Open
Educational Resources Sustainability Models
Lê
Trung Nghĩa, ORCID iD: https://orcid.org/0009-0007-7683-7703
Viện
Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục
Mở -
InOER (Institute for Research, Training and Development of Open
Educational Resources)
Hiệp
hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam (AVU&C)
***
Tóm
tắt:
Quyết
định 1117/QĐ-TTg ngày 25/09/2023 của Thủ tướng Chính
phủ:
Phê duyệt Chương trình xây dựng mô hình nguồn tài
nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học. Bài viết
này đưa ra một số mô hình bền vững Tài nguyên Giáo
dục Mở (TNGDM) đã và đang được triển khai hoặc gợi
ý triển khai trên thế giới, cả ở khía cạnh kinh tế -
tài chính và khác, cũng như ở mức độ triển khai chúng
cho một cơ sở giáo dục, quốc gia và thế giới, cùng
với một vài gợi ý để có thể triển khai chúng hiệu
quả ở Việt Nam.
Từ
khóa:
các mô hình bền vững tài nguyên giáo dục mở.
Abstract:
Decision 1117/QD-TTg dated September 25, 2023 of the Prime Minister:
Approving the Program to build a model of open educational resources
in higher education. This article presents a number of Open
Educational Resources sustainability
models that
have been implemented or suggested to be implemented in the world,
both in economic - financial and other aspects, as well as at the
level of implementation for an educational institution, the country
and the world, along with a few suggestions for how to implement them
effectively in Vietnam.
Keywords:
open
educational resources sustainability models.
1.
Đặt vấn đề
TNGDM
được định nghĩa là các tài nguyên giáo dục đáp ứng
các điều kiện: bất kỳ ai cũng có khả năng miễn
phí để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy
chỉnh và phân phối lại các tài nguyên đó,
bất kể chúng thuộc về phạm vi công cộng hay có bản
quyền đã được cấp phép mở, thường là một trong các
giấy phép Creative Commons đáp ứng các điều kiện nêu
trên. Các mô hình TNGDM bền vững nào có thể đáp ứng
được các điều kiện như vậy?
2.
Cơ sở lý luận
Để
đáp ứng các điều kiện được nêu trong định nghĩa
TNGDM, cần có cách tiếp cận đổi mới sáng tạo đối
với các mô hình bền vững TNGDM, chẳng hạn như các mô
hình sinh doanh thu và/hoặc thu hồi các chi phí từ việc
ứng dụng và phát triển TNGDM trong dài hạn, cùng lúc
phải tính đến giá trị TNGDM tạo ra để làm cho nó có
thể hoàn thành các tầm nhìn, mục tiêu và mục đích đa
dạng của giáo dục.
Nếu
chỉ nhìn từ góc độ giá trị về kinh tế - tài chính,
có thể thấy có nghịch lý là TNGDM không có ý định
sinh doanh thu nhưng việc bỏ qua doanh thu từ TNGDM có thể
làm cho nó không bền vững, đặc biệt khi cần phải tính
tới các hoạt động tốn chi phí/nguồn lực nhằm tạo
lập, duy trì tính sẵn sàng, đảm bảo chất lượng, khả
năng tiếp cận và sự tham gia của người học với TNGDM
trong dài hạn.
3.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Không
có nhiều tài liệu nghiên cứu về các mô hình bền vững
TNGDM dù điều này ngày càng được cải thiện trong những
năm gần đây, đặc biệt với sự thúc đẩy của một
trong năm lĩnh vực hành động được nêu trong Khuyến
nghị TNGDM của UNESCO[1] năm 2019, cụ thể: “(iv) Nuôi
dưỡng sự sáng tạo các
mô hình bền vững cho TNGDM:
hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo các mô hình bền vững
cho TNGDM ở các mức quốc gia, khu vực và cơ sở, và lên
kế hoạch và kiểm thử thí điểm các dạng thức bền
vững mới của giáo dục và học tập.”
Thông
qua công việc phân tích/tổng hợp và dịch (nếu cần)
các thông tin/tài liệu thu thập được, bài viết trình
bày các kết quả ban đầu như bên dưới đây.
4.
Các mô hình bền vững cho TNGDM
4.1
Các mô hình bền vững về kinh tế - tài chính
Một
số tài liệu gần đây đã liệt kê hàng loạt, dù không
là vét cạn, các mô hình bền vững cho TNGDM về mặt kinh
tế - tài chính và hầu như đều thống nhất rằng để
thành công, một cơ sở giáo dục nên triển khai không chỉ
một mô hình duy nhất, mà nên kết hợp triển khai cùng
một lúc vài mô hình mà cơ sở cho là phù hợp nhất với
mình ở từng thời điểm, và các mô hình đó có thể
được chia thành 3 chủng loại chính[2] như sau:
4.1.1
Các mô hình dựa vào cộng đồng (Community-based models)
Mô
hình dựa vào cộng đồng.
