Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Tổng quan về tài nguyên giáo dục mở - OER (Open Educational Resources) và một kịch bản giả tưởng về tương lai của giáo dục Việt Nam - Phần 3 và hết


Phần 3 - Các khía cạnh khác của OER và kịch bản giả tưởng cho giáo dục Việt Nam


Mục lục:
Phần 3 - Các khía cạnh khác của OER và kịch bản giả tưởng cho giáo dục Việt Nam


D. Tìm kiếm và sử dụng OER
Phần này có khả năng là phần hấp dẫn nhất đối với những người muốn thử và/hoặc sử dụng ngay các OER có sẵn.
Một vài công cụ tìm kiếm OER và các tư liệu được cấp phép mở khác
  1. Tìm kiếm bằng trang tìm kiếm OER của Creative Commons:
Hình 7. Trang tìm kiếm OER của Creative Commons


Để tìm kiếm các tư liệu được cấp phép tự do - mở như các OER, có 4 bước sau:
    1. Tới địa chỉ trang tìm kiếm http://search.creativecommons.org/
    2. Gõ vào cụm từ cần tiềm kiếm, ví dụ cụm từ 'computer science' như trong Hình 7 rồi chọn giấy phép phù hợp bằng cách chọn hoặc bỏ chọn các ô vuông nhỏ bên dưới để chọn giấy phép như bạn mong muốn, nơi có các cụm từ như (1) sử dụng cho các mục đích thương mại (use for commercial purposes) và (2) sửa đổi, tùy biến hoặc xây dựng dựa vào nó (modify, adapt, or build upon).
    3. Chọn dạng tư liệu bằng cách xem trong số các ô chữ nhật lớn nằm giữa trang tìm kiếm, tư liệu nào bạn muốn tìm. Ví dụ, với Flickr là để tìm ảnh, YouTube là để tìm các video, hay Google là để tìm trên Web.
    4. Tiến hành tìm kiếm bằng cách nháy chuột vào ô nào bạn muốn tìm các tư liệu.
Danh sách kết quả sẽ hiện ra, và thường đó là các tư liệu được cấp phép mở, như các OER. Dù vậy, được khuyến cáo bạn nên kiểm tra lại các kết quả đó một lần nữa khi sử dụng để chắc chắn chúng có giấy phép Creative Commons.
  1. Cũng có các site tìm kiếm OER khác, ví dụ một số site như:
    1. http://edtechpost.wikispaces.com/OER+Dynamic+Search+Engine: hàng trăm liên kết ở site này dẫn tới các site khác có chứa các OER và các sách giáo khoa mở.
  2. Ví dụ về số lượng các tư liệu mở mà bạn có thể sử dụng tự do trên một số site:
    1. http://commons.wikimedia.org/wiki/Main_Page: có hơn 13 triệu tệp hình ảnh, âm thanh, đa phương tiện. Có các đường dẫn tới nhiều trang dạng wiki khác.
    2. http://www.oercommons.org/: Có khoảng 40.000 tài nguyên các khóa học từ phổ thông 12 lớp tới cao đẳng, có giấy phép mở, sử dụng tự do.
    3. http://openlibrary.org/: có hơn 1 triệu đầu sách các loại.
    4. http://www.opentextbook.org/: là nơi đăng ký và tập hợp các đường dẫn tới các dự án, các kho sách giáo khoa mở.
    5. http://www.oajse.com/: Cổng truy cập các tạp chí điện tử mở của Đại học Mở Krishna Kanta Handiqui. Là điểm khởi đầu để tìm kiếm vô số các tạp chí mở khác trên thế giới.
  3. Một số trang có các OER cho các đại học, được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt, như trang MERLOT II, https://www.merlot.org/merlot/index.htm. Rất có thể với thời gian, các site OER đa ngôn ngữ này sẽ gia tăng, có lợi cho những người học ở khắp nơi trên thế giới, và cũng vì thế có khả năng thách thức các trường học truyền thống trên khắp thế giới.
  4. Các tài liệu dịch sang tiếng Việt được sử dụng cho bài viết này (xem phần 'Tài liệu dịch sang tiếng Việt để tham khảo' ở cuối tài liệu này) đều là các OER, chúng đều có giấy phép tư liệu mở.


