầu ra của
từng năng lực số trong Khung năng lực số được chọn.
Hình 3 là ví dụ
về chương trình đào tạo năng lực số tương ứng với
Khung năng lực số cho công dân (DigComp) của Ủy ban châu
Âu của trường Đại học Anglia Ruskin với 2 cột đầu
tương ứng với Khung năng lực số cho công dân (DigComp),
còn cột 3 tiếp sau là chương trình đào tạo để có
được từng năng lực số của Khung đó.
Hình
3. Chương trình đào tạo năng lực số của trường
Đại học Anglia Ruskin
Chứng
nhận năng lực số. Người
dùng cần có khả năng tự đánh giá và tự đánh giá
lại năng lực số và mức độ thông thạo năng lực số
của mình bất kỳ khi nào, bất cứ ở đâu, nhằm đáp
ứng nhu cầu của mình đối với các yêu cầu của các
nhà tuyển dụng việc làm và/hoặc tự khởi nghiệp.
Việc chứng nhận năng lực số có thể thông qua một
chương trình phần mềm dựa vào công nghệ web hệt như
công cụ đánh giá năng lực số như được nêu ở trên.
Sau khi trải qua quá trình tự đánh giá, người
dùng có thể có được chứng nhận năng lực số ở
dạng chứng chỉ số cho đầy đủ toàn bộ các năng lực
số, hoặc chứng chỉ số vi mô cho từng năng lực số
hoặc từng lĩnh vực năng lực số của Khung năng lực
số tương ứng.
Khung
năng lực số cho công dân ở Việt Nam
Ngày
18/10/2024, UBND thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định số
2242/QĐ-UBND9
Ban hành Khung năng lực số cho Công dân trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng. Đây là Khung năng lực số cho công
dân đầu tiên ở Việt Nam. Khung này dựa chủ yếu vào
Khung năng lực số cho công dân (DigComp) của Liên minh châu
Âu và gồm 5 lĩnh vực: (1) Thông tin và dữ liệu; (2)
Truyền thông và cộng tác; (3) Tạo lập nội dung số; (4)
Bảo vệ và An toàn; và (5) Môi trường kỹ thuật số;
cùng với 17 năng lực số thành phần và 173 tiêu chí đánh
giá theo các mức thông thạo khác nhau.
Hình
4. Khung năng lực số cho
công dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.2
Không chỉ năng lực số, mà còn cả văn hóa số và các
giải pháp mở
3.2.1
Văn hóa số
Đã
có nghiên cứu chỉ ra rằng, văn hóa là rào cản đáng kể
nhất đối với quá trình chuyển đổi số, đứng trên
nhiều yếu tố có liên quan khác như trên Hình 5.
Hình
5. Văn hóa là rào cản lớn
nhất đối với chuyển đổi số
Một
ví dụ nhỏ sau đây cho thấy văn hóa số với việc cộng
tác và chia sẻ mở sẽ giúp cho đặc tính nhân bản số
có chi phí xấp xỉ bằng không (0) (có thể chỉ cần kết
nối Internet) thăng hoa trong chuyển đổi số, làm lợi cho
tất cả mọi người và cho xã hội:
Giả
sử, một cuốn sách giáo khoa về toán học được sử
dụng trong chương trình giáo dục cơ bản của tất cả
các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Nếu
cuốn sách đó ở dạng giấy, thư viện của từng trường
cần có 1 hoặc nhiều cuốn sách giáo khoa để có thể
phục vụ cho sinh viên. Bất kể số lượng nhiều bao
nhiêu, có một thực tế là cùng một lúc, không thể có
2 sinh viên cùng mượn và cùng đọc một cuốn sách đó.
Nhưng nếu cuốn sách đó được số hóa (cấp độ đầu
tiên của chuyển đổi số) thành một tệp dạng số, ví
dụ, một tệp .PDF, rồi được đưa lên mạng Internet sau
khi được cấp phép mở để trao quyền trước cho người
dùng, thì cùng một lúc, có thể hàng vạn sinh viên ở
nhiều trường khác nhau, bất kể trong hay ngoài nước,
đều có thể cùng một lúc đọc được cuốn sách đó.
