Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

Các kỹ năng và năng lực tài nguyên giáo dục mở (TNGDM) của giảng viên là không thể thiếu


Bài viết cho Hội thảo ‘Hiện trạng giáo dục ngoài công lập Việt Nam’ do AVNUC tổ chức ngày 21/12/2018 tại trường Đại học Nguyễn Tất Thành, TP. Hồ Chí Minh
Bài được đăng trong kỷ yếu Hội thảo, các trang 233-240
------------------------------------------------------
Tóm tắt: Tự chủ giáo dục và hướng tới giáo dục mở là xu thế hiện nay ở Việt Nam dù hàng loạt các vấn đề khó và có liên quan vẫn đang được thảo luận sôi nổi trong xã hội. Việc huấn luyện các giảng viên các kỹ năng và năng lực để khai thác tài nguyên giáo dục mở (TNGDM) là rất cần thiết, không thể thiếu và chắc chắn sẽ đóng góp một phần không nhỏ để giúp làm nhẹ bớt đi vài trong số nhiều vấn đề khó đó và hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu về kỹ năng và năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) trong kỷ nguyên số và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.


Vai trò của TNGDM trong giáo dục
Vai trò của TNGDM trong giáo dục, ở mọi cấp, là rất quan trọng. Nó được lồng ghép trong các kỹ năng và năng lực cần phải có của nhiều tác nhân khác nhau để có thể đáp ứng được các nhu cầu và thách thức của thế kỷ 21, đặc biệt là của các giảng viên mọi cấp giáo dục, được thể hiện trong nhiều tài liệu, vài trong số đó gồm:
  • Khung năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) cho giảng viên của UNESCO phiên bản 3 năm 2018[1]. Khung này nhấn mạnh TNGDM là 1 trong 4 công nghệ mới nổi quan trọng nhất hiện nay mà giảng viên ở mọi cấp giáo dục cần phải có các kỹ năng làm việc thành thạo với nó để hỗ trợ tạo ra các Xã hội Tri thức bao hàm toàn diện giúp đạt được vài Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hiệp quốc - SDG (Sustainable Development Goals), trong đó có SDG 4 về đảm bảo giáo dục chất lượng toàn diện và bình đẳng và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người tới năm 2030, ở cả 3 mức tri thức: (1) Giành được Tri thức; (2) Đào sâu Tri thức; và (3) Tạo lập Tri thức. (Xem Hình 1).
Hình 1. Khung năng lực CNTT-TT cho các giảng viên, phiên bản 3 năm 2018 của UNESCO


  • Tài nguyên Giáo dục Mở trong Giáo dục và Huấn luyện Kỹ thuật và Nghề nghiệp (OER trong TVET) - Tài nguyên Giáo dục Mở cho phát triển các kỹ năng[2]. Tài liệu khẳng định: Để đạt được SDG 4, một trong những mục tiêu là phải gia tăng số lượng thanh thiếu niên và người lớn, những người cần có các kỹ năng thích hợp, bao gồm các kỹ năng kỹ thuật và nghề nghiệp, để có công ăn việc làm, công việc tươm tất và/hoặc kinh doanh; trong khi việc đào tạo kỹ năng cho nhiều người hơn là hoàn toàn có khả năng với công nghệ và TNGDM.
  • Cung cấp cho các nhà nghiên cứu các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở. Các quốc gia G7, các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu và nhiều quốc gia khác trên thế giới đang hướng tới Khoa học Mở, trong đó TNGDM là một trong các thành phần cốt lõi của nó và được đưa vào các chương trình giáo dục và huấn luyện các kỹ năng mà các giảng viên - các nhà nghiên cứu và nhiều tác nhân khác cần phải có trong thế kỷ 21. (Xem Hình 2[3]).
Hình 2. TNGDM, một trong các kỹ năng cần phải có của khoa học mở