Trong mô hình này, các thành viên của một cộng đồng
hoặc mạng lưới TNGDM cộng tác tạo ra và sử dụng
TNGDM. Doanh thu có thể được sinh ra bằng việc đặt chỗ
lưu trữ cho hạ tầng cần thiết hoặc tính phí cho hoạt
động có liên quan. Một ưu điểm ở đây là các cộng
đồng có nguồn lực (đặc biệt nguồn nhân lực) có
thể được rút ra để sử dụng và phát triển chuyên
môn ngang hàng.
Mô
hình Chương trình Trực tuyến (Online Programme model).
Mô hình này được hiện thực hóa bằng cách mở rộng
giáo dục mặt
đối mặt
sang các khóa học trên trực tuyến hoặc kết hợp. Điều
này hơi có vấn đề vì nội dung thường chỉ được
truy cập bởi các sinh viên đã đăng ký chứ không phải
là nội dung “mở”
cho bất kỳ ai.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này có lẽ đã trở nên phổ
biến hơn với việc chuyển sang giáo dục trên trực
tuyến do đại dịch Covid-19.
4.1.2
Các mô hình dựa vào từ thiện (Philanthropy-based models)
Mô
hình chính phủ (Governmental model).
Trong mô hình này, các cơ quan chính phủ quốc gia và quốc
tế cung cấp vốn cho việc tạo lập TNGDM. Điều này
(cùng với hoạt động từ thiện) là cách mà nhiều sáng
kiến TNGDM theo truyền thống đã được cấp vốn nhưng
phụ thuộc khá nhiều vào các ưu tiên chính trị và
chiến lược của những người bên ngoài bản thân một
cơ sở giáo dục. Cũng có sự cạnh tranh khốc liệt đối
với một số dòng vốn cấp này, có thể khiến việc
lập kế hoạch dài hạn trở nên phức tạp.
Mô
hình cơ sở (Institutional model).
Đây là mô hình với các hoạt động theo cách tương tự
với mô hình chính phủ nhưng ở quy mô nhỏ hơn, nơi các
nhà cung cấp giáo dục đại học dành một phần ngân
sách của họ cho các chương trình TNGDM. Điều này thường
được thực hiện theo những cách thức nhất quán với
triết lý mở, nhưng lại liên quan đến sự cạnh tranh
vì các nguồn lực khan hiếm mà không ảnh hưởng nhiều
đến việc xây dựng năng lực dài hạn. Ngoài ra còn có
nguy cơ là các ưu tiên chiến lược có thể thay đổi
nhanh chóng.
Mô
hình quyên góp (Donations model).
Mô hình này bao gồm các khoản quyên góp từ các cơ
quan, hiệp hội, ngành, chính phủ hoặc các tổ chức phi
chính phủ. Hình thức tài trợ này phụ thuộc rất nhiều
vào các nguồn lực bên ngoài và có thể được coi là
phiên bản thu nhỏ của mô hình từ thiện với những
rủi ro rõ ràng - nhưng vẫn có thể hoạt động khi có
nguồn tài trợ đáng kể, ví dụ thế.
Mô
hình Thay thế (Substitution model).
Mô hình này nhằm tiết kiệm chi phí từ việc chuyển
đổi các dịch vụ dư thừa (ví dụ: các hệ thống lỗi
thời) sang các chương trình TNGDM.
4.1.3
Các Mô hình dựa vào doanh thu (Revenue-based models)
Mô
hình bán kinh nghiệm khóa học (Selling course experience
model) hoặc mô hình “Freemium”.
Đây là mô hình theo đó tư liệu giáo dục (ví dụ:
slide trình chiếu, văn bản, dữ liệu) được cung cấp
miễn phí. Tính bền vững ở đây bắt nguồn từ các
nguồn thu nhập được cung cấp cùng với điều này,
chẳng hạn như việc trả lời các câu hỏi, đưa ra phản
hồi về bài nộp, giám sát nghiên cứu và kiểm tra, cũng
như chứng nhận. Vấn đề của mô hình này nằm ở chỗ:
làm thế nào để chuyển đổi người sử dụng thành
các khách hàng trả tiền.
Mô
hình Tài trợ/Quảng cáo (Sponsorship/Advertising model).
Mô hình này dựa vào việc tạo ra doanh thu bằng cách cho
sinh viên tiếp xúc với các thông điệp thương mại. Bị
nhiều người cho là phi đạo đức và xung đột với các
mục tiêu của giáo dục, mô hình này cũng đặt ra câu
hỏi về những gì liên quan đến giao dịch giữa nhà
giáo dục, người học và nhà tài trợ cũng như các
thước đo đánh giá thành công.
Mô
hình bán dữ liệu (Selling data model).
Theo mô hình này, doanh thu được tạo ra bằng cách bán
dữ liệu về hoạt động của những người sử dụng
một môi trường học tập (có thể được sử dụng để
kiểm
thử
và cải thiện việc học tập, liên kết các ứng viên
với công việc hoặc chỉ để đăng nội dung trên trực
tuyến). Đây là một cách tiếp cận khác chứa đầy
những lo ngại về đạo đức nhưng có thể được thực
hiện theo những cách thức mà mọi người có thể đồng
ý với giả định rằng có đủ sự minh bạch về những
gì đang diễn ra. Ưu điểm là có rất nhiều tổ chức
sẵn sàng trả tiền cho loại dữ liệu này.
