The
Principles of Open Scholarly Infrastructure (POSI)
Theo: https://openscholarlyinfrastructure.org/
POSI Phiên bản 1.1 Phát hành tháng
11/2023
Các
bên áp dụng POSI - 15 tổ chức vào lúc này - đã làm
việc để làm rõ các nguyên tắc ban đầu nhằm tạo ra
phiên bản 1.1 vào ngày 03/11/2023. Phiên bản mới/luôn cập
nhật ở bên dưới. Xem các
thay đổi được đánh dấu kèm theo giải thích và bản
lưu trữ của phiên
bản gốc 1.0 để tham khảo.
Điều hành
Bao trùm khắp doanh nghiệp
học thuật (Coverage across the scholarly enterprise)
- nghiên cứu bao trùm các ngành học, địa lý, thể chế
và các bên liên quan. Các tổ chức và hạ tầng mà họ
điều hành cần phải phản ánh điều này.
Bên liên
quan điều hành (Stakeholder
Governed) -
một tổ chức có hội đồng quản trị được lấy từ
cộng đồng các bên liên quan xây dựng niềm tin rằng tổ
chức sẽ đưa ra các quyết định dựa trên sự đồng
thuận của cộng đồng và sự cân bằng lợi ích.
Sự tham
gia hoặc cơ chế thành viên không phân biệt đối xử
(Non-discrimination participation or membership)
- chúng tôi thấy lựa chọn tốt nhất là cách tiếp cận
“chọn tham gia” với các nguyên tắc không phân biệt
đối xử và toàn diện trong đó bất kỳ nhóm các bên
liên quan nào cũng có thể bày tỏ sự quan tâm và cần
được hoan nghênh. Đại diện trong quản trị phải phản
ánh đặc điểm của cộng đồng hoặc thành viên.
Điều hành minh
bạch (Transparent governance) – để đạt
được sự tin cậy, các quy trình và chính sách lựa chọn
đại diện cho các nhóm điều hành phải minh bạch (trong
giới hạn của luật về quyền riêng tư).
Không thể vận
động hành lang (Cannot lobby) – các tổ
chức hạ tầng không nên vận động hành lang để thay
đổi quy định nhằm củng cố vị thế hoặc vì lợi
ích cá nhân hẹp hòi của mình. Tuy nhiên, vai trò của tổ
chức hạ tầng là hỗ trợ cộng đồng của mình và
điều này có thể bao gồm việc vận động thay đổi
chính sách.
Ý chí sinh tồn
(Living will) – một cách mạnh mẽ để tạo niềm tin
là mô tả công khai một kế hoạch đề cập các điều
kiện theo đó một tổ chức hoặc dịch vụ sẽ bị phá
sản. Nó phải bao gồm cách điều này sẽ xảy ra và
cách mọi tài sản có thể được lưu trữ và bảo quản
khi được chuyển cho tổ chức hoặc dịch vụ kế nhiệm.
Bất kỳ tổ chức hoặc dịch vụ nào như vậy đều
phải áp dụng POSI và tôn trọng các nguyên tắc POSI.
Các ưu đãi chính
thức để hoàn thành sứ mệnh và kết thúc
(Formal incentives to fulfil mission & wind-down) – các
hạ tầng tồn tại vì một mục đích cụ thể và mục
đích đó có thể được đơn giản hóa hoàn toàn hoặc
thậm chí trở nên không cần thiết do sự thay đổi về
công nghệ hoặc xã hội. Các tổ chức và dịch vụ nên
thường xuyên xem xét sự hỗ trợ của cộng đồng và
nhu cầu cho các hoạt động của họ. Nếu có thể, tổ
chức hoặc dịch vụ (và các nhân viên) nên có các ưu
đãi trực tiếp để thực hiện sứ mệnh và kết thúc.
Tính bền vững
Nguồn vốn có thời hạn chỉ được
sử dụng cho các hoạt động có thời hạn (Time-limited
funds are used only for time-limited activities) –
các hoạt động được hỗ trợ bởi các nguồn doanh thu
bền vững – trong khi nguồn vốn có thời hạn chỉ được
sử dụng cho các hoạt động có thời hạn. Việc phụ
thuộc vào các trợ cấp để cấp vốn cho các hoạt động
của hạ tầng đang diễn ra và/hoặc dài hạn hoàn toàn
khiến chúng trở nên mong manh và sao nhãng khỏi việc xây
dựng hạ tầng cốt lõi.
Mục tiêu tạo ra thặng dư (Goal
to generate surplus) – các tổ chức (hoặc
dịch vụ) xác định tính bền vững chỉ dựa trên việc
thu hồi chi phí thì dễ gãy và trì trệ. Chỉ tồn tại
thôi là chưa đủ; các tổ chức và dịch vụ phải có
khả năng thích ứng và thay đổi. Để vượt qua những
biến động về kinh tế, xã hội và công nghệ, họ cần
nguồn tài chính vượt quá chi phí vận hành trước mắt.
Mục tiêu tạo dự trữ tài chính
(Goal to create financial reserves) –
ưu tiên cao là phải có dự trữ tài chính được khoanh
vùng, tách biệt với quỹ hoạt động, có thể hỗ trợ
thực hiện các kế hoạch sinh tồn, bao gồm cả sự kết
thúc hoàn toàn, có trật tự hoặc chuyển đổi sang một
tổ chức kế nhiệm, hoặc các sự kiện lớn bất ngờ.
Tạo doanh thu phù
hợp với sứ mệnh (Mission-consistent
revenue generation) – các nguồn doanh thu phải
được đánh giá theo sứ mệnh của hạ tầng và không
đi ngược lại mục tiêu của tổ chức hoặc dịch vụ.
Doanh thu dựa trên
dịch vụ, không phải dữ liệu (Revenue
based on services, not data) – dữ liệu liên
quan đến việc vận hành hạ tầng học thuật phải là
tài sản của cộng đồng. Các nguồn doanh thu phù hợp
có thể bao gồm các dịch vụ giá trị gia tăng, tư vấn,
Hợp đồng Mức Dịch vụ API hoặc các khoản phí thành
viên.
Đảm bảo
Nguồn mở
(Open source) -
Tất cả các phần mềm và tài sản cần thiết để vận
hành hạ tầng phải có sẵn theo một giấy phép nguồn
mở. Điều này không bao gồm các phần mềm khác mà có
thể liên quan đến việc điều hành tổ chức.
Dữ liệu mở
(trong giới hạn của luật về quyền riêng tư) (Open
data (within constraints of privacy laws)) – Để
hạ tầng được phân nhánh (được sao chép), cần thiết
phải nhân bản tất cả dữ liệu liên quan. Công
cụ khước từ CC0 là cách thực hành tốt nhất trong
việc làm cho dữ liệu sẵn sàng mở và hợp pháp. Luật
bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu sẽ hạn chế mức
độ có thể thực hiện điều này.
Dữ liệu có sẵn (trong giới hạn
của luật về quyền riêng tư) (Available data
(within constraints of privacy laws)) – dữ liệu
“mở” là chưa đủ nếu không có cách thực tế nào
để lấy được dữ liệu đó. Dữ liệu cơ bản nên
được cung cấp dễ dàng thông qua các đống dữ liệu
mở định kỳ.
Không đòi quyền
bằng sáng chế (Patent
non-assertion) –
tổ chức nên cam kết thực hiện chính sách hoặc giao
ước không đòi quyền bằng sáng chế. Tổ chức có thể
lấy bằng sáng chế để bảo vệ hoạt động của chính
mình nhưng không sử dụng chúng để ngăn cộng đồng
nhân rộng hạ tầng.