Vai trò của các giảng viên trong việc đưa TNGDM vào thực tế
Việc đưa TNGDM vào thực tế dạy và học ở mọi cấp giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố với nhiều tác nhân khác nhau tham gia. Một trong các yếu tố quan trọng nhất và mang tính quyết định để hiện thực hóa được điều đó nằm ở phía các giảng viên và những người chỉ dẫn học tập trong vai trò là những người đưa ra các quyết định về nội dung khóa học cho các sinh viên, cũng như dẫn dắt các sinh viên trong các hoạt động thực hành tìm kiếm, sử dụng, tạo lập, sửa đổi, tùy biến thích nghi, cấp phép mở cho và/hoặc bản địa hóa TNGDM.
Một mặt, các sinh viên sẽ khó có khả năng có được các kỹ năng và năng lực để tiến hành các hoạt động thực hành với TNGDM nếu các giảng viên và những người chỉ dẫn cho họ chưa/không có chúng, trừ phi họ có thể giành được chúng bằng các con đường khác bên ngoài cơ sở giáo dục của họ, điều gây lãng phí cho cả đôi bên về mọi mặt. Mặt khác, khi mà TNGDM là 1 trong 4 lĩnh vực công nghệ quan trọng và được tích hợp vào cả 3 lớp tri thức trong khung năng lực CNTT-TT phiên bản 3 năm 2018 của UNESCO cho các giảng viên như được nêu ở trên, thì nó trở thành yêu cầu không thể thiếu cho các giảng viên để có đủ điều kiện giảng dạy đáp ứng các yêu cầu của xã hội tri thức cả thế giới đang hướng tới.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc các giảng viên và những người chỉ dẫn chưa có được nhận thức đầy đủ về TNGDM, là hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Về điều này, báo cáo năm 2017: Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) - Kiểm tra thực tế[4]nêu như sau:
  • Hầu hết các giảng viên và những người chỉ dẫn chưa từng bao giờ nghe về TNGDM - đó là ‘thứ gì mới’ và về nó họ biết rất ít.
  • Khi các giảng viên và những người chỉ dẫn xem xét các tư liệu nào họ yêu cầu các sinh viên của họ sử dụng, họ tìm kiếm hồ sơ theo dõi sử dụng và chất lượng được chứng minh - nhiều TNGDM, dù được xem là có chất lượng cao, không có hồ sơ theo dõi sử dụng đó.
  • Nói chung, các giảng viên và những người chỉ dẫn không tính tới các chi phí sách giáo khoa và các tư liệu có liên quan khi đưa ra các quyết định về nội dung khóa học của họ và cũng không tính tới tổng chi phí học tập cho sinh viên.
  • Mất thời gian và cam kết để tìm kiếm và tìm ra TNGDM phù hợp.