Đấy là chưa kể sách giáo khoa (kỹ thuật) số có thể
có các tính năng mà bất kỳ cuốn sách giáo khoa truyền
thống nào - gồm chỉ dạng văn bản và hình ảnh tĩnh
trong không gian 2 chiều - cũng không thể có được, như
các tính năng đa phương tiện (âm thanh và video), hình ảnh
động trong không gian 3 chiều, các mô phỏng tương tác,
và nhiều tính năng tiên tiến khác, được nhúng trong các
sách giáo khoa số.
Ngược
lại, nếu không tận dụng được các tính năng đặc thù
này của (kỹ thuật) số và không áp dụng văn hóa số,
ví dụ như nếu tất cả các trường đều số hóa cùng
một cuốn sách giáo khoa mà họ đều cần để phục vụ
cho sinh viên của mình, thì sẽ gây ra sự tốn kém và
lãng phí nhiều tiền bạc, thời gian, công sức của rất
nhiều người. Một khi không có sự cộng tác và chia
sẻ mở, chuyển đổi số sau vài năm có thể tạo ra hàng
chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn ốc đảo số, và
điều này có thể trở thành thảm họa quốc gia.
Tài
liệu từ Diễn đàn kinh tế thế giới, tháng 6/2021 chỉ
ra 4 trụ cột của văn hóa số như trên Hình 6,
gồm: (1) Cộng tác; (2) Dữ liệu dẫn dắt; (3) Hướng tới
khách hàng; và (4) Đổi mới sáng tạo.
Chính
phủ rất nên có chính sách cấp phép mở rõ ràng, yêu
cầu rằng tất cả các tài nguyên/dữ liệu được tạo
ra từ tiền ngân sách nhà nước/tiền từ những người
đóng thuế, thông qua các đề tài, chương trình, dự án
của nhà nước thì bắt buộc phải cấp phép mở để
mọi người đóng thuế/người dân đều có thể sử dụng
và chia sẻ chúng hợp pháp, miễn là các tài nguyên/dữ
liệu đó không thuộc về các vấn đề bí mật/an ninh
quốc gia, quyền riêng tư của công dân và/hoặc bất kỳ
điều cấm kỵ nào khác được pháp luật nêu rõ ràng.
Bằng cách này, các trụ cột của văn hóa số như trên
Hình
6
đều sẽ được thúc đẩy. Việc tôn trọng bản quyền
và cấp phép/giấy phép cho các tài nguyên/dữ liệu được
tạo ra bằng việc số hóa cũng là một trong các năng lực
số mà bất kỳ công dân nào cũng cần có trong chuyển
đổi số, như trong Khung năng lực số cho công dân
(DigComp) ở Hình
1.
Hình
6. Các trụ cột của văn
hóa số
3.2.2
Các giải pháp mở
Cũng
tương tự như phong trào bình dân học vụ thời kỳ 1945,
phong trào bình dân học vụ số diễn ra trong bối cảnh
Việt Nam nói chung, giáo dục Việt Nam nói riêng còn có
nhiều khó khăn, trong khi “Đầu
tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo chưa
tương xứng với yêu cầu đổi mới và phát triển giáo
dục, trong khi xã hội hóa các nguồn lực đầu tư còn
gặp nhiều khó khăn”
(trích Phát biểu của TBT Tô Lâm2),
thì các giải pháp mở là cần thiết hơn bao giờ hết
đối với Việt Nam.
Theo
UNESCO định nghĩa trong tài liệu10
gần đây của mình, “Các
giải pháp mở, chúng là các hàng hóa công cộng kỹ thuật
số - DPG (Digital Public Goods) có sẵn dựa vào một giấy
phép bản quyền mở
đã trở thành thiết yếu trong hàng loạt các lĩnh vực,
bao gồm việc học tập (tài nguyên giáo dục mở), phần
mềm (phần mềm tự do nguồn mở), khoa
học (truy
cập mở), và chính phủ (dữ liệu mở). Các
giải pháp mở, nhờ vào chế độ sở hữu trí tuệ của
chúng, cho phép tính linh hoạt, khả năng mở rộng, và
tính tương hợp để thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức
và quyền truy cập tới thông tin”.