Mô
hình thành viên (Membership model).
Có lẽ ở đâu đó giữa mô hình dựa vào cộng đồng
và doanh thu, là mô hình thành viên dựa vào các tổ chức
đóng góp cho trường đại học bằng tiền, dịch vụ và
hàng hóa để đổi lấy các đặc quyền như quyền truy
cập sớm tới các quyết định về lộ trình và phát
hành các chính sách. Điều này đòi hỏi sự phù hợp
tốt giữa các ưu tiên của trường đại học/doanh
nghiệp và ưu tiên của nhà tài trợ theo thời gian để
có thể bền vững.
Mô
hình Phân đoạn (Segmentation model).
Mô hình này dựa vào việc bán các bản sao cứng TNGDM ở
dạng giấy cho sinh viên. Cách tiếp cận này có thể bị
giới hạn trong các bối cảnh khá cụ thể, quy mô nhỏ
hơn, chẳng hạn như thay thế sách giáo khoa sở hữu độc
quyền.
Mô
hình Tác giả trả tiền (Author pays model).
Theo mô hình này, các nhà xuất bản tạo doanh thu bằng
cách tính phí đối với người tạo nội dung (ví dụ
như trong trường hợp tính phí xử lý bài viết - APC
[Article Processing Charges]). Tuy nhiên, trong trường hợp của
TNGDM, thường có nhu cầu tối thiểu đối với nhà xuất
bản bên thứ ba. Hơn nữa, vấn đề ai trả tiền vẫn
còn nhưng cần cân nhắc thêm về việc cần phải trả
tiền cho nhà xuất bản. Những cách tiếp cận như thế
này được cho là có lợi cho những người có khả năng
tiếp cận nguồn vốn cấp và phân biệt đối xử với
những người chuyên nghiệp ít thành danh hơn hoặc những
người đến từ các khu vực có ít nguồn vốn cấp hơn.
4.1.4
Đặc tính và tầm quan trọng của các mô hình bền vững
về kinh tế - tài chính
Từ
gần 10 năm trước, các tác giả Dominic Orr, Michele Rimini
và Dirk Van Damme (2015) cũng chia các mô hình bền vững
TNGDM theo 3 chủng loại hệt như ở trên, cùng với các
đặc tính của từng chủng loại đó, như được minh họa
trên Hình 1[3]. Các đặc tính đối với từng chủng loại
mô hình được thể hiện ở: (1) Sự khan hiếm về tài
nguyên; (2) Thước đo thành công; và (3) Các thách thức
đối với TNGDM. Các tác giả cũng đưa ra các
thông điệp chính sách chủ chốt
như sau:
Các
mô hình cấp vốn cho TNGDM là quan trọng. Nếu thực hành
TNGDM chuyển sang xu hướng chủ đạo thì những thách
thức về tính bền vững kinh tế và việc đối phó với
quy mô lớn phải được giải quyết. Do đó, điều quan
trọng là phải xem xét các mô hình cấp vốn và thu hồi
chi phí đang được các nhà sản xuất TNGDM sử dụng để
trang trải chi phí sản xuất ban đầu. Đây là các mô
hình sản xuất, quyên góp và trợ cấp cộng đồng (phi
thị trường) và các mô hình doanh thu thường kết hợp
các sản phẩm hoặc dịch vụ miễn phí và các sản phẩm
hoặc dịch vụ tạo doanh thu.
Nguồn
vốn cấp ngắn hạn có nhiều thách thức. Nhiều sáng
kiến TNGDM bắt nguồn từ sự đóng góp của các quỹ từ
thiện hoặc nguồn tài trợ của chính phủ và chắc chắn
phải đối mặt với câu hỏi điều gì sẽ xảy ra với
các tài nguyên và hoạt động của chúng khi các dòng vốn
cấp đó kết thúc hoặc khi sáng kiến cần mở rộng quy
mô.
Các
mô hình doanh thu hỗn hợp đang nổi lên. Một số sáng
kiến TNGDM đã thực hiện chuyển đổi mô hình cấp vốn
của họ sang mô hình kinh doanh, với các dòng doanh thu bổ
sung được khai thác để đảm bảo tính bền vững theo
thời gian. Ngoài ra, còn có các ví dụ về các tổ chức
định hướng doanh thu (đặc biệt là các nhà xuất bản)
sản xuất TNGDM để duy trì tính đổi mới và hấp dẫn
đối với thị trường chính của họ. Nhìn chung, người
ta mong đợi rằng nhiều mô hình hỗn hợp hơn sẽ xuất
hiện, trong đó TNGDM sẽ chỉ là một phần của chương
trình học tập kỹ thuật số.