Trích
dẫn như sau:
Bilder G, Lin J, Neylon C (2020), Nguyên tắc của cơ sở hạ
tầng học thuật mở, được truy xuất [ngày],
[https://doi.org/10.24343/C34W2H](https://doi.org/10.24343/ C34W2H)
POSI Version
1.1 Released November 2023
The POSI
Adopters—15
organisations at the time—worked on clarifications to the original
principles to create version 1.1 on 3rd November 2023. The
new/always-current version is below. See the marked-up
changes with explanations and the archive of the original
version 1.0, for reference.
Governance
Coverage
across the scholarly enterprise
– research transcends disciplines, geography, institutions, and
stakeholders. Organisations and the infrastructure they run need to
reflect this.
Stakeholder
Governed – a
board-governed organisation drawn from the stakeholder community
builds confidence that the organisation will take decisions driven
by community consensus and a balance of interests.
Non-discriminatory
participation or membership
– we see the best option as an “opt-in” approach with
principles of non-discrimination and inclusivity where any
stakeholder group may express an interest and should be welcome.
Representation in governance must reflect the character of the
community or membership.
Transparent
governance – to
achieve trust, the processes and policies for selecting
representatives to governance groups should be transparent (within
the constraints of privacy laws).
Cannot
lobby –
infrastructure organisations should not lobby for regulatory change
to cement their own positions or narrow self-interest. However, an
infrastructure organisation’s role is to support its community,
and this can include advocating for policy changes.
Living
will – a
powerful way to create trust is to publicly describe a plan
addressing the conditions under which an organisation or service
would be wound down. It should include how this would happen and how
any assets could be archived and preserved when passed to a
successor organisation or service. Any such organisation or service
must adopt POSI and honour the POSI principles.
Formal
incentives to fulfil mission & wind-down
– infrastructures exist for a specific purpose, and that purpose
can be radically simplified or even rendered unnecessary by
technological or social change. Organisations and services should
regularly review community support and the need for their
activities. If it is possible, the organisation or service (and
staff) should have direct incentives to deliver on the mission and
wind down.
Sustainability
Time-limited
funds are used only for time-limited activities
– operations are supported by sustainable revenue sources -
whereas time-limited funds are used only for time-limited
activities. Depending on grants to fund ongoing and/or long-term
infrastructure operations fully makes them fragile and distracts
from building core infrastructure.
Goal
to generate surplus
– organisations (or services) that define sustainability based
merely on recovering costs are brittle and stagnant. It is not
enough to merely survive; organisations and services have to be able
to adapt and change. To weather economic, social and technological
volatility, they need financial resources beyond immediate operating
costs.
Goal
to create financial reserves
– a high priority should be having ring-fenced financial reserves,
separate from operating funds, that can support implementing living
will plans, including a complete, orderly wind down or transition to
a successor organisation, or major unexpected events.
Mission-consistent
revenue generation
– revenue sources should be evaluated against the infrastructure’s
mission and not run counter to the aims of the organisation or
service.
Revenue
based on services, not data
– data related to the running of the scholarly infrastructure
should be community property. Appropriate revenue sources might
include value-added services, consulting, API Service Level
Agreements or membership fees.
Insurance
Open
source – all
software and assets required to run the infrastructure should be
available under an open-source licence. This does not include other
software that may be involved with running the organisation.
Open
data (within constraints of privacy laws)
– For an infrastructure to be forked (reproduced), it will be
necessary to replicate all relevant data. The CC0
waiver is the best practice in making data openly and legally
available. Privacy and data protection laws will limit the extent to
which this is possible.
Available
data (within constraints of privacy laws)
– it is not enough that the data be “open” if there is no
practical way to obtain it. Underlying data should be made easily
available via periodic open data dumps.
Patent
non-assertion –
the organisation should commit to a patent non-assertion policy or
covenant. The organisation may obtain patents to protect its own
operations but not use them to prevent the community from
replicating the infrastructure.
Cite as
Bilder
G, Lin J, Neylon C (2020), The Principles of Open Scholarly
Infrastructure, retrieved [date],
[https://doi.org/10.24343/C34W2H](https://doi.org/10.24343/C34W2H)
Dịch: Lê Trung Nghĩa
letrungnghia.foss@gmail.com