Trong
cùng tài liệu này, UNESCO giải nghĩa: “Giấy
phép bản quyền mở:
các giấy phép mở là các giấy phép tôn trọng các quyền
sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu bản quyền và cung
cấp sự cho phép trao cho công chúng các quyền để truy
cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh và phân
phối lại các tài liệu thông tin. Các loại giấy phép mở
được sử dụng khác nhau tùy theo giải pháp mở. Giấy
phép mở phổ biến nhất là Creative Commons (CC)”.
Trong
một tài liệu khác gần đây của UNESCO ‘Dự
thảo Tuyên bố Dubai về Tài nguyên Giáo dục Mở:
Hàng hóa công cộng kỹ thuật số (DPG) và các công nghệ
mới nổi lên vì quyền truy cập công bằng và toàn diện
tới tri thức’11, Hàng hóa công cộng kỹ
thuật số (DPG) được
Lộ trình Hợp tác Kỹ thuật số của Tổng Thư ký Liên
hiệp quốc định nghĩa như là “phần
mềm nguồn mở, dữ liệu mở, các mô hình AI mở, các
tiêu chuẩn mở và nội dung mở mà gắn với quyền riêng
tư và các luật hiện hành khác và các thực hành tốt
nhất, không gây hại, và giúp đạt được các mục tiêu
phát triển bền vững (SDG)”
và “Các
DPG sẵn có với giấy phép bản quyền mở đã trở thành
thiết yếu trong nhiều lĩnh vực bao gồm giáo dục, với
Tài nguyên Giáo dục Mở”.
Tất
cả những điều nêu trên cho thấy, Phong trào bình dân
học vụ số, với mục tiêu xóa mù số cho toàn dân, cần
phải dựa trên các giải pháp mở, đặc biệt là Tài
nguyên Giáo dục Mở (TNGDM) trong lĩnh vực giáo dục.
Hình
7. TNGDM (OER) trong Khung năng lực số cho các cơ sở
giáo dục13
Cũng
cần bổ sung thêm rằng các giải pháp mở luôn được
tích hợp trong các khung năng lực số của Ủy
ban châu Âu, nổi bật nhất là thông qua Tài nguyên
Giáo dục Mở và việc cấp phép mở12, chẳng
hạn như trong: Khung năng lực số cho công dân (DigComp),
Khung năng lực số cho nhà giáo dục (DigCompEdu), và đặc
biệt được nêu bật trong Khung năng lực số cho tổ chức
giáo dục (DigCompOrg) như được minh họa trên Hình 7
(Yếu tố phụ ‘Nội dung số và TNGDM được thúc đẩy
- Digital content & OER are promoted’ nằm trong yếu tố
chính ‘Nội dung và chương trình giảng dạy - Content &
curricula’).
Điều
quan trọng của các giải pháp mở là các hàng hóa công
cộng kỹ thuật số – DPG (Digital Public Goods), bao gồm
phần mềm nguồn mở, dữ liệu mở, các mô hình AI mở,
các tiêu chuẩn mở và nội dung mở, bao gồm cả tài
nguyên giáo dục mở, là những hàng hóa kỹ thuật số mà
bất kỳ ai cũng có quyền không mất tiền để truy
cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh và phân
phối lại chúng, bất kể tình trạng xuất thân của
họ về tài chính, mức giáo dục, giới tính, dân tộc,
quốc tịch, tôn giáo, ngôn ngữ hay văn hóa, nơi sinh sống
v.v., điều mà Phong trào bình dân học vụ số cần triệt
để sử dụng để có thể tạo nên chính sách “cưỡng
bức học năng lực số không mất tiền” tương tự
như chính sách “cưỡng bức học chữ quốc ngữ không
mất tiền” của phong trào bình dân học vụ gần 80
năm trước, được nhắc đến trong bài phát biểu của
Tổng Bí thư Tô Lâm được nêu ở trên.