Hình
1. Các chủng loại mô hình bền vững cho TNGDM với các
đặc tính của chúng
Các
tác giả Tlili, A., Nascimbeni, F., Burgos, D., Zhang, X., Huang,
R., & Chang, T. W. (2020)[4] trong tài liệu của mình cũng
liệt kê 10 mô hình sinh doanh thu của TNGDM, nhiều trong số
đó là tương tự như các mô hình được nêu ở trên, và
đưa ra bảng xếp
hạng theo thứ tự từ mô hình được thiết lập tốt
nhất trở xuống, dựa trên giá trị trung bình xếp hạng
và độ lệch chuẩn – SD (Standard Deviation) của từng mô
hình, cùng với các ví dụ được triển khai trong thực
tế ứng với từng mô hình đó. Lưu ý là Bảng 1 đã
liệt kê tất cả các ví dụ được các chuyên gia đưa
ra, trong giáo dục đại học và trong các bối cảnh giáo
dục phi đại học. Bảng 1 cho thấy, 3
xếp hạng cao nhất trong bảng đều là các mô hình dựa
vào từ thiện.
Bảng
1. Độ chín của các mô hình TNGDM dựa vào đánh giá của
chuyên gia
4.1.5
Vai trò của chính phủ nhằm tạo thuận lợi cho TNGDM phát
triển
Vai
trò của chính phủ là rất quan trọng trong việc tạo
thuận lợi để ứng dụng và phát triển TNGDM thông qua
các can thiệp chính sách và vốn cấp của nó.
Cơ
sở lý luận cho sự can thiệp của chính phủ
Các
chính phủ có thể tham gia vào việc cung cấp các tài liệu
TNGDM để đảm bảo quyền truy cập rộng rãi tới các
tài nguyên giáo dục chất lượng cao cho tất cả công dân
của mình. Các chính phủ có nhiều khả năng can thiệp
vào việc cung cấp hiện hành để giúp các sáng kiến
TNGDM trở nên bền vững theo thời gian. Sự can thiệp như
vậy sẽ được xác định bằng đánh giá của chính phủ
về tính hiệu quả và giá trị đồng tiền của TNGDM,
đặc biệt so với các chào bán độc quyền hiện có. Sáu
thách thức giáo dục cụ thể mà các chính phủ có thể
coi là lý do hỗ trợ TNGDM được nhấn mạnh gồm[5]: (1)
Thúc đẩy việc sử dụng các hình thức học tập mới
cho thế kỷ 21; (2) Thúc đẩy sự phát triển và gắn kết
nghề nghiệp của giáo viên; (3) Bao gồm các chi phí giáo
dục công và tư (Mức độ tham gia cao hơn vào các hệ
thống giáo dục trên toàn thế giới dẫn đến thách thức
về chia sẻ chi phí giữa ngân sách công và hộ gia đình
tư nhân để trang trải chi phí cho tài liệu học tập
chất lượng cao); (4) Không ngừng nâng cao chất lượng
các tài nguyên giáo dục; (5) Mở rộng phổ biến các tài
nguyên giáo dục chất lượng cao; và (6) Giảm thiểu
các
rào cản đối với các cơ hội học tập.
Trang
trải chi phí phát triển và sản xuất ban đầu
Hỗ
trợ của chính phủ có thể là trực tiếp (hỗ trợ sản
xuất) hoặc gián tiếp (hỗ trợ sử dụng). Điều này có
nghĩa là chính phủ có thể cung cấp kinh phí và đào tạo
để khởi động các mô hình dựa vào cộng đồng hoặc
cấp vốn hạt giống cho các mô hình dựa vào doanh thu.
Một cách gián tiếp, ví dụ, chính phủ cũng có thể thay
đổi các quy định về thuế để khiến việc quyên góp
trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp tư
nhân.
Trang
trải chi phí để tiếp tục bảo trì và tùy chỉnh
Trừ
khi trực tiếp điều hành chương trình phát triển TNGDM,
chính phủ thường giảm sự tham gia của mình sau khi cung
cấp vốn hạt giống cho một sáng kiến. Tuy nhiên, chính
phủ có thể can thiệp bằng cách hỗ trợ các tổ chức
TNGDM trong các giai đoạn tiếp theo, hoặc bằng cách cung
cấp hỗ trợ kỹ thuật sẵn có cho tất cả các sáng
kiến TNGDM. Chính phủ có thể sử dụng ảnh hưởng của
mình để thúc đẩy việc tạo lập, tùy chỉnh và sử
dụng TNGDM, ví dụ, thông qua hỗ trợ đào tạo giáo viên
về sử dụng và tùy chỉnh TNGDM (Dominic Orr, Michele Rimini
và Dirk Van Damme (2015), Chương 11). Ngoài ra, bất cứ khi
nào TNGDM được sử dụng như một sự thay thế cho các
dạng tài liệu giáo dục truyền thống (ví dụ như sách
giáo khoa) và các cơ chế mua sắm công được áp dụng,
chính phủ có thể nhận trách nhiệm đảm bảo việc duy
trì và tùy chỉnh các tài liệu theo thời gian.