Thực trạng TNGDM tại Việt Nam
Một khảo sát nhỏ về TNGDM đã được tiến hành năm 2016[5] và đã đưa ra những nhận xét về hiện trạng ứng dụng TNGDM trong các trường đại học ở Việt Nam trong phần kết luận và đánh giá chung, vài trong số đó nêu như sau:
  • Việc sử dụng TNGDM ở các trường đại học chưa phổ biến. Phần lớn chỉ khai thác các nguồn thông tin miễn phí trên mạng, rất ít các trường đại học triển khai TNGDM trong đơn vị mình, hầu hết giảng viên cũng chỉ dừng lại việc giới thiệu các nguồn học liệu miễn phí, chưa ý thức được việc tạo lập và chia sẻ TNGDM.
  • Cần có sự hiểu biết về bản quyền và giấy phép mở trong cộng đồng các trường đại học. Có thể thấy việc thực thi bản quyền tại các trường đại học chưa được coi trọng, thư viện đặt kế hoạch số hóa nhưng chưa quan tâm nhiều đến vấn đề bản quyền. Bên cạnh đó hiểu biết của họ về giấy phép mở (Creative Commons) chưa thực sự tốt.
Điều này cho thấy nhận thức về TNGDM trong các giảng viên đại học và khu vực giáo dục nói chung ở Việt Nam cũng không khác mấy so với của thế giới như được nêu ở phần trên, khi cả các giảng viên và sinh viên chỉ mới có sự quan tâm tới khía cạnh ‘miễn phí’ của tài nguyên giáo dục (bất kể là mở hay không mở) nhưng lại rất mơ hồ về khía cạnh bản quyền và các giấy phép Creative Commons, trong khi TNGDM còn có cách gọi khác, như của Bộ Giáo dục Mỹ, là tài nguyên giáo dục được cấp phép mở (Openly Licensed Educational Resources[6]). Bạn không thể làm việc với TNGDM mà không hiểu tốt về các giấy phép mở!
Một vấn đề khác liên quan tới nhận thức về TNGDM không cao không chỉ trong các giảng viên, mà trong giáo dục ở Việt Nam nói chung khi có những đề tài - dự án trong khu vực giáo dục, dù với những cái tên của chúng đi với cụm từ như ‘TNGDM’ hay ‘học liệu mở’, nhưng lại không MỞ chút nào[7] ở nhiều khía cạnh của MỞ như tính mở, mô hình phát triển, mô hình cấp phép, mô hình kinh doanh, làm cho nhận thức của xã hội về TNGDM càng dễ bị hiệu lầm và/hoặc hiểu sai.
Quan trọng hơn, việc chưa có chính sách khuyến khích TNGDM phát triển ở tất cả các cấp học, đặc biệt là chính sách ở mức quốc gia, làm khó thêm cho các giảng viên, sinh viên và tất cả các bên liên quan khác trong hệ sinh thái TNGDM để có sự đầu tư cả về công sức, thời gian và tiền bạc để ứng dụng và phát triển TNGDM, biết rằng, có những hoạt động liên quan tới TNGDM khi được triển khai, nhiều khả năng sẽ xung đột với những điều khoản và điều kiện trong các luật, chính sách và/hoặc quy định hiện hành, ví dụ như, sự ràng buộc về bản quyền của các xuất bản phẩm nghiên cứu giữa các nhà xuất bản với các giảng viên - nhà nghiên cứu - tác giả khi các tác phẩm của họ được cấp phép mở và chia sẻ mở trên Internet để cho phép những người khác truy cập không mất chi phí, sử dụng, tùy biến thích nghi, và phân phối lại không có hạn chế hoặc có các hạn chế có giới hạn, đúng như theo định nghĩa của UNESCO[8] về TNGDM.
Cũng có vài điểm sáng, dù rất ít, rất hiếm, đơn lẻ và tự phát từ khu vực tư nhân về ứng dụng và phát triển TNGDM - tài nguyên giáo dục được cấp phép mở ở Việt Nam như: trang VOER[9], trang Sách Mở của nhóm Cánh Buồm[10] hay trang TNGDM của thư viện Đại học RMIT Việt Nam[11].
Nhận thức và sự quan tâm tới TNGDM và các lĩnh vực mới và có liên quan tới MỞ như truy cập mở, dữ liệu mở hay khoa học mở - cách tân mở trong xã hội đang gia tăng, dù chậm và chưa bắt kịp với nhịp độ của thế giới, nhưng là tin tốt lành cho giáo dục của Việt Nam trong thời gian tới[12].


Thay cho lời kết
Giáo dục và huấn luyện các kỹ năng và năng lực TNGDM cho các giảng viên là không thể thiếu, là xu thế được khuyến cáo và không thể đảo ngược được trên thế giới.
Đây là cách để tạo ra thế hệ mới các sinh viên và học sinh có khả năng có đủ các kỹ năng và năng lực để không chỉ là những người tiêu dùng thụ động tri thức được truyền đạt một chiều từ các giảng viên tới cho họ, mà còn giúp cho họ có các kỹ năng và năng lực sáng tạo bất tận thông qua các hoạt động tìm kiếm, sử dụng, tạo lập, tùy biến thích nghi, pha trộn, cấp phép mở, bản địa hóa trên cơ sở các TNGDM và được cấp phép mở có sẵn đó với số lượng hiện đang ở con số hàng tỷ[13] [14] một cách hợp pháp, hợp lệ, tôn trọng bản quyền, quyền tác giả và các quyền liên quan, với chất lượng ngày một cao thông qua hoạt động rà soát lại ngang hàng mở để tạo ra tri thức mới và cũng là mở, và sau đó tiếp tục chia sẻ mở chúng để làm giàu thêm cho kho tri thức mở nói chung, để những người khác có khả năng sử dụng lại và tiếp tục vòng quay mở bất tận của chúng.
Các cơ sở giáo dục mọi cấp ở Việt Nam, bao gồm các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, cả công lập và ngoài công lập, trong bối cảnh giáo dục tự chủ (cả tự chủ về tài chính và hướng tới tự chủ về học thuật) và hội nhập quốc tế, đều có khả năng ứng dụng và phát triển TNGDM để giảm chi phí nhưng vẫn đảm bảo chất lượng các TNGDM cho việc dạy, học và nghiên cứu, tham gia vào môi trường giáo dục rộng lớn hơn, cả trong nước và quốc tế, trong các hoạt động liên quan tới TNGDM như được nêu ở trên để giúp cho các sinh viên thế hệ sau có khả năng có được các kỹ năng và năng lực để giành được tri thức, đào sâu tri thức và tạo lập tri thức họ cần nhằm đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao và thay đổi nhanh về công nghệ như hiện nay, để họ có được nhiều cơ hội hơn có được công ăn việc làm tươm tất hoặc khởi nghiệp kinh doanh.
Với các TNGDM chất lượng, tính trực quan vốn dĩ là đặc tính của chúng, làm cho chúng có khả năng được truy cập tự do tới nhiều người hơn, làm gia tăng khả năng có được số lượng các trích dẫn nhiều hơn, các bản tải về để sử dụng nhiều hơn và vì thế tác động tới cộng đồng lớn hơn, làm gia tăng uy tín của các tác giả - giảng viên - nhà nghiên cứu của các TNGDM đó, và vì thế tới lượt nó, làm gia tăng uy tín của cơ sở giáo dục của họ.
để có được các TNGDM chất lượng, một lần nữa, giáo dục và huấn luyện cho các giảng viên các kỹ năng và năng lực TNGDM là không thể thiếu, không thể bỏ qua.