Điều
này không đồng nghĩa với việc ứng dụng và phát triển
các giải pháp mở là hoàn toàn miễn phí. Ví dụ, trong
trường hợp của tài nguyên giáo dục mở (TNGDM), các nhà
giáo dục vừa đóng vai trò là người sử dụng, vừa
đóng vai trò là người thiết kế/tạo lập TNGDM. Khi nhà
giáo dục là người sử dụng, thì họ sẽ “không
mất tiền để truy cập, sử dụng lại, tái
mục đích, tùy chỉnh,
và phân phối lại” TNGDM; nhưng khi nhà giáo dục là
người thiết kế/tạo lập TNGDM, thì để “đầu tư vào
việc phát triển các khóa học và các tư liệu, tìm ra
TNGDM thích hợp, tùy chỉnh
TNGDM đang có sẵn”, thì họ lại rất cần có
đủ các nguồn lực, có thể bao gồm cả công sức, tiền
bạc và thời gian, để thực hiện, và vì thế họ cần
phải được đền bù xứng đáng. Ví dụ khác, cũng cần
phải có tiền để duy trì hệ thống hạ tầng lưu trữ
các TNGDM để mọi người có thể không mất tiền để
truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh, và
phân phối lại chúng; tuy nhiên, tiền hay chi phí người
sử dụng trong trường hợp này có thể phải chi trả là
để duy trì hệ thống, chứ không phải là để mua TNGDM
- điều hoàn toàn trái với định nghĩa của TNGDM. Cả 2
ví dụ nêu ở đây đều áp dụng được tương tự cho
tất cả các thành phần còn lại của giải pháp mở. Có
thể nói ngắn gọn rằng, ứng dụng các giải pháp mở
thì không mất tiền, nhưng phát triển chúng thì cần có
tiền.
4.
Nguồn lực và các mô hình bền vững
Chuyển
đổi số là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự đầu
tư vào nhiều loại nguồn lực khác nhau. Một mặt, với
giả thiết tổ chức chịu trách nhiệm quản lý và điều
hành phong trào bình dân học vụ số vận hành như một
doanh nghiệp công ích, thì dưới đây là một số nguồn
lực chính thường được sử dụng trong quá trình chuyển
đổi số của một doanh nghiệp mà Phong trào bình dân học
vụ số có thể tính tới:
Nguồn
lực vật chất:
Hạ
tầng & nền tảng công nghệ: phần cứng, phần mềm,
các thiết bị kết nối.
Hạ
tầng & nền tảng dữ liệu: lưu trữ và xử lý dữ
liệu; nên theo hướng mở14
15.
Nguồn
lực tài chính:
Đầu
tư ban đầu: mua sắm thiết bị, xây dựng cơ sở hạ
tầng và triển khai dự án.
Chi
phí vận hành: bảo trì, nâng cấp hệ thống, đào tạo
nhân viên và khác.
Ngân
sách cho nghiên cứu và phát triển: phát triển các sản
phẩm, dịch vụ và giải pháp công nghệ mới.
Nguồn
lực con người:
Nhân
lực chuyên môn: chuyên gia công nghệ thông tin, nhà khoa
học dữ liệu, kỹ sư phần mềm, chuyên gia bảo mật,
và chuyên gia các lĩnh vực khác.
Nhân
lực quản lý: Đảm bảo thực hiện chiến lược chuyển
đổi số hiệu quả.
Nhân
viên tuyến đầu: Được đào tạo để sử dụng các
công cụ và ứng dụng mới.
Nguồn
lực thông tin:
Dữ
liệu/tài nguyên số: tài sản quý giá nhất trong chuyển
đổi số, nên là mở.
Kiến
thức: ưu tiên kiến thức về công nghệ, thị trường,
khách hàng theo hướng mở, dựa vào các mô hình cung cấp
dịch vụ.
Nguồn
lực cộng đồng: dựa vào các quan hệ đối tác theo mô
hình cộng đồng mở.
Lưu
ý: Việc đầu tư vào các nguồn lực này cần được
cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả và tối
ưu hóa chi phí. Ngoài ra, tổ chức quản lý điều hành
phong trào cũng cần xây dựng một chiến lược chuyển
đổi số rõ ràng và cụ thể để định hướng cho quá
trình này.