Thước
đo thành công
Với
trách nhiệm tổng thể đối với hoạt động hiệu lực
và hiệu quả của giáo dục, các chính phủ sẽ tập
trung vào tác động của việc thực hành TNGDM, hơn là
tính bền vững của các hoạt động riêng lẻ. Tần
suất và chất lượng của việc tạo lập và sử dụng
TNGDM sẽ là tiêu chí để đo lường sự thành công trong
hoạt động của nó.
Chính phủ có thể thường xuyên xem xét lại những điều
này để đảm bảo tính bền vững của TNGDM theo thời
gian.
4.2
Không chỉ là các mô hình bền vững về kinh tế - tài
chính
4.2.1
Mô hình bền vững TNGDM phải tính đến giá trị TNGDM
tạo ra để làm cho nó có thể hoàn thành các tầm nhìn,
mục tiêu và mục đích đa dạng của giáo dục
Trong
bài viết “Các
mô hình bền vững”[6]
đề ngày 29/09/2023 trên blog của mình, tác giả Paul
Stacey, sau khi liệt kê hàng loạt các mô hình bền vững
TNGDM như được nêu ở trên, đã bình luận về chúng như
bên dưới đây:
Trích
dẫn:
“TNGDM
không chỉ là tài nguyên giáo dục, chúng còn là các tài
nguyên giáo dục “MỞ”. Việc duy trì phần mở của
TNGDM là cần thiết nhưng còn thiếu trong các mô hình đó.
Thực hành mở phải được nhúng vào bất kỳ mô hình
bền vững TNGDM nào.
Mô
hình bền vững không là y hệt như mô hình tài chính.
Hầu hết các mô hình ví dụ tập trung vào các vấn đề
tài chính. Trong khi các cân nhắc về tài chính là một
phần chắc chắn của mô hình bền vững thì chúng không
là tất cả mọi điều. Ngoài ra các mô hình ví dụ tập
trung vào doanh thu mà không cân nhắc đến các chi phí.
Nhiều
mô hình tài chính là phương tiện đơn giản sinh doanh thu
từ các mô hình kinh doanh truyền thống và không phù hợp
với giáo dục cũng như cách thức nó được cấp vốn.
Các mô hình đó hoàn toàn không tính tới kinh tế của mở
khác với kinh tế của không mở như thế nào, và cách
thức mà mở làm thay đổi không chỉ mô hình tài chính
cho giáo dục, mà còn cả thực hành của nó.
Các
mô hình đó không đề cập tới vòng đời đầy đủ của
TNGDM - từ tạo lập, tới sử dụng, tới lưu trữ và
phân phối, tới duy trì và cải tiến. Một
mô hình bền vững phải tính đến toàn bộ vòng đời và
việc quản lý cần thiết để đảm bảo tính thường
trực và lâu dài.
TNGDM giống như những sinh vật sống cần được chăm sóc
và nuôi dưỡng liên tục. Những mô hình hiện hành nói
rất ít về phương tiện để thực hiện điều này. Một
mô hình bền vững phải làm rõ cách TNGDM liên quan đến
việc cộng tác với những người khác để tạo lập,
duy trì và quản lý thứ gì đó có giá trị chung.
Và
cuối cùng những mô hình đó bỏ qua bối cảnh giá trị
lớn hơn. Truy cập, bao gồm, khả năng tùy chỉnh, và chất
lượng chỉ là một vài cách thức mà TNGDM cải thiện đề
xuất giá trị của giáo dục. Các mô hình đó không đề
cập đến giá trị hoặc giả định có sự ngang bằng về
giá trị giữa TNGDM và các tài nguyên giáo dục đóng
truyền thống hơn. Mô
hình bền vững TNGDM phải tính đến giá trị TNGDM tạo
ra để làm cho nó có thể hoàn thành các tầm nhìn, mục
tiêu và mục đích đa dạng của giáo dục.”
Hết
trích dẫn
Paul
Stacy cũng là đồng tác giả của cuốn sách “Làm bằng
Creative Commons”[7], nó mô
tả mở có ý nghĩa như thế nào với tư cách là một mô
hình đối với các tổ chức. Nó phân tích các mô hình
kinh doanh mở và cung cấp hồ sơ của 24 tổ chức, khắp
tất cả các lĩnh vực, những người đã nghĩ ra các mô
hình bền vững đó, và tất cả chúng đều là các mô
hình độc đáo.
Điểm
chung của tất cả các mô sinh doanh thu từ các sản phẩm
được các tác giả của chúng cấp phép mở Creative
Commons và chia sẻ mở trên Internet nằm ở chỗ: các mô
hình sinh doanh thu của họ đều bắt nguồn từ việc bán
các dịch vụ xung quanh các sản phẩm, chứ không từ việc
bán trực tiếp các sản phẩm đó.