E. Ảnh hưởng của việc sử dụng OER
Trung tâm Nghiên cứu OER (OER Research Hub) của trường Đại học Mở của Vương quốc Anh đã xuất bản “Báo cáo bằng chứng OER 2013-2014 - Xây dựng sự hiểu biết về giáo dục mở”. Cuộc khảo sát đã đưa ra 11 giả thuyết, được thực hiện ở 180 nước, thu được 6.390 câu trả lời, trong số đó có 50,3% những người học phi chính quy, 24,7% những người học chính quy, 21,6% các nhà giáo dục và 3,4% các thủ thư, và đã có những phát hiện chính sau:
  • 37,6% các nhà giáo dục và 55,7% những người học chính quy nói rằng sử dụng OER cải thiện sự thỏa mãn của sinh viên
  • 27,5% các nhà giáo dục và 31,9% những người học chính quy đồng ý rằng sử dụng OER làm cho các điểm số các bài kiểm tra tốt hơn
  • 79,4% những người sử dụng OER tùy biến thích nghi các tài nguyên cho phù hợp với các nhu cầu của họ
  • 79,5% các nhà giáo dục sử dụng OER để có các ý tưởng và sự truyền cảm hứng mới
  • 88,4% những người học nói rằng cơ hội học tập nghiên cứu mà không có chi phí đã ảnh hưởng tới quyết định của họ để sử dụng OER
  • 74,9% người học không chính quy sử dụng OER để có được kinh nghiệm học tập
  • Việc biết ở đâu để tìm các tài nguyên là một trong những thách thức lớn nhất cho việc sử dụng OER
  • Tri thức chung về các kho OER được thiết lập tốt là thấp
  • Chỉ 5% các nhà giáo dục nói họ không chia sẻ thông tin về OER
  • Chỉ 12,4% các nhà giáo dục tạo ra các tài nguyên và xuất bản chúng với một giấy phép Creative Commons
  • Các video là dạng OER được sử dụng thường xuyên nhất.
  • Chi phí và sự truy cập tới các tư liệu có thể có ảnh hưởng tới sự giữ lại các sinh viên
  • 40,9% tất cả những người học chính quy trong mẫu khảo sát coi OER có ảnh hưởng tích cực trong việc giúp họ hoàn thành khóa học nghiên cứu của họ
  • 79,6% các sinh viên chính quy nghĩ họ tiết kiệm được tiền bằng việc sử dụng OER
  • 31,5% những người học không chính quy nói rằng sự quan tâm của họ trong việc sử dụng OER là cơ hội để thử nội dung mức đại học trước khi đăng ký vào khóa học phải trả tiền
  • 83,2% những người học phi chính quy nói họ có khả năng nhiều hơn chọn khóa học tự do khác hoặc học tập nghiên cứu một tài nguyên giáo dục tự do mở, và 24,2% nói rằng họ có thể tiếp tục chọn một khóa học phải trả tiền như là kết quả của việc sử dụng OER
  • Những người học chính quy chọn OER là thích hợp cho các nhu cầu đặc biệt của họ, có sự mô tả tốt các mục đích và các kết quả đầu ra của việc học tập, và dễ dàng tải về
  • Chỉ 15,5% những người học phi chính quy chọn OER với một giấy phép mở cho phép tùy biến thích nghi bất chấp thực tế là 84,7% nói họ tùy biến thích nghi các tài nguyên họ thấy phù hợp với các nhu cầu của họ
Còn đây là các kết luận chính của cuộc khảo sát, được xuất bản vào tháng 02/2015:
  • Triển khai OER có thể cải thiện hiệu năng của sinh viên, nhưng thường gián tiếp qua lòng tin, sự thỏa mãn và sự nhiệt tình được nâng cao đối với chủ đề đó
  • Sử dụng lại OER xảy ra ở phạm vi rộng, được sự cấp phép mở tạo thuận lợi
  • Sử dụng OER khuyến khích thực hành phản biện đối với các nhà giáo dục
  • Nhiều sinh viên đã sử dụng OER một cách phi chính quy trước khi đăng ký học tập nghiên cứu chính quy, và tiếp tục sử dụng OER để bổ sung cho công việc của họ
  • Nhận thức về OER và Creative Commons đang gia tăng, nhưng các kho OER vẫn khá ít được sử dụng và ít được biết tới khi so sánh với các nguồn OER khác như YouTube, Viện Khan (Khan Academy) hoặc các bài giảng của TED