Mặt
khác, vì phong trào bình dân học vụ số nên triệt để
sử dụng các giải pháp mở, nó có thể sẽ triển khai
một số mô hình sinh doanh thu có tính bền vững của phần
mềm nguồn mở16 và/hoặc TNGDM17, thường
dựa vào việc bán các dịch vụ xung quanh các sản phẩm
của chung cộng đồng, chứ không bán các sản phẩm của
chung cộng đồng.
Có
nhiều mô hình bền vững cho TNGDM18 và không có
mô hình nào là vừa cho tất cả các bên liên quan. Các mô
hình bền vững TNGDM không nên chỉ tập trung vào khía
cạnh sinh doanh thu, mà còn cần phải tập trung vào khía
cạnh thu hồi các chi phí để tạo lập, tùy chỉnh và
duy trì dài hạn TNGDM, bao gồm cả chi phí duy trì, mở
rộng quy mô mạng và hạ tầng cho TNGDM. Trên hết tất
cả, các “Mô hình bền vững TNGDM phải tính đến giá
trị TNGDM tạo ra để làm cho nó có thể hoàn thành các
tầm nhìn, mục tiêu và mục đích đa dạng của giáo
dục”, như được nêu trong mục tiêu phát triển bền
vững 4 (SDG4) về giáo dục của Liên hiệp quốc đến năm
2030: “Đảm bảo giáo dục có chất lượng, công bằng
và toàn diện, đồng thời thúc đẩy cơ hội học tập
suốt đời cho tất cả mọi người”, chứ không chỉ
tính tới duy nhất giá trị về kinh tế - tài chính. Phong
trào bình dân học vụ số có thể áp dụng nguyên tắc
này nhằm đạt được mục tiêu tối thượng là xóa mù
số cho tất cả mọi người. Theo Paul Stacey, công thức về
tính bền vững của TNGDM được minh họa như trên Hình
8 với lưu ý: “Công thức đơn giản này khẳng
định rằng tính bền vững liên quan tới việc kết hợp
các nguồn lực để sinh ra lợi ích xã hội với việc
kết nối con người. Các tổ chức theo đuổi chiến lược
này có mục tiêu nhằm cung cấp giá trị và xây dựng mối
quan hệ trước. Một khi những điều đó đã sẵn sàng,
có thể tạo ra giá trị tương hỗ có đi có lại giữa
tất cả những người tham gia, từ đó hình thành một mô
hình bền vững. Nếu không có 1 trong 3 thành phần trên,
thì công việc cần phải làm để biến không thành có
trước khi một mô hình bền vững có thể được tạo
ra”.
Hình
8. Công thức về tính bền vững cho TNGDM của Paul
Stacy
5.
Phương thức tổ chức thực hiện
Có
thể coi việc triển khai bình dân học vụ số như một
dự án dịch vụ công sử dụng các giải pháp mở với
sự tham gia của toàn xã hội.
Để
các giải pháp mở có thể thành công, trước hết cần
tập hợp được nguồn lực từ các bên liên quan đến
chúng, và tại Việt Nam, trước hết là Câu lạc bộ Phần
mềm Tự do Nguồn Mở (VFOSSA)19, một đơn vị
trực thuộc Hội Tin học Việt Nam (VAIP), nơi tập hợp
các thực thể và cá nhân, cả công ty CNTT-TT, trường đại
học, và cá nhân với các hoạt động tập trung vào phần
mềm nguồn mở và các giải pháp mở. Thứ hai, là Vụ
Giáo dục Đại học và các trường đại học hiện đang
triển khai các nội dung của Quyết định số 1117/QĐ-TTg20
ngày 25/09/2023 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt
Chương trình xây dựng mô hình nguồn tài nguyên giáo dục
mở trong giáo dục đại học cho đến năm 2030. Thứ ba là
toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm toàn bộ các Trung
tâm Giáo dục Thường xuyên và Giáo dục Nghề nghiệp
trên cả nước, cùng các bên liên quan khác, như các Hiệp
hội giáo dục, các tổ chức đoàn thanh niên, phụ nữ,
các Hội/Hiệp hội nghề nghiệp và các tổ chức đoàn
thể khác. Việc đào tạo năng lực số nên theo cách đào
tạo người đi đào tạo trước, rồi sau đó mới tiến
hành đào tạo người dùng đầu cuối theo các đối tượng
khác nhau.