Không
có mô hình nào là vừa cho tất cả mọi người. Từ 24
ví dụ đó, tác giả đã đưa ra công thức đơn giản cho
tính bền vững của TNGDM, như được minh họa trên Hình
2.
Hình
2. Công thức về tính bền vững cho TNGDM của Paul Stacy
Công
thức đơn giản này khẳng định rằng tính bền vững
liên quan tới việc kết hợp các nguồn lực để sinh ra
lợi ích xã hội với việc kết nối con người.
Các tổ chức theo đuổi chiến lược này có mục tiêu
nhằm cung cấp giá trị và xây dựng mối quan hệ trước.
Một khi những điều đó đã sẵn sàng, có thể tạo ra
giá trị tương hỗ có đi có lại giữa tất cả những
người tham gia, từ đó hình thành một mô hình bền vững.
Nếu
không có 1 trong 3 thành phần trên, thì công việc cần
phải làm để biến không thành có trước khi một mô
hình bền vững có thể được tạo ra.
Khi
tham gia Dự án Sách Mở (Open Book) do cựu Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton khởi xướng, Paul Stacy đã
trình bày một Khung TNGDM Quốc gia MENA (MENA National OER
Framework) vào tháng 10/2014 cho việc lập kế hoạch và
triển khai TNGDM, như
một ví dụ về mô hình bền vững TNGDM mức quốc gia cho
các quốc gia
Trung Đông và Bắc Phi - MENA (Middle East and North Africa),
được minh họa trên Hình 3.
Hình
3. Khung TNGDM Quốc gia MENA của Paul Stacy
Hình
3 rõ ràng chỉ ra rằng, một mô hình bền vững TNGDM mức
quốc gia hoàn toàn không chỉ là một mô hình bền vững
về kinh tế - tài chính, mà như bản thân Paul Stacy đã
chỉ ra trước đó: “Mô
hình bền vững TNGDM phải tính đến giá trị TNGDM tạo
ra để làm cho nó có thể hoàn thành các tầm nhìn, mục
tiêu và mục đích đa dạng của giáo dục”.
Mô hình bền vững của Khung TNGDM Quốc gia này, trước
nhất đi từ mục đích
chiến lược (Strategic
Purpose) của
giáo dục, nhấn mạnh nỗ lực cộng tác trên toàn hệ
thống, phát triển các tài nguyên giáo dục có giá trị
tập thể và các cách thức độc đáo mà
việc
thực hành mở có thể cải thiện giáo dục. Nó đáp ứng
cả ba yếu tố trong công thức bền vững trên Hình 2.
4.2.2
Mô hình bền vững hệ điều hành mở
Việc
áp dụng mô hình hệ điều hành mở cho TNGDM, như được
Paul Stacy gợi ý trên Hình 4, đòi hỏi phải kiểm tra tất
cả các quy trình vận hành giáo dục qua lăng kính mở.
Theo Paul Stacy, làm như vậy sẽ dẫn đến các mô hình bền
vững TNGDM mới.
Hiện
tại hầu hết các sáng kiến TNGDM được thực hiện dưới
dạng dự án với nguồn vốn một lần với ngày bắt đầu
và kết thúc cố định. Thực hiện theo cách này TNGDM chỉ
là phần bổ sung gia tăng cho các quy trình vận hành hiện
có. Một
mô hình bền vững TNGDM đòi hỏi việc định vị mở là
cốt lõi cho tất cả các hoạt động của tổ chức.
Hình
4. Mô hình bền vững Hệ điều hành Mở của Paul Stacy
Các
thực hành mở trong giáo dục mở rộng vượt ra ngoài
TNGDM để bao gồm Truy cập Mở, Khoa học Mở, Dữ liệu
Mở và nguồn mở (ngụ ý phần mềm nguồn mở). Về mặt
chiến lược, việc kết hợp các thành phần mở khác
nhau này lại với nhau thừa nhận và củng cố mục đích
và thực hành chung của chúng. Tổng thể của tất cả
các thành phần mở này lớn hơn tổng các thành phần của
chúng. Một cách tiếp cận hệ điều hành mở toàn diện
với sự đồng vận của tất cả các thành phần mở này
sẽ tạo ra một mô hình bền vững mang tính tổng hợp
mạnh mẽ hơn, Mô hình Bền vững Hệ điều hành Mở
(Open Operating System Sustainability Model), thay vì chỉ giới
hạn với TNGDM.
Việc
hợp nhất các thành phần mở khác nhau sẽ làm tăng tất
cả các biến số trong công thức bền vững trên Hình 2.
Nói chung, có một đề xuất giá trị lớn hơn, lợi ích
xã hội được tạo ra lớn hơn và tổng số người sử
dụng, người tham gia, các đối tác và cộng tác viên đều
tăng lên.
4.2.3
Mô hình bền vững tài sản chung toàn cầu
TNGDM
là hàng hóa chung toàn cầu (Global Public Goods). Tuy nhiên,
các mô hình bền vững hiện tại không xem xét đến bản
chất toàn cầu của chúng. Mô hình bền vững chung toàn
cầu hướng tới việc thực hiện giáo dục như một
quyền cơ bản của con người và tập hợp tất cả các
nhà cung cấp giáo dục trong nỗ lực tập thể chung để
cung cấp giáo dục như một tài sản chung toàn cầu (A
Global Public Commons).
Hình
5. Mô hình bền vững tài sản chung toàn cầu của UNESCO
và UNICEF
UNESCO
và UNICEF đang dẫn dắt sáng kiến toàn cầu Cổng Gateways
Học tập Kỹ thuật số Công cộng (Gateways to Public
Digital Learning[8]) với “Mục đích là để giúp các quốc
gia nhận ra và hành động dựa trên các khả năng của
quốc gia, khu vực và toàn cầu nhằm thúc đẩy giáo dục
thông qua hợp tác và đoàn kết kỹ thuật số. Internet
mang lại những khả năng chưa từng có để chia sẻ, hợp
tác và tổng hợp các nguồn lực có thể mang lại lợi
ích cho người học, giáo viên và gia đình ở các quốc
gia và xuyên các quốc gia. Sáng kiến này nhằm mục đích
tối đa hóa các hành động hợp tác này.”
Các
nỗ lực hiện tại tập trung vào hai cam kết quan trọng
đã nổi lên trong Hội nghị Thượng đỉnh Chuyển đổi
Giáo dục gần đây[9]:
Thiết
lập và cải tiến liên tục các nền tảng học tập kỹ
thuật số quốc gia với các tài nguyên giáo dục phù hợp
với chương trình giảng dạy, chất lượng cao, đảm
bảo chúng miễn phí, mở và truy cập được cho tất cả
mọi người,
phù hợp với Khuyến
nghị Tài nguyên Giáo dục Mở của UNESCO,
và tôn trọng sự đa dạng của ngôn ngữ và các phương
pháp học tập, đồng thời đảm bảo quyền riêng tư và
bảo mật dữ liệu của người dùng.
Đảm
bảo các nền tảng này trao quyền cho các giảng viên,
người học và gia đình, hỗ trợ khả năng tiếp cận
và chia sẻ nội dung, đồng thời đáp ứng nhu cầu đa
dạng của người dùng bao gồm người học khuyết tật,
trẻ em gái và phụ nữ cũng như những người đang di
chuyển.
Thật
tuyệt vời khi thấy sự kết hợp Khuyến
nghị Tài nguyên Giáo dục Mở của UNESCO
vào trong nỗ lực này.
Hy
vọng một ngày không xa, Việt Nam sẽ được ghi nhận như
một trong các cổng vào quốc gia trong mô hình bền vững
tài sản chung toàn cầu của UNESCO và UNICEF.
5.
Kết luận và gợi ý
Hiện
đang tồn tại nhiều mô hình bền vững TNGDM và hầu hết
chúng thường tập trung vào khía cạnh kinh tế - tài
chính, như để sinh doanh thu từ việc ứng dụng và phát
triển TNGDM, và chúng thường nằm ở 3 chủng loại: dựa
vào (1) cộng đồng; (2) từ thiện; và (3) doanh thu. Trong
số các mô hình đó, các mô hình chính phủ cấp vốn và
cơ sở giáo dục cấp vốn được cho là bền vững nhất,
dù được khuyến cáo rằng tại một thời điểm, các cơ
sở giáo dục không nên chỉ áp dụng một mô hình bền
vững, mà nên kết hợp vài mô hình phù hợp với mình.
Các
mô hình bền vững TNGDM không nên chỉ tập trung vào khía
cạnh sinh doanh thu, mà còn cần phải tập trung vào khía
cạnh thu hồi các chi phí để tạo lập, tùy chỉnh và
duy trì dài hạn TNGDM, bao gồm cả chi phí duy trì, mở
rộng quy mô mạng và hạ tầng cho TNGDM.
Mô
hình bền vững không là y hệt như mô hình tài chính.
Một
mô hình bền vững TNGDM
phải
tính đến toàn bộ vòng đời TNGDM
và
việc quản lý cần thiết để đảm bảo tính thường
trực và lâu dài
của nó.
Một
mô hình bền vững TNGDM đòi hỏi việc định vị mở là
cốt lõi cho tất cả các hoạt động của tổ chức,
và điều quan trọng tối thượng là
một “Mô
hình bền vững TNGDM phải tính đến giá trị TNGDM tạo
ra để làm cho nó có thể hoàn thành các tầm nhìn, mục
tiêu và mục đích đa dạng của giáo dục”,
như được nêu trong mục tiêu phát triển bền vững 4
(SDG4) về giáo dục của Liên hiệp quốc đến năm 2030:
“Đảm
bảo giáo dục có chất lượng, công bằng và toàn diện,
đồng thời thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho
tất cả mọi người”,
chứ không chỉ tính tới duy nhất giá trị về kinh tế -
tài chính.