Trong ví dụ cụ thể một OER về toán học, David Wiley, một giáo sư đại học và là người lãnh đạo Nhóm Giáo dục Mở (Open Education Group) đã nêu: 'Sử dụng OER đã dẫn tới một sự gia tăng 50 lần (nghĩa là, sự cải thiện 5.000%) trong tỷ lệ phần trăm [sinh viên] đỗ theo từng USD. Bất kể bạn nhìn nó theo cách nào, thì đó là một sự cải thiện tận gốc rễ'.


F. Khía cạnh tài chính của OER
Một số tài liệu có đề cập tới khía cạnh tài chính của OER, cụ thể hơn là với các sách giáo khoa mở, như trong tài liệu “Hứa hẹn năm 2012 về sách giáo khoa truy cập mở: Mô hình để thành công”. Tài liệu này đề cập tới 2 việc sau:
  1. Các nguồn vốn tiềm năng cung cấp cho sản xuất và tiêu thụ sách giáo khoa mở và các dịch vụ xung quanh nó. Có vài dạng cấp vốn như:
    1. Bán sách kèm tài liệu in phụ trợ được in theo yêu cầu, phiên bản tiếng nói...
    2. Bán sách, phiên bản có và không có quảng cáo với giá thành khác nhau
    3. Cấp tiền một lần từ liên bang
    4. Cấp tiền từ các quỹ từ thiện
    5. Sinh viên trả phí theo khóa học khi sách giáo khoa mở được sử dụng, thường từ 5-10 USD để lưu hành và phát triển sách mới.
    6. Quyên góp tiền qua website
    7. Các tổ chức sinh viên gây quỹ làm sách giáo khoa mở
  2. Kinh tế của các nhà in đại học
    1. Các nhà in đại học thường gặp khó khăn về kinh doanh, gợi ý nên được bao cấp một phần vì họ không chỉ có nhiệm vụ kinh doanh như các nhà xuất bản khác, mà còn có trách nhiệm truyền đạt tri thức.
    2. Các nhà in đại học ở Mỹ còn chưa được bao cấp một phần như ở châu Âu và vài nước khác như Canada.
    3. Các mô hình kinh doanh ở các nơi khác nhau là khác nhau và vẫn còn tồn tại khiếm khuyết không công bằng và không bền vững. Để khắc phục điểm yếu đó, mỗi nơi có một cách giải quyết riêng, ví dụ, như nhà in đại học Florida, người mua bản in theo yêu cầu vừa trả tiền chi phí in ấn, vừa bao cấp cho việc biên soạn phát triển, biên soạn các bản sao, và các chi phí liên quan tới các bản tải về tự do. Các nơi khác có thể có các cách thức giải quyết khác, và chúng còn đang tiến hóa.


G. Chiến lược OER
Một số tài liệu đưa ra đường lối chiến lược chung và/hoặc cụ thể cho từng đối tượng, từng cơ sở giáo dục để sử dụng và sáng tạo OER.
Tổ chức của Liên hiệp quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa - UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) đã đưa ra tuyên bố Paris nhân dịp Hội nghị OER thế giới diễn ra tại Paris, Pháp trong các ngày 20-22/06/2012 gồm 10 điểm sau:
  1. Khuyến khích nâng cao nhận thức và sử dụng OER.
  2. Tạo thuận lợi cho các môi trường sử dụng CNTT-TT.
  3. Tăng cường phát triển các chiến lược và chính sách OER.
  4. Thúc đẩy hiểu biết và sử dụng các khung cấp phép mở.
  5. Hỗ trợ xây dựng năng lực vì sự phát triển bền vững các tư liệu học tập có chất lượng.
  6. Khuyến khích các liên minh chiến lược về OER.
  7. Thúc đẩy phát triển và áp dụng OER trong các ngôn ngữ và ngữ cảnh văn hóa khác nhau.
  8. Thúc đẩy nghiên cứu về OER
  9. Tạo thuận lợi phát hiện, tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ OER.
  10. Thúc đẩy việc cấp phép mở cho các tư liệu giáo dục được tạo ra từ ngân sách nhà nước.


Cũng UNESCO, trong tài liệu của mình với đầu đề: “Các chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học”, xuất bản năm 2015, đã đưa ra các chỉ dẫn chiến lược cho 5 đối tượng sau:
  1. Chính phủ
  2. Cơ sở giáo dục đại học
  3. Các giáo viên - đội ngũ nghiên cứu hàn lâm
  4. Các sinh viên tổ chức, cơ sở của sinh viên
  5. Các cơ sở đảm bảo, công nhận chất lượng và các cơ sở thừa nhận hàn lâm


Có khuyến cáo cho chính phủ xây dựng chính sách OER, đặc biệt với các ngôn ngữ ít được sử dụng hơn - LUL (Less Used Languages), có thể là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh các điểm như:
  1. Các chính phủ nên áp dụng các chính sách quốc gia để hỗ trợ OER trong các Ngôn ngữ ít được sử dụng hơn (LUL).
  2. Các chính phủ nên tạo thuận lợi trong quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, nhà nước và giáo dục, các thị trường và khu vực cộng tác vì OER có chất lượng.
  3. Các chính phủ nên nắm lấy sự lãnh đạo trong việc tạo thuận lợi cho sự phát triển các khuôn khổ và các tiêu chuẩn mở để làm cho dễ dàng khả năng của các kho và các hệ thống OER làm việc được với nhau (cung cấp và chấp nhận nội dung giáo dục, các ứng dụng tương thích và các dịch vụ được ngữ cảnh hóa).


Đối với chiến lược OER của một trường đại học cụ thể, có thể tham khảo cuốn sách với đầu đề: “Chiến lược tài nguyên giáo dục mở (OER) 2014-2016” của trường đại học Nam Phi. Trường đại học này đưa ra chiến lược xây dựng OER gồm các điểm sau:
  1. Phát triển hệ thống quản lý có hiệu quả về sở hữu trí tuệ.
  2. Thiết lập một khung cấp phép mở.
  3. Tích hợp có hệ thống OER có sẵn, chất lượng cao một cách thích hợp vào các khóa học và phát hành chúng để những người khác sử dụng.
  4. Đóng góp cho kho tài nguyên OER toàn cầu.
  5. Đánh giá và rà soát lại các chính sách của tổ chức để kết hợp các giá trị và quy trình OER.


Hàng loạt các chỉ dẫn chiến lược về OER được UNESCO đưa ra trong tài liệu có tên: “Chỉ dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)”, được xuất bản trong năm 2015.
Gần đây nhất, Bộ Giáo dục Mỹ phát động chiến dịch khuyến khích các trường học Đi với Mở (#GoOpen) bằng các tài nguyên giáo dục, theo đó, Bộ đề xuất quy định yêu cầu các tư liệu giáo dục được tạo ra bằng tiền trợ cấp của liên bang sẽ phải được cấp phép mở sao cho bất kỳ trường nào cũng truy cập được.


H. Xây dựng thí điểm nền tảng OER
Có lẽ, ngoài 2 dự án bản địa hóa OER là TESSA và TESS-India được nêu ở trên ra, còn một ví dụ nữa về xây dựng hệ thống CNTT để sáng tạo, phân phối và truy cập OER ở trường đại học KNUST, Ghana để các cơ sở có quan tâm có thể tham khảo học tập. Dự án của trường đại học này có sự trợ giúp của trường đại học Michigan cũng như sự hỗ trợ tài chính từ các quỹ Hewlett và Gates để hỗ trợ với sự phát triển học tập điện tử (e-learning) và OER tại KNUST và Đại học Ghana.


I. Tóm lược
OER có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho giáo dục, đặc biệt trong việc giảm chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng giáo dục, có khả năng huy động được cả các giáo viên và sinh viên vào việc sáng tạo và sử dụng OER, chứ không chỉ đơn thuần là những người sử dụng thụ động các tư liệu giáo dục.
Để có thể thành công trong việc sử dụng, sáng tạo, kết hợp và tái mục đích OER, đòi hỏi các bên tham gia đóng góp phải có các kỹ năng mới nhất định, nhất là lĩnh hội được các khía cạnh triết lý - các nguyên tắc, pháp lý - hệ thống giấy phép - sở hữu trí tuệ, cũng như việc xây dựng các cộng đồng và hệ sinh thái OER, điều có xuất xứ từ phong trào phần mềm tự do nguồn mở, để có khả năng giải quyết tốt được tất cả các khía cạnh mà OER đặt ra.
Bài viết này không đi sâu vào chi tiết bất kỳ khía cạnh nào của OER, mà cố gắng đưa ra tổng quan với một vài gợi ý và liệt kê ra các khía cạnh đó một cách cơ bản nhất và chỉ ra các tham chiếu tối thiểu tới các tài liệu để những ai trong số những người đọc có quan tâm có khả năng nghiên cứu tiếp các khía cạnh đó một cách chi tiết hơn.


J. Một vài đề xuất
Để có thể nhanh chóng và hiệu quả đưa việc sử dụng và sáng tạo OER vào trong thực tế ở Việt Nam, một số đề xuất như sau:
  1. Xây dựng một đề tài - dự án thí điểm về OER trong một vài trường đại học, cả công lập và dân lập ở Việt Nam; và/hoặc
  2. Xây dựng một đề tài - dự án chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam dạng như các chương trình TESSA hoặc TESS-India với sự tham gia của một vài trường đại học, cả công lập và dân lập, cũng như một số trường phổ thông hệ 12 lớp
  3. Một đề tài - dự án kết hợp được cả 2 cách ở trên để có khả năng triển khai có hiệu quả nhất về chi phí.
  4. Cân nhắc khả năng thành lập đơn vị - tổ chức Creative Commons Việt Nam.


K. Kịch bản giả tưởng về tương lai của giáo dục Việt Nam
Có nhiều định nghĩa khác nhau về OER. Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra định nghĩa OER trên website của mình là: Các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở là các tư liệu học tập có thể được sử dụng cho việc dạy, học và đánh giá mà không có chi phí. Chúng có thể được sửa đổi và được phân phối lại mà không vi phạm các luật bản quyền”.
Đây là một vấn đề mới, trên thế giới cũng chỉ mới bắt đầu có tại Mỹ (MIT) từ năm 2002. Tuy nhiên, số lượng các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở, nhất là các giấy phép trong hệ thống các giấy phép tư liệu mở Creative Commons kể từ khi hệ thống này ra đời vào năm 2002 cho tới nay đã ra tăng nhanh chóng. Theo các số liệu thống kê trên wikipedia, tới tháng 11/2014 đã có khoảng 880 triệu, thậm chí hơn 1 tỷ tư liệu được cấp phép Creative Commons trong những ngày này, còn trên trang chuyên để lưu trữ ảnh tự do Flickr, cho tới tháng 3/2015 đã có 306 triệu ảnh chụp mang giấy phép Creative Commons, và chúng vẫn đang gia tăng nhanh chóng từng ngày.
  1. Thông tin mới gần đây từ Bộ Giáo dục Mỹ
    1. Ngày 29/10/2015 vừa rồi, Bộ Giáo dục Mỹ đã phát động chiến dịch #GoOpen khuyến khích các trường phổ thông hệ 12 lớp đi theo chiến dịch đó bằng các tài nguyên giáo dục. Với chiến dịch này, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra thông cáo báo chí, theo đó đề xuất quy định yêu cầu các tư liệu giáo dục được tạo ra bằng tiền trợ cấp của liên bang sẽ phải được cấp phép mở sao cho bất kỳ trường nào cũng truy cập được.
    2. Cũng trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề xuất là vào mùa thu 2016, mỗi trường phổ thông trong số 15.000 trường ở Mỹ sẽ có 1 cuốn sách giáo khoa mở. Bằng cách này được kỳ vọng mỗi trường có thể tiết kiệm được vài chục ngàn USD.
Điều này cho thấy, có thể trong vòng 5 năm tới, tất cả các sách giáo khoa trong các trường phổ thông ở nước Mỹ sẽ là các sách giáo khoa mở mà bất kỳ ai trên thế giới này cũng có thể tải về để sử dụng, kể cả các học sinh Việt Nam.
Nhiều khả năng các cuốn sách giáo khoa mở đó sau đó sẽ được dịch sang các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, trong đó có tiếng Việt, giống như những gì được làm trên website MERLOT được nêu ngay bên dưới đây.
  1. Trong vô số các website chuyên dành cho các OER trong giáo dục đại học, mà những người học trên toàn thế giới có thể tham gia học tập một cách tự do, có những site mà các thông tin không chỉ bằng tiếng Anh, mà được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Việc bản địa hóa sang ngôn ngữ tiếng Việt này có khả năng được dịch tự động bằng máy và/hoặc với sự tham gia của những người tình nguyện, đăng ký với website để tham gia vào cộng đồng giúp cho việc dịch, bản địa hóa sang tiếng Việt đối với các thông tin và tài nguyên giáo dục có trên website. Ví dụ về một website như vậy là: https://www.merlot.org/merlot/index.htm
Với sự tham gia dịch và bản địa hóa sang các ngôn ngữ khác, trong đó có tiếng Việt, của các cộng đồng những người dịch - bản địa hóa, được kỳ vọng là số lượng các OER và các thông tin liên quan sẽ ngày càng gia tăng, cả về số lượng và chất lượng.
  1. Kết hợp 2 điều ở trên lại cho chúng ta thấy, rất có thể có khả năng trong vòng 10 năm tới tất cả các học sinh, sinh viên Việt Nam, ngồi ở Việt Nam hoặc bất kỳ nơi nào trên thế giới, chỉ với một kết nối Internet băng thông đủ rộng, là hoàn toàn có khả năng lên Internet để tải về và/hoặc tham gia vào các khóa học với các nội dung từ các cuốn sách giáo khoa mở được chuẩn hóa và cập nhật liên tục của nước Mỹ bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Điều này sẽ dễ dàng với các môn khoa học tự nhiên, dù với các môn khoa học xã hội nhân văn thì khó hơn, vì, ví dụ, các trẻ em Việt Nam trong các trường phổ thông không thể học môn lịch sử nước Mỹ hay nước nào khác mà không học lịch sử Việt Nam được.
Kể cả là như vậy, thì sẽ có 1 câu hỏi đặt ra khi đó:


Các giáo viên và các trường phổ thông ở Việt Nam sẽ ra sao nếu điều này xảy ra? Liệu có bao nhiêu học sinh Việt Nam sẽ tham gia vào các khóa học như vậy?


  1. Được biết, có 22 triệu người Việt Nam hàng ngày đang sống và làm việc trong khu vực giáo dục.
  2. Một trong nhiều lựa chọn chiến lược của Việt Nam trong tương lai cũng có thể là đi với phong trào OER cùng thế giới. Trong trường hợp này, giáo dục Việt Nam có thể:
    1. Phát triển cùng và không tách rời khỏi các cộng đồng phát triển OER của thế giới, có được các phiên bản cập nhật nhất các OER của thế giới, cả với giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học.
    2. Giảm được chi phí của học sinh, sinh viên và những người học tập suốt đời về sách giáo khoa và các tài nguyên giáo dục mà lại giữ được và/hoặc làm gia tăng được chất lượng giáo dục ở tất cả các mức học bằng việc sử dụng và sáng tạo các OER chất lượng cao, kể cả ở mức thế giới.
    3. Kỳ vọng có thể biến đổi ít nhất từ 5-10% số lượng những người sống và làm việc hàng ngày trong khu vực giáo dục, tương đương với khoảng 1,1-2,2 triệu người, từ những người thụ động sử dụng các tài nguyên giáo dục nhập khẩu của nước ngoài, hiện đang rất phổ biến trong các trường đại học, thành những người cộng tác sáng tạo ra và sử dụng các OER tiếng Việt cho các nhu cầu của người Việt Nam, kể cả cho các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số của Việt Nam trong tương lai, giống như những gì đã được làm với các dự án OER và/hoặc bản địa hóa OER trên thế giới như TESS-India, TESSA, và một số dự án OER với các ngôn ngữ ít được sử dụng - LUL (Less Used Languages) tại một số quốc gia châu Âu như Federica của Ý, Periodica của Latvi, NDLA của Nauy, Scholaris của Balan, RURA của Pháp và Wikiwijs của Hà Lan...


Công việc này là khó khăn, dài hạn và chỉ có khả năng trở thành hiện thực khi giáo dục của Việt Nam có được đường lối rõ ràng về OER từ bây giờ.


L. Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu dịch sang tiếng Việt để tham khảo, có sử dụng trong bài
  1. 'Dạy học trong kỷ nguyên số', tác giả: Anthony Williams (Tony) Bates, xuất bản lần đầu ngày 15/04/2015
  2. 'Làm thế nào để tăng cường tài nguyên giáo dục mở', Liên minh Giáo dục Tự do - Tài liệu quan điểm, xuất bản tháng 02/2015
  3. 'Các chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học', của UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2015
  4. 'Chỉ dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)', của Neil Butcher, UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2015
  5. 'Chiến lược Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) 2014-2016' của Đại học Nam Phi (UNISA), Đại học Nam Phi xuất bản, 26/03/2014
  6. 'Rà soát lại mới nhất các vấn đề chất lượng có liên quan tới tài nguyên giáo dục mở (OER)', các tác giả: Anthony F. Camilleri, Ulf Daniel Ehlers, Jan Pawlowski, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chung, Ủy ban châu Âu, xuất bản năm 2014
  7. 'Triển vọng về chính sách và các thực tiễn của châu Á', Tài nguyên Giáo dục Mở châu Á xuất bản, tháng 09/2012
  8. 'Tài liệu sổ tay dữ liệu mở v1.1.0', Quỹ Tri thức Mở xuất bản, 2012
  9. 'Các chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học', của UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2011
  10. 'Chỉ dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)', của Neil Butcher, UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2011
  11. 'Tóm tắt chính sách - Tài nguyên Giáo dục Mở trong ngôn ngữ của riêng bạn, theo cách của bạn' của các tác giả Udnaes, M., Titlestad, G., Johannessen, Ø, Nhóm LangOER (http://langoer.eun.org/) xuất bản ngày 07/01/2015.
  12. 'Tóm tắt chính sách - Tính mở ảnh hưởng tới giáo dục đại học như thế nào' của các tác giả Neil Butcher và Sarah Hoosen thuộc Viện UNESCO về Công nghệ Thông tin trong Giáo dục (UNESCO IITE) xuất bản năm 2014.


2. Các liên kết tham khảo sử dụng trong bài

  1. MDDE 622: Tính mở trong giáo dục: https://mdde.wikispaces.com/MDDE+622+Openness+in+Education
  2. Giáo dục mở trên trang web của Bộ Giáo dục Mỹ: http://tech.ed.gov/open-education/
  3. Giáo dục mở và tài nguyên, giấy phép tư liệu mở, trên blog của Lê Trung Nghĩa: http://vnfoss.blogspot.com/2014/06/giao-duc-mo-va-tai-nguyen-giay-phep-tu.html
Tài liệu này mang giấy phép Creative Commons Attribution v4.0 International.

Bạn được trao các quyền để sử dụng, chia sẻ, sao chép, phân phối, phân phối lại, áp dụng, pha trộn, tùy biến và xây dựng dựa trên các tư liệu của nó, kể cả thương mại hóa, miễn là bạn ghi nhận công (các) tác giả gốc ban đầu của tài liệu.

Một bản sao giấy phép này có tại: http://creativecommons.org/licenses/by/4.0/.


30/12/2015 - Sửa cho đúng: Mục K. đoạn 1.b.:
Cũng trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề xuất là vào mùa thu 2016, mỗi trường phổ thông trong số 15.000 trường ở Mỹ sẽ có 1 cuốn sách giáo khoa mở. Bằng cách này được kỳ vọng mỗi trường có thể tiết kiệm được vài chục ngàn USD”.
được sửa đổi cho đúng thành:
Cũng trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề xuất là vào mùa thu 2016, 10 khu trường thí điểm, trong số 15.000 trường ở Mỹ, mỗi trường sẽ có 1 cuốn sách giáo khoa mở. Bằng cách này được kỳ vọng mỗi trường có thể tiết kiệm được vài chục ngàn USD”.

Bạn có thể tải về bài trình bày này ở dạng:
  1. Toàn văn tệp .PDF tại địa chỉ:
  1. Tóm tắt dạng slide tại địa chỉ:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.