Về
lý thuyết, có thể có nhiều cách để tổ chức và triển
khai một dự án dịch vụ công thành công, dưới đây gợi
ý về một cách như vậy với 6 bước cụ thể sau:
Việc
tổ chức và triển khai một dự án dịch vụ công thành
công đòi hỏi phải có kế hoạch cẩn thận, thực hiện
hiệu quả và cam kết mạnh mẽ với dịch vụ công đó.
Sau đây là hướng dẫn từng bước để giúp bạn điều
hướng quy trình:
Xác
định vấn đề và đặt mục tiêu rõ ràng:
Xác
định nhu cầu: Nêu rõ vấn đề hoặc thách thức mà dự
án hướng đến.
Đặt
mục tiêu: Thiết lập các mục tiêu cụ thể, có thể
đo lường được, có thể đạt được, có liên quan và
có thời hạn.
Hiểu
đối tượng mục tiêu: Xác định nhóm người cụ thể
mà dự án sẽ mang lại lợi ích cho họ.
Tiến
hành nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng:
Thu
thập thông tin: Thu thập dữ liệu và thông tin chi tiết
liên quan đến vấn đề, bao gồm các giải pháp hiện
có, các thách thức tiềm ẩn và các biện pháp thực
hành tốt nhất.
Phân
tích dữ liệu: Sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ
liệu để xác định các mô hình, xu hướng và các giải
pháp tiềm năng.
Xác
định các bên liên quan chính: Xác định những ai sẽ
bị ảnh hưởng bởi dự án và những ai có thể đóng
góp vào sự thành công của dự án.
Phát
triển kế hoạch dự án toàn diện:
Phân
chia công việc: Chia nhỏ dự án thành các nhiệm vụ nhỏ
hơn, dễ quản lý hơn.
Phát
triển khung thời gian: Thiết lập khung thời gian thực
tế cho từng nhiệm vụ và toàn bộ dự án.
Phân
bổ nguồn lực: Phân công trách nhiệm, lập kế hoạch
ngân sách và phân bổ các nguồn lực cần thiết.
Đánh
giá rủi ro: Xác định rủi ro tiềm ẩn và phát triển
chiến lược giảm thiểu.
Thu
hút các bên liên quan và xây dựng quan hệ đối tác:
Giao
tiếp hiệu quả: Chia sẻ thông tin với các bên liên
quan, giữ cho họ được thông tin và tham gia.
Xây
dựng các mối quan hệ: Nuôi dưỡng mối quan hệ bền
chặt với các bên liên quan chính để có được sự hỗ
trợ và đồng thuận.
Hợp
tác với các đối tác: Làm việc với các tổ chức
hoặc cơ quan khác để tận dụng các nguồn lực và
chuyên môn.
Triển
khai dự án:
Thực
hiện kế hoạch dự án: Tuân thủ mốc thời gian của
dự án và phân bổ nguồn lực theo kế hoạch.
Theo
dõi tiến độ: Theo dõi tiến độ thường xuyên và điều
chỉnh khi cần thiết.
Giải
quyết vấn đề: Chủ động xác định và giải quyết
mọi vấn đề phát sinh.
Thích
ứng với thay đổi: Linh hoạt và sẵn sàng điều chỉnh
kế hoạch khi hoàn cảnh thay đổi.
Đánh
giá và đo lường tác động:
Thu
thập dữ liệu: Thu thập dữ liệu về kết quả và tác
động của dự án.
Phân
tích kết quả: Đánh giá hiệu quả của dự án trong
việc đạt được các mục tiêu của nó.
Rút
kinh nghiệm: Xác định các bài học kinh nghiệm và áp
dụng chúng vào các dự án trong tương lai.
Chia
sẻ kết quả: Truyền đạt những thành công và thách
thức của dự án cho các bên liên quan và cho công chúng.
Các
gợi ý bổ sung để thành công:
Chấp
nhận sự đổi mới: Cởi mở với những ý tưởng và
cách tiếp cận mới.
Ưu
tiên tính bền vững: Thiết kế các dự án có tác động
lâu dài.
Tập
trung vào công bằng: Đảm bảo rằng dự án mang lại lợi
ích cho tất cả mọi người, bất kể xuất thân hay hoàn
cảnh.
Tìm
kiếm phản hồi: Chủ động thu thập ý kiến đóng góp
từ các bên liên quan để cải thiện dự án.
Tôn
vinh thành công: Ghi nhận và khen thưởng những đóng góp
của các thành viên trong nhóm và các đối tác.
Lưu
ý: Dù áp dụng phương thức tổ chức thực hiện nào,
cũng nên định hướng theo công thức về tính bền vững
cho TNGDM như trên Hình 8.
6.
Kết luận và gợi ý
Phong
trào bình dân học vụ số với mục đích xóa mù số cho
toàn dân thông qua việc phổ cập tri thức cơ bản về
chuyển đổi số cho đối tượng là toàn dân là một
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay. Để có thể
hoàn thành được nhiệm vụ này, về mặt nội dung, cần
phải xây dựng một khung năng lực số cho công dân, có
thể trên cơ sở tùy chỉnh khung năng lực số cho công
dân có sẵn rồi của nước ngoài cho phù hợp với bối
cảnh và các điều kiện của Việt Nam. Đà Nẵng là
thành phố đầu tiên của Việt Nam đã ban hành Khung năng
lực số cho công dân trên địa bàn thành phố theo cách
này và có thể là điểm tham chiếu tốt cho Phong trào
bình dân học vụ số. Khung năng lực số không đi một
mình, mà đi cùng với công cụ đánh giá năng lực số,
chương trình đào tạo năng lực số và việc chứng thực
năng lực số.
Để
có thể ‘cưỡng bức học năng lực số không mất
tiền’ cho đối tượng là toàn dân, Phong trào bình
dân học vụ số, về mặt nội dung, cần dựa trên các
giải pháp mở và hàng hóa công cộng kỹ thuật số vì
đó là các tài nguyên mà bất kỳ ai cũng có quyền hợp
pháp không mất tiền để truy cập, sử dụng lại, tái
mục đích, tùy chỉnh và phân phối lại chúng, miễn là
người dùng biết cách thừa nhận ghi công đúng cho các
tác giả gốc ban đầu và tuân theo các điều khoản và
điều kiện của giấy phép mở được gắn với từng
tài nguyên đó.
Bên
cạnh việc giáo dục năng lực số và sử dụng các giải
pháp mở, Phong trào bình dân học vụ số cũng cần chú
trọng việc giáo dục văn hóa số cho toàn dân.
Cần
huy động và tận dụng mọi nguồn lực cần thiết để
thực hiện được mục tiêu xóa mù số cho toàn dân, chú
ý tới các mô hình bền vững của phần mềm nguồn mở
và TNGDM, đặc biệt là việc xây dựng 3 thành phần của
công thức về tính bền vững của TNGDM (Hình 8) và
áp dụng nó cho tất cả các giải pháp mở.
Phương
thức tổ chức thực hiện được nêu trong bài viết có
thể là một lựa chọn để xem xét, bên cạnh nhiều lựa
chọn lý thuyết và/hoặc thực hành có thể khác. Tuy
nhiên, dù bất kỳ phương thức tổ chức thực hiện nào
được lựa chọn, thì Phong trào bình dân học vụ số
cũng rất nên tập hợp tất cả các bên liên quan, đặc
biệt là các bên liên quan đến các giải pháp mở, vốn
dĩ rất ít và hiếm ở Việt Nam hiện nay.
Tài
liệu tham khảo
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Bài
viết cho Tọa đàm khoa học: Phong
trào Bình dân học vụ số, tiền đề thực hiện thắng
lợi Cách mạng về chuyển đổi số trong kỷ nguyên vươn
mình của dân tộc,
do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức ngày 18/12/2024 tại
Hà Nội.
Bài viết có trong tài liệu Tọa đàm.
Tự
do tải về bài viết định dạng PDF ở địa chỉ DOI:
10.5281/zenodo.14515376
Xem thêm: