Phần
3 - Các khía cạnh khác của OER và kịch bản giả tưởng
cho giáo dục Việt Nam
Mục
lục:
Phần
3 - Các khía cạnh khác của OER và kịch bản giả tưởng
cho giáo dục Việt Nam
Phần
này có khả năng là phần hấp dẫn nhất đối với những
người muốn thử và/hoặc sử dụng ngay các OER có sẵn.
Một
vài công cụ tìm kiếm OER và các tư liệu được cấp
phép mở khác
- Tìm kiếm bằng trang tìm kiếm OER của Creative Commons:
Hình
7. Trang tìm kiếm OER của Creative Commons
Để
tìm kiếm các tư liệu được cấp phép tự do - mở như
các OER, có 4 bước sau:
- Tới địa chỉ trang tìm kiếm http://search.creativecommons.org/
- Gõ vào cụm từ cần tiềm kiếm, ví dụ cụm từ 'computer science' như trong Hình 7 rồi chọn giấy phép phù hợp bằng cách chọn hoặc bỏ chọn các ô vuông nhỏ bên dưới để chọn giấy phép như bạn mong muốn, nơi có các cụm từ như (1) sử dụng cho các mục đích thương mại (use for commercial purposes) và (2) sửa đổi, tùy biến hoặc xây dựng dựa vào nó (modify, adapt, or build upon).
- Chọn dạng tư liệu bằng cách xem trong số các ô chữ nhật lớn nằm giữa trang tìm kiếm, tư liệu nào bạn muốn tìm. Ví dụ, với Flickr là để tìm ảnh, YouTube là để tìm các video, hay Google là để tìm trên Web.
- Tiến hành tìm kiếm bằng cách nháy chuột vào ô nào bạn muốn tìm các tư liệu.
Danh
sách kết quả sẽ hiện ra, và thường đó là các tư
liệu được cấp phép mở, như các OER. Dù vậy, được
khuyến cáo bạn nên kiểm tra lại các kết quả đó một
lần nữa khi sử dụng để chắc chắn chúng có giấy
phép Creative Commons.
- Cũng có các site tìm kiếm OER khác, ví dụ một số site như:
- http://edtechpost.wikispaces.com/OER+Dynamic+Search+Engine: hàng trăm liên kết ở site này dẫn tới các site khác có chứa các OER và các sách giáo khoa mở.
- Ví dụ về số lượng các tư liệu mở mà bạn có thể sử dụng tự do trên một số site:
- http://commons.wikimedia.org/wiki/Main_Page: có hơn 13 triệu tệp hình ảnh, âm thanh, đa phương tiện. Có các đường dẫn tới nhiều trang dạng wiki khác.
- http://www.oercommons.org/: Có khoảng 40.000 tài nguyên các khóa học từ phổ thông 12 lớp tới cao đẳng, có giấy phép mở, sử dụng tự do.
- http://openlibrary.org/: có hơn 1 triệu đầu sách các loại.
- http://www.opentextbook.org/: là nơi đăng ký và tập hợp các đường dẫn tới các dự án, các kho sách giáo khoa mở.
- http://www.oajse.com/: Cổng truy cập các tạp chí điện tử mở của Đại học Mở Krishna Kanta Handiqui. Là điểm khởi đầu để tìm kiếm vô số các tạp chí mở khác trên thế giới.
- Một số trang có các OER cho các đại học, được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt, như trang MERLOT II, https://www.merlot.org/merlot/index.htm. Rất có thể với thời gian, các site OER đa ngôn ngữ này sẽ gia tăng, có lợi cho những người học ở khắp nơi trên thế giới, và cũng vì thế có khả năng thách thức các trường học truyền thống trên khắp thế giới.
- Các tài liệu dịch sang tiếng Việt được sử dụng cho bài viết này (xem phần 'Tài liệu dịch sang tiếng Việt để tham khảo' ở cuối tài liệu này) đều là các OER, chúng đều có giấy phép tư liệu mở.
Trung
tâm Nghiên cứu OER (OER Research Hub) của trường Đại học
Mở của Vương quốc Anh đã xuất bản “Báo
cáo bằng chứng OER 2013-2014 - Xây
dựng sự hiểu biết về giáo dục mở”. Cuộc khảo
sát đã đưa ra 11 giả thuyết, được thực hiện ở 180
nước, thu được 6.390 câu trả lời, trong số đó có
50,3% những người học phi chính quy, 24,7% những người
học chính quy, 21,6% các nhà giáo dục và 3,4% các thủ
thư, và đã có những phát hiện chính sau:
- 37,6% các nhà giáo dục và 55,7% những người học chính quy nói rằng sử dụng OER cải thiện sự thỏa mãn của sinh viên
- 27,5% các nhà giáo dục và 31,9% những người học chính quy đồng ý rằng sử dụng OER làm cho các điểm số các bài kiểm tra tốt hơn
- 79,4% những người sử dụng OER tùy biến thích nghi các tài nguyên cho phù hợp với các nhu cầu của họ
- 79,5% các nhà giáo dục sử dụng OER để có các ý tưởng và sự truyền cảm hứng mới
- 88,4% những người học nói rằng cơ hội học tập nghiên cứu mà không có chi phí đã ảnh hưởng tới quyết định của họ để sử dụng OER
- 74,9% người học không chính quy sử dụng OER để có được kinh nghiệm học tập
- Việc biết ở đâu để tìm các tài nguyên là một trong những thách thức lớn nhất cho việc sử dụng OER
- Tri thức chung về các kho OER được thiết lập tốt là thấp
- Chỉ 5% các nhà giáo dục nói họ không chia sẻ thông tin về OER
- Chỉ 12,4% các nhà giáo dục tạo ra các tài nguyên và xuất bản chúng với một giấy phép Creative Commons
- Các video là dạng OER được sử dụng thường xuyên nhất.
- Chi phí và sự truy cập tới các tư liệu có thể có ảnh hưởng tới sự giữ lại các sinh viên
- 40,9% tất cả những người học chính quy trong mẫu khảo sát coi OER có ảnh hưởng tích cực trong việc giúp họ hoàn thành khóa học nghiên cứu của họ
- 79,6% các sinh viên chính quy nghĩ họ tiết kiệm được tiền bằng việc sử dụng OER
- 31,5% những người học không chính quy nói rằng sự quan tâm của họ trong việc sử dụng OER là cơ hội để thử nội dung mức đại học trước khi đăng ký vào khóa học phải trả tiền
- 83,2% những người học phi chính quy nói họ có khả năng nhiều hơn chọn khóa học tự do khác hoặc học tập nghiên cứu một tài nguyên giáo dục tự do mở, và 24,2% nói rằng họ có thể tiếp tục chọn một khóa học phải trả tiền như là kết quả của việc sử dụng OER
- Những người học chính quy chọn OER là thích hợp cho các nhu cầu đặc biệt của họ, có sự mô tả tốt các mục đích và các kết quả đầu ra của việc học tập, và dễ dàng tải về
- Chỉ 15,5% những người học phi chính quy chọn OER với một giấy phép mở cho phép tùy biến thích nghi bất chấp thực tế là 84,7% nói họ tùy biến thích nghi các tài nguyên họ thấy phù hợp với các nhu cầu của họ
Còn
đây là các kết luận chính của cuộc khảo sát, được
xuất bản vào tháng 02/2015:
- Triển khai OER có thể cải thiện hiệu năng của sinh viên, nhưng thường gián tiếp qua lòng tin, sự thỏa mãn và sự nhiệt tình được nâng cao đối với chủ đề đó
- Sử dụng lại OER xảy ra ở phạm vi rộng, được sự cấp phép mở tạo thuận lợi
- Sử dụng OER khuyến khích thực hành phản biện đối với các nhà giáo dục
- Nhiều sinh viên đã sử dụng OER một cách phi chính quy trước khi đăng ký học tập nghiên cứu chính quy, và tiếp tục sử dụng OER để bổ sung cho công việc của họ
- Nhận thức về OER và Creative Commons đang gia tăng, nhưng các kho OER vẫn khá ít được sử dụng và ít được biết tới khi so sánh với các nguồn OER khác như YouTube, Viện Khan (Khan Academy) hoặc các bài giảng của TED
Trong
ví dụ cụ thể một OER về toán học, David
Wiley, một giáo sư đại học và là người lãnh đạo
Nhóm Giáo dục Mở (Open
Education Group) đã nêu: 'Sử
dụng OER đã dẫn tới một sự gia tăng 50 lần (nghĩa là,
sự cải thiện 5.000%) trong tỷ lệ phần trăm [sinh viên]
đỗ theo từng USD. Bất kể bạn nhìn nó theo cách nào,
thì đó là một sự
cải thiện tận gốc rễ'.
Một
số tài liệu có đề cập tới khía cạnh tài chính của
OER, cụ thể hơn là với các sách giáo khoa mở, như trong
tài liệu “Hứa
hẹn năm 2012 về sách giáo khoa truy cập mở: Mô hình để
thành công”. Tài liệu này đề cập tới 2 việc sau:
- Các nguồn vốn tiềm năng cung cấp cho sản xuất và tiêu thụ sách giáo khoa mở và các dịch vụ xung quanh nó. Có vài dạng cấp vốn như:
- Bán sách kèm tài liệu in phụ trợ được in theo yêu cầu, phiên bản tiếng nói...
- Bán sách, phiên bản có và không có quảng cáo với giá thành khác nhau
- Cấp tiền một lần từ liên bang
- Cấp tiền từ các quỹ từ thiện
- Sinh viên trả phí theo khóa học khi sách giáo khoa mở được sử dụng, thường từ 5-10 USD để lưu hành và phát triển sách mới.
- Quyên góp tiền qua website
- Các tổ chức sinh viên gây quỹ làm sách giáo khoa mở
- Kinh tế của các nhà in đại học
- Các nhà in đại học thường gặp khó khăn về kinh doanh, gợi ý nên được bao cấp một phần vì họ không chỉ có nhiệm vụ kinh doanh như các nhà xuất bản khác, mà còn có trách nhiệm truyền đạt tri thức.
- Các nhà in đại học ở Mỹ còn chưa được bao cấp một phần như ở châu Âu và vài nước khác như Canada.
- Các mô hình kinh doanh ở các nơi khác nhau là khác nhau và vẫn còn tồn tại khiếm khuyết không công bằng và không bền vững. Để khắc phục điểm yếu đó, mỗi nơi có một cách giải quyết riêng, ví dụ, như nhà in đại học Florida, người mua bản in theo yêu cầu vừa trả tiền chi phí in ấn, vừa bao cấp cho việc biên soạn phát triển, biên soạn các bản sao, và các chi phí liên quan tới các bản tải về tự do. Các nơi khác có thể có các cách thức giải quyết khác, và chúng còn đang tiến hóa.
Một
số tài liệu đưa ra đường lối chiến lược chung
và/hoặc cụ thể cho từng đối tượng, từng cơ sở
giáo dục để sử dụng và sáng tạo OER.
Tổ
chức của Liên hiệp quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa - UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization) đã đưa ra tuyên bố Paris nhân dịp Hội nghị
OER thế giới diễn ra tại Paris, Pháp trong các ngày
20-22/06/2012 gồm 10 điểm sau:
- Khuyến khích nâng cao nhận thức và sử dụng OER.
- Tạo thuận lợi cho các môi trường sử dụng CNTT-TT.
- Tăng cường phát triển các chiến lược và chính sách OER.
- Thúc đẩy hiểu biết và sử dụng các khung cấp phép mở.
- Hỗ trợ xây dựng năng lực vì sự phát triển bền vững các tư liệu học tập có chất lượng.
- Khuyến khích các liên minh chiến lược về OER.
- Thúc đẩy phát triển và áp dụng OER trong các ngôn ngữ và ngữ cảnh văn hóa khác nhau.
- Thúc đẩy nghiên cứu về OER
- Tạo thuận lợi phát hiện, tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ OER.
- Thúc đẩy việc cấp phép mở cho các tư liệu giáo dục được tạo ra từ ngân sách nhà nước.
Cũng
UNESCO, trong tài liệu của mình với đầu đề: “Các
chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục
đại học”, xuất bản năm 2015, đã đưa ra các chỉ
dẫn chiến lược cho 5 đối tượng sau:
- Chính phủ
- Cơ sở giáo dục đại học
- Các giáo viên - đội ngũ nghiên cứu hàn lâm
- Các sinh viên tổ chức, cơ sở của sinh viên
- Các cơ sở đảm bảo, công nhận chất lượng và các cơ sở thừa nhận hàn lâm
Có
khuyến cáo cho chính phủ xây dựng chính sách OER, đặc
biệt với các ngôn ngữ ít được sử dụng hơn - LUL
(Less
Used Languages), có thể là rất phù hợp với điều
kiện của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh các điểm như:
- Các chính phủ nên áp dụng các chính sách quốc gia để hỗ trợ OER trong các Ngôn ngữ ít được sử dụng hơn (LUL).
- Các chính phủ nên tạo thuận lợi trong quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, nhà nước và giáo dục, các thị trường và khu vực cộng tác vì OER có chất lượng.
- Các chính phủ nên nắm lấy sự lãnh đạo trong việc tạo thuận lợi cho sự phát triển các khuôn khổ và các tiêu chuẩn mở để làm cho dễ dàng khả năng của các kho và các hệ thống OER làm việc được với nhau (cung cấp và chấp nhận nội dung giáo dục, các ứng dụng tương thích và các dịch vụ được ngữ cảnh hóa).
Đối
với chiến lược OER của một trường đại học cụ
thể, có thể tham khảo cuốn sách với đầu đề: “Chiến
lược tài nguyên giáo dục mở (OER) 2014-2016” của trường
đại học Nam Phi. Trường đại học này đưa ra chiến
lược xây dựng OER gồm các điểm sau:
- Phát triển hệ thống quản lý có hiệu quả về sở hữu trí tuệ.
- Thiết lập một khung cấp phép mở.
- Tích hợp có hệ thống OER có sẵn, chất lượng cao một cách thích hợp vào các khóa học và phát hành chúng để những người khác sử dụng.
- Đóng góp cho kho tài nguyên OER toàn cầu.
- Đánh giá và rà soát lại các chính sách của tổ chức để kết hợp các giá trị và quy trình OER.
Hàng
loạt các chỉ dẫn chiến lược về OER được UNESCO đưa
ra trong tài liệu có tên: “Chỉ
dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)”, được
xuất bản trong năm 2015.
Gần
đây nhất, Bộ Giáo dục
Mỹ phát động chiến
dịch khuyến khích các trường học Đi với Mở
(#GoOpen) bằng các tài nguyên giáo dục, theo đó, Bộ đề
xuất quy định yêu cầu các tư liệu giáo dục được
tạo ra bằng tiền trợ cấp của liên bang sẽ phải được
cấp phép mở sao cho bất kỳ trường nào cũng truy cập
được.
Có
lẽ, ngoài 2 dự án bản địa hóa OER là TESSA và
TESS-India được nêu ở trên ra, còn một ví dụ nữa về
xây
dựng hệ thống CNTT để sáng tạo, phân phối và truy cập
OER ở trường đại học KNUST,
Ghana để các cơ sở có quan tâm có thể tham khảo học
tập. Dự án của trường đại học này có sự trợ giúp
của trường đại học Michigan cũng như sự hỗ trợ tài
chính từ các quỹ Hewlett
và Gates để hỗ trợ với sự phát triển học tập điện
tử (e-learning) và OER tại KNUST và Đại học Ghana.
OER
có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho giáo dục, đặc
biệt trong việc giảm chi phí mà vẫn đảm bảo chất
lượng giáo dục, có khả năng huy động được cả các
giáo viên và sinh viên vào việc sáng tạo và sử dụng
OER, chứ không chỉ đơn thuần là những người sử dụng
thụ động các tư liệu giáo dục.
Để
có thể thành công trong việc sử dụng, sáng tạo, kết
hợp và tái mục đích OER, đòi hỏi các bên tham gia đóng
góp phải có các kỹ năng mới nhất định, nhất là lĩnh
hội được các khía cạnh triết lý - các nguyên tắc,
pháp lý - hệ thống giấy phép - sở hữu trí tuệ, cũng
như việc xây dựng các cộng đồng và hệ sinh thái OER,
điều có xuất xứ từ phong trào phần mềm tự do nguồn
mở, để có khả năng giải quyết tốt được tất cả
các khía cạnh mà OER đặt ra.
Bài
viết này không đi sâu vào chi tiết bất kỳ khía cạnh
nào của OER, mà cố gắng đưa ra tổng quan với một vài
gợi ý và liệt kê ra các khía cạnh đó một cách cơ bản
nhất và chỉ ra các tham chiếu tối thiểu tới các tài
liệu để những ai trong số những người đọc có quan
tâm có khả năng nghiên cứu tiếp các khía cạnh đó một
cách chi tiết hơn.
Để
có thể nhanh chóng và hiệu quả đưa việc sử dụng và
sáng tạo OER vào trong thực tế ở Việt Nam, một số đề
xuất như sau:
- Xây dựng một đề tài - dự án thí điểm về OER trong một vài trường đại học, cả công lập và dân lập ở Việt Nam; và/hoặc
- Xây dựng một đề tài - dự án chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam dạng như các chương trình TESSA hoặc TESS-India với sự tham gia của một vài trường đại học, cả công lập và dân lập, cũng như một số trường phổ thông hệ 12 lớp
- Một đề tài - dự án kết hợp được cả 2 cách ở trên để có khả năng triển khai có hiệu quả nhất về chi phí.
- Cân nhắc khả năng thành lập đơn vị - tổ chức Creative Commons Việt Nam.
Có
nhiều định nghĩa khác nhau về OER. Bộ
Giáo dục Mỹ đã đưa ra định nghĩa OER trên website
của mình là: “Các
tài nguyên giáo dục được cấp phép mở là các tư liệu
học tập có thể được sử dụng cho việc dạy, học và
đánh giá mà không có chi phí. Chúng có thể được sửa
đổi và được phân phối lại mà không vi phạm các luật
bản quyền”.
Đây
là một vấn đề mới, trên thế giới cũng chỉ mới bắt
đầu có tại Mỹ (MIT) từ năm 2002. Tuy nhiên, số lượng
các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở, nhất là
các giấy phép trong hệ thống các giấy phép tư liệu mở
Creative Commons kể từ khi hệ thống này ra đời vào năm
2002 cho tới nay đã ra tăng nhanh chóng. Theo các số liệu
thống kê trên wikipedia, tới
tháng 11/2014 đã có khoảng 880 triệu, thậm chí hơn
1 tỷ tư liệu được cấp phép Creative Commons trong
những ngày này, còn trên trang chuyên để lưu trữ ảnh
tự do Flickr,
cho tới tháng 3/2015 đã có 306 triệu ảnh chụp mang giấy
phép Creative Commons, và chúng vẫn đang gia tăng nhanh chóng
từng ngày.
- Thông tin mới gần đây từ Bộ Giáo dục Mỹ
- Ngày 29/10/2015 vừa rồi, Bộ Giáo dục Mỹ đã phát động chiến dịch #GoOpen khuyến khích các trường phổ thông hệ 12 lớp đi theo chiến dịch đó bằng các tài nguyên giáo dục. Với chiến dịch này, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra thông cáo báo chí, theo đó đề xuất quy định yêu cầu các tư liệu giáo dục được tạo ra bằng tiền trợ cấp của liên bang sẽ phải được cấp phép mở sao cho bất kỳ trường nào cũng truy cập được.
- Cũng trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề xuất là vào mùa thu 2016, mỗi trường phổ thông trong số 15.000 trường ở Mỹ sẽ có 1 cuốn sách giáo khoa mở. Bằng cách này được kỳ vọng mỗi trường có thể tiết kiệm được vài chục ngàn USD.
Điều
này cho thấy, có thể trong vòng 5 năm tới, tất cả các
sách giáo khoa trong các trường phổ thông ở nước Mỹ
sẽ là các sách giáo khoa mở mà bất kỳ ai trên thế
giới này cũng có thể tải về để sử dụng, kể cả
các học sinh Việt Nam.
Nhiều
khả năng các cuốn sách giáo khoa mở đó sau đó sẽ được
dịch sang các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, trong đó
có tiếng Việt, giống như những gì được làm trên
website MERLOT được nêu ngay bên dưới đây.
- Trong vô số các website chuyên dành cho các OER trong giáo dục đại học, mà những người học trên toàn thế giới có thể tham gia học tập một cách tự do, có những site mà các thông tin không chỉ bằng tiếng Anh, mà được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Việc bản địa hóa sang ngôn ngữ tiếng Việt này có khả năng được dịch tự động bằng máy và/hoặc với sự tham gia của những người tình nguyện, đăng ký với website để tham gia vào cộng đồng giúp cho việc dịch, bản địa hóa sang tiếng Việt đối với các thông tin và tài nguyên giáo dục có trên website. Ví dụ về một website như vậy là: https://www.merlot.org/merlot/index.htm
Với
sự tham gia dịch và bản địa hóa sang các ngôn ngữ
khác, trong đó có tiếng Việt, của các cộng đồng
những người dịch - bản địa hóa, được kỳ vọng là
số lượng các OER và các thông tin liên quan sẽ ngày càng
gia tăng, cả về số lượng và chất lượng.
- Kết hợp 2 điều ở trên lại cho chúng ta thấy, rất có thể có khả năng trong vòng 10 năm tới tất cả các học sinh, sinh viên Việt Nam, ngồi ở Việt Nam hoặc bất kỳ nơi nào trên thế giới, chỉ với một kết nối Internet băng thông đủ rộng, là hoàn toàn có khả năng lên Internet để tải về và/hoặc tham gia vào các khóa học với các nội dung từ các cuốn sách giáo khoa mở được chuẩn hóa và cập nhật liên tục của nước Mỹ bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Điều này sẽ dễ dàng với các môn khoa học tự nhiên, dù với các môn khoa học xã hội nhân văn thì khó hơn, vì, ví dụ, các trẻ em Việt Nam trong các trường phổ thông không thể học môn lịch sử nước Mỹ hay nước nào khác mà không học lịch sử Việt Nam được.
Kể
cả là như vậy, thì sẽ có 1 câu hỏi đặt ra khi đó:
Các
giáo viên và các trường phổ thông ở Việt Nam sẽ ra
sao nếu điều này xảy ra? Liệu có bao nhiêu học sinh
Việt Nam sẽ tham gia vào các khóa học như vậy?
- Được biết, có 22 triệu người Việt Nam hàng ngày đang sống và làm việc trong khu vực giáo dục.
- Một trong nhiều lựa chọn chiến lược của Việt Nam trong tương lai cũng có thể là đi với phong trào OER cùng thế giới. Trong trường hợp này, giáo dục Việt Nam có thể:
- Phát triển cùng và không tách rời khỏi các cộng đồng phát triển OER của thế giới, có được các phiên bản cập nhật nhất các OER của thế giới, cả với giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học.
- Giảm được chi phí của học sinh, sinh viên và những người học tập suốt đời về sách giáo khoa và các tài nguyên giáo dục mà lại giữ được và/hoặc làm gia tăng được chất lượng giáo dục ở tất cả các mức học bằng việc sử dụng và sáng tạo các OER chất lượng cao, kể cả ở mức thế giới.
- Kỳ vọng có thể biến đổi ít nhất từ 5-10% số lượng những người sống và làm việc hàng ngày trong khu vực giáo dục, tương đương với khoảng 1,1-2,2 triệu người, từ những người thụ động sử dụng các tài nguyên giáo dục nhập khẩu của nước ngoài, hiện đang rất phổ biến trong các trường đại học, thành những người cộng tác sáng tạo ra và sử dụng các OER tiếng Việt cho các nhu cầu của người Việt Nam, kể cả cho các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số của Việt Nam trong tương lai, giống như những gì đã được làm với các dự án OER và/hoặc bản địa hóa OER trên thế giới như TESS-India, TESSA, và một số dự án OER với các ngôn ngữ ít được sử dụng - LUL (Less Used Languages) tại một số quốc gia châu Âu như Federica của Ý, Periodica của Latvi, NDLA của Nauy, Scholaris của Balan, RURA của Pháp và Wikiwijs của Hà Lan...
Công
việc này là khó khăn, dài hạn và chỉ có khả năng trở
thành hiện thực khi giáo dục của Việt Nam có được
đường lối rõ ràng về OER từ bây giờ.
1.
Tài liệu dịch sang tiếng Việt để tham khảo, có sử
dụng trong bài
- 'Dạy học trong kỷ nguyên số', tác giả: Anthony Williams (Tony) Bates, xuất bản lần đầu ngày 15/04/2015
- 'Tài nguyên Giáo dục Mở và các thực tiễn sư phạm trong giáo dục đại học của châu Phi. Triển vọng từ dự án ROER4D'. Cheryl Hodgkinson-Williams, Transform 2015 xuất bản ngày 07/04/2015
- 'Làm thế nào để tăng cường tài nguyên giáo dục mở', Liên minh Giáo dục Tự do - Tài liệu quan điểm, xuất bản tháng 02/2015
- 'Các chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học', của UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2015
- 'Chỉ dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)', của Neil Butcher, UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2015
- 'Chiến lược Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) 2014-2016' của Đại học Nam Phi (UNISA), Đại học Nam Phi xuất bản, 26/03/2014
- 'Rà soát lại mới nhất các vấn đề chất lượng có liên quan tới tài nguyên giáo dục mở (OER)', các tác giả: Anthony F. Camilleri, Ulf Daniel Ehlers, Jan Pawlowski, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chung, Ủy ban châu Âu, xuất bản năm 2014
- 'Triển vọng về chính sách và các thực tiễn của châu Á', Tài nguyên Giáo dục Mở châu Á xuất bản, tháng 09/2012
- 'Tài liệu sổ tay dữ liệu mở v1.1.0', Quỹ Tri thức Mở xuất bản, 2012
- 'Các chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học', của UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2011
- 'Chỉ dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)', của Neil Butcher, UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập (COL) xuất bản năm 2011
- 'Chính sách phát triển và sử dụng các tài nguyên giáo dục mở - đại học Khoa học và Công nghệ KWAME NKRUMAH (KNUST)', Kumasi, Ghana, tháng 8/2010
- 'Ảnh hưởng của sử dụng OER lên việc dạy và học: dữ liệu từ trung tâm nghiên cứu OER (2013-2014)', Hiệp hội Nghiên cứu Giáo dục Anh, 2014
- 'Báo cáo bằng chứng OER 2013-2014 - Xây dựng sự hiểu biết về giáo dục mở', Trung tâm Nghiên cứu OER, 2014
- 'Học từ tiếp cận của TESS-India về bản địa hóa OER xuyên khắp các bang của Ấn Độ', Hiệp hội Nghiên cứu Giáo dục Anh, 2014
- 'Vai trò của bản địa hóa OER trong việc xây dựng mối quan hệ đối tác tri thức vì sự phát triển: So sánh các dự án cho các giáo viên TESSA và TESS-India', các tác giả: Alison Buckler, Leigh-Anne Perryman, Shankar Musafir và Tim Seal, 2014
- 'Bộ Giáo dục Mỹ phát động chiến dịch khuyến khích các trường học Đi với Mở (#GoOpen) bằng các tài nguyên giáo dục', Bộ Giáo dục Mỹ xuất bản, 29/10/2015
- 'Hứa hẹn năm 2012 về sách giáo khoa truy cập mở: Mô hình để thành công', Robin Donaldson & David Nelson, 2012
- 'Tóm tắt chính sách - Tài nguyên Giáo dục Mở trong ngôn ngữ của riêng bạn, theo cách của bạn' của các tác giả Udnaes, M., Titlestad, G., Johannessen, Ø, Nhóm LangOER (http://langoer.eun.org/) xuất bản ngày 07/01/2015.
- 'Tóm tắt chính sách - Tính mở ảnh hưởng tới giáo dục đại học như thế nào' của các tác giả Neil Butcher và Sarah Hoosen thuộc Viện UNESCO về Công nghệ Thông tin trong Giáo dục (UNESCO IITE) xuất bản năm 2014.
2.
Các liên kết tham khảo sử dụng trong bài
- MDDE 622: Tính mở trong giáo dục: https://mdde.wikispaces.com/MDDE+622+Openness+in+Education
- Giáo dục mở trên trang web của Bộ Giáo dục Mỹ: http://tech.ed.gov/open-education/
- Giáo dục mở và tài nguyên, giấy phép tư liệu mở, trên blog của Lê Trung Nghĩa: http://vnfoss.blogspot.com/2014/06/giao-duc-mo-va-tai-nguyen-giay-phep-tu.html
Tài
liệu này mang giấy phép Creative
Commons Attribution v4.0 International.
Bạn
được trao các quyền để sử dụng, chia sẻ, sao chép,
phân phối, phân phối lại, áp dụng, pha trộn, tùy
biến và xây dựng dựa trên các tư liệu của nó, kể
cả thương mại hóa, miễn là bạn ghi nhận công (các)
tác giả gốc ban đầu của tài liệu.
Một
bản sao giấy phép này có tại:
http://creativecommons.org/licenses/by/4.0/.
|
30/12/2015 - Sửa cho đúng: Mục
K. đoạn 1.b.:
“Cũng
trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề
xuất là vào mùa thu 2016, mỗi trường phổ thông trong số
15.000 trường ở Mỹ sẽ có 1 cuốn sách giáo khoa mở.
Bằng cách này được kỳ vọng mỗi trường có thể tiết
kiệm được vài chục ngàn USD”.
được sửa đổi cho đúng
thành:
“Cũng
trong tài liệu đó, Bộ Giáo dục Mỹ đã đưa ra đề
xuất là vào mùa thu 2016, 10 khu trường thí điểm, trong
số 15.000 trường ở Mỹ, mỗi trường sẽ có 1 cuốn
sách giáo khoa mở. Bằng cách này được kỳ vọng mỗi
trường có thể tiết kiệm được vài chục ngàn USD”.
Bạn
có thể tải về bài trình bày này ở dạng:
- Toàn văn tệp .PDF tại địa chỉ:
- Tóm tắt dạng slide tại địa chỉ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.