Tài liệu và thông tin tham chiếu
[1] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO, UNESCO 2018: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0
[2] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Tài nguyên Giáo dục Mở trong Giáo dục và Huấn luyện Kỹ thuật và Nghề nghiệp (OER trong TVET), UNESCO 2018: https://www.dropbox.com/s/bbkt7x57zg60gu8/OER-in-TVET_Vi-19082018.pdf?dl=0
[3] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Cung cấp cho các nhà nghiên cứu các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở, EC 2017: https://www.dropbox.com/s/qc0cfjd80ipmvnx/os_skills_wgreport_final_Vi_01032018.pdf?dl=0, trang 42
[4] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Tài nguyên giáo dục mở (OER) - Kiểm tra thực tế, contactnorth.ca, 2017: https://www.dropbox.com/s/fgte6afh7k59m7g/open_educational_resources_oer_-_a_reality_check-Vi-02122018.pdf?dl=0
[5] Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Văn phòng UNESCO Bangkok, 2016: Báo cáo khảo sát tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học Việt Nam: https://www.dropbox.com/s/jk000slftnbsst8/OER%20Preport_Vietnam-2016.pdf?dl=0
[6] Trang về Giáo dục Mở của Bộ Giáo dục Mỹ: https://tech.ed.gov/open/
[7] Lê Trung Nghĩa, 2018: Nhận diện các đề tài - dự án “MỞ” từ kinh phí của nhà nước, Tạp chí Tia Sáng, 22/01/2018: http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Nhan-dien-cac-de-tai--du-an-%E2%80%9CMO%E2%80%9D--tu-kinh-phi-cua-nha-nuoc-11161
[9] Vietnam Foundation: Thư viện học liệu mở Việt Nam: http://voer.edu.vn/
[10] Trang Sách Mở của nhóm Cánh Buồm: http://canhbuom.edu.vn/sachmo/
[11] RMIT University, Library subject guides, OERs: http://rmit.libguides.com/openeducationalresources
[12] Lê Trung Nghĩa, 2018: Hệ sinh thái nguồn mở ở Việt Nam: https://www.dropbox.com/s/0oo6isv09eusg6l/Open_Source_Ecosystems_In_VN_2018_LeTrungNghia.pdf?dl=0
[13] State of the Commons: https://stateof.creativecommons.org/, số lượng các tài nguyên được cấp phép mở Creative Commons tới hết năm 2017 là hơn 1 tỷ 470 triệu tài nguyên.
[14] Software Heritage: https://archive.softwareheritage.org/, số lượng các tệp phần mềm được cấp phép mở hiện nay là hơn 5 tỷ tệp, từ hơn 86 triệu dự án nguồn mở với hơn 22.000 lập trình viên. Nhiều trong số các phần mềm này được sử dụng trong giáo dục, và vì vậy, cũng là các TNGDM.


Trung Nghĩa
PS: Tự do tải về bài viết ở định dạng PDF:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.