Chính
phủ đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc
tạo thuận lợi cho tính bền vững của TNGDM về lâu dài
thông qua nhiều biện pháp can thiệp khác nhau về chính
sách và cấp vốn, ví dụ, để trang trải chi phí phát
triển và sản xuất ban đầu cũng như chi phí để tiếp
tục bảo trì và tùy chỉnh TNGDM, thiết lập các thước
đo thành công thông qua các tác
động tới việc thực hành TNGDM nhằm liên tục nâng cao
càng nhiều càng tốt tần suất và chất lượng của việc
tạo lập và sử dụng TNGDM.
Công
thức về tính bền vững cho TNGDM, Khung TNGDM Quốc gia
MENA, và Mô hình Bền vững Hệ điều hành Mở mà Paul
Stacy gợi ý, cũng như Mô hình Bền vững Tài sản Chung
toàn cầu của UNESCO và UNICEF là những điều mà chính
phủ và bất kỳ cơ sở giáo dục nào cũng nên quan tâm
xem xét khi triển khai các hoạt động liên quan đến TNGDM
theo tinh thần của Quyết định 1117/QĐ-TTg ngày 25/09/2023
của Thủ tướng Chính phủ, vì tất cả chúng có thể là
các mô hình bền vững TNGDM trong tương lai ở quy mô quốc
gia và toàn cầu.
Tài
liệu tham khảo
[1]
UNESCO, 25/11/2019: Recommendation on Open Educational Resources:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000373755/PDF/373755eng.pdf.multi.page=3.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0.
[2]
Encore Project: OER Sustainability Business Models:
https://encoreproject.eu/2022/04/20/business-models-for-open-educational-resources-3/.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/cac-mo-hinh-kinh-doanh-ben-vung-tai-nguyen-giao-duc-mo-oer-1079.html
[3]
Dominic Orr, Michele Rimini and Dirk Van Damme (2015), Centre for
Educational Research and Innovation, OECD: Open Educational
Resources: A Catalyst for Innovation:
https://www.researchgate.net/publication/285596483_Open_Educational_Resources_A_Catalyst_for_Innovation,
Chapter 10, pp. 109-126.
[4]
Tlili, A., Nascimbeni, F., Burgos, D., Zhang, X., Huang, R., &
Chang, T. W. (2020): The evolution of sustainability models for Open
EducationalResources: insights from the literature and experts:
http://sli.bnu.edu.cn/uploads/soft/201124/2_2014185631.pdf,
p. 13. Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/scl/fi/pe0xtfjl1aiin5uqs8zye/2_2014185631_Vi-23112023.pdf?rlkey=d80ow6volm1feeqnrsqxom680&dl=0,
tr. 18.
[5]
Dominic Orr, Michele Rimini and Dirk Van Damme (2015), Centre for
Educational Research and Innovation, OECD: Open Educational
Resources: A Catalyst for Innovation:
https://www.researchgate.net/publication/285596483_Open_Educational_Resources_A_Catalyst_for_Innovation,
Chapter 1, Aligning OER to key educational challenges, pp. 22-23.
[6]
Paul Stacey, 29/09/2023: Sustainability Models:
https://paulstacey.global/blog/sustainability-models.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/cac-mo-hinh-ben-vung-1082.html
[7]
Paul Stacey và Sarah Hinchliff Pearson, Creative Commons (2017):
Made with Creative Commons:
https://creativecommons.org/wp-content/uploads/2017/04/made-with-cc.pdf,
CC
BY-SA 4.0.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/a6n50my7owufi6w/Made%20with%20Creative%20Commons_Vi-10022020.pdf?dl=0.
[8]
UNESCO: Gateways to public digital learning:
https://www.unesco.org/en/digital-education/learning-platforms-gateway
[9]
United Nations: Assuring and improving quality public digital
learning for all. Key #3 Connectivity; Content:
https://www.un.org/en/transforming-education-summit/digital-learning-all.
---------------------------------------------------
Tự
do tải về bài viết định dạng PDF tại địa chỉ DOI:
10.5281/zenodo.11183225
Tự
do tải về bài trình chiếu tại hội thảo ở địa chỉ:
https://www.dropbox.com/scl/fi/0w3k6qnr3vfvqyxw6qg3g/OER_Sustainable_Models_Slide.pdf?rlkey=ui0lol9jekor4p5wnb1r2wdac&dl=0
Tự
do tải về kỷ yếu của hội thảo tại địa chỉ:
https://www.dropbox.com/scl/fi/q0skc30nfl2tfowt1gr19/K-y-u-11-5-2024-Xu-t-b-n.pdf?rlkey=xtwi7cuh5aryenhscfmcxqctw&dl=0
X(Tweet):
https://twitter.com/nghiafoss/status/1789933861251538952
(Bài
viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia: ‘Chuyển
đổi số trong giáo dục mở thúc đẩy học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập’
do Trường Đại học Mở Hà Nội và Trường Đại học
Mở TP. Hồ Chí Minh đồng tổ chức ngày 13/05/2024 tại Hà
Nội.)
Xem
thêm: