Trong
vòng một thập kỷ qua, khi nói về vấn đề ứng dụng
và phát triển phần mềm nguồn mở (PMNM), một vài lãnh
đạo công nghệ thông tin ở Việt Nam thường nói rằng
họ luôn quan tâm tới PMNM, nhưng họ cũng không muốn ưu
tiên cho PMNM hơn hay phần mềm nguồn đóng (PMNĐ) hơn, họ
muốn có sự bình đẳng giữa các dạng phần mềm đó.
Liệu
trong thực tế cuộc sống ở Việt Nam cho tới ngày hôm
nay, PMNM và PMNĐ có thực sự là bình đẳng hay không,
chúng ta thử điểm qua một vài sự việc nổi bật đáng
lưu ý bên dưới.
Từ
Quyết định 235
Tháng
03/2004, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số
235/QĐ-TTg
về ứng dụng PMNM ở Việt Nam trong giai đoạn 2004-2008
với 9 tiểu dự án. Quyết định đó, và cùng với hầu
hết các tiểu dự án của nó, đáng tiếc đã không được
phê duyệt và hầu như hoàn toàn không đi vào cuộc sống.
Tới
Đề án 112 Chính phủ
Quyết
định 112/QĐ-TTg được ký ban hành ngày 25/07/2001, mở
ra giai đoạn xây dựng và triển khai Đề án 112 Chính
phủ. Có lẽ việc triển
khai PMNM trong các cơ quan nhà nước mạnh mẽ nhất
chính là trong đề án này, giai đoạn này. Các PMNM nằm
trong việc xây
dựng các dịch vụ cơ bản, mà trọng tâm của chúng
là xây dựng hệ thống thư điện tử có tích hợp với
dịch vụ thư mục để tạo thành một hệ thống đăng
nhập duy nhất - SSO (Single Sign On), một tính năng cơ bản
để triển khai tiết kiệm nhất và có hiệu quả nhất
hạ tầng khóa công khai - PKI (Public Key Infrastructure) trong
việc xác thực người sử dụng và triển khai chữ ký
điện tử có mã hóa - giải mã cho các ứng dụng, dịch
vụ sử dụng trong chính phủ điện tử. Trong số 7 công
ty tham gia xây dựng các dịch vụ cơ bản thời kỳ đó,
thì 6 công ty có các giải pháp sử dụng PMNM. Đáng tiếc,
sau khi dừng Đề án 112, các hệ thống PMNM đó đã không
còn đất sống vì không có kinh phí để duy trì dù trên
thực tế cho tới bây giờ vẫn còn một vài nơi sử dụng
các giải pháp PMNM từ những ngày đó. Sau khi dùng Đề
án 112, hầu hết mọi nơi được khuyến khích chuyển
sang xây dựng và sử dụng các hệ thống dựa vào các
PMNĐ, chủ yếu của Microsoft. Cách thức làm này còn tiếp
tục cho tới bây giờ.
Tới
việc Chính phủ mua Microsoft Office
Tháng
5/2007 Chính phủ đã ký kết với Microsoft, được cho là
với số tiền 20triệu USD, để mua 300.000 giấy phép sử dụng bộ phần
mềm văn phòng Microsoft Office (MSO). Đáng tiếc không phải
là mua Microsoft Windows, vì nếu mua Microsoft Windows khi đó,
thì bạn đã có thể sử dụng OpenOffice.org (OOo) để thay
thế và chạy được trên Microsoft Windows, còn khi đã mua
MSO rồi, thì chỉ còn cách mua nốt Microsoft Windows để có
thể sử dụng được MSO. Chắc chắn rằng người thắng
đơn thắng kép trong vụ này, không phải chính phủ Việt
Nam, mà là Microsoft. Có lẽ cũng vì việc mua sắm nền ứng
dụng văn phòng này, mà các
quyết định, chỉ thị, thông tư về triển khai PMNM ở
Việt Nam đều đã thất bại, đặc biệt có giai đoạn
cùng một lúc các cán bộ công chức nhà nước vừa phải
học MSO, vừa phải học OOo. MSO sau gần 20 năm có mặt
tại Việt Nam đã quá quen thuộc với những công chức đi
học mà việc học và dạy còn được hỗ trợ kinh phí
đào tạo từ nhà cung cấp trích lại với số
tiền 3 triệu USD, tương đương với 60 tỷ đồng khi đó.
So với việc học OOo còn đôi chút lạ lẫm và không có
các điều kiện tương tự thì rõ ràng có sự bất bình
đẳng trong việc học hai sản phẩm tương đương; dù
rằng sự bất bình đẳng ấy đã được thực hiện trên
một sự bất bình đẳng bất lợi hơn cho Chính phủ là
phần mềm nguồn mở OOo không mất phí bản quyền.
Tới
thông tư liên tịch số 142/2010/TTLT-BTC-BTTTT
Thông
tư liên tịch số 142/2010/TTLT-BTC-BTTTT
ngày 22/09/2010 giữa Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và
Truyền thông “Hướng dẫn việc quản lý và sử dụng
kinh phí chi phát triển công nghiệp công nghệ thông tin”.
Nội dung chính trong thông tư này nằm ở 2 điểm:
- Định mức chi tiền ngân sách cho việc đào tạo chứng chỉ CMMI cho các doanh nghiệp phần mềm.
- Định mức chi tiền ngân sách cho việc chuyển đổi sử dụng PMNM cho các cơ quan nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố theo tinh thần của Chỉ thị 07/2008/CT-BTTTT ngày 30/12/2008 và Quyết định 50/2009/QĐ-TTg ngày 03/04/2009.
Theo
báo
cáo của Vụ CNTT, Bộ TTTT ngày 14/12/2010, phần về
triển khai các công việc liên quan tới PMNM thì hầu hết
các mục tiêu đặt ra trong Chỉ thị 07 đều không đạt
được. Nhiều lý do đã được phân tích chỉ ra trong bài
“Những
bất cập trong các chính sách hiện hành về PMTDNM”,
được trình bày tại hội thảo: “Phần mềm Nguồn mở
trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước” được tổ chức
tại Hà Nội, ngày 15/06/2012.
Trong
khi việc triển khai PMNM ở các tỉnh gặp nhiều khó khăn,
thậm chí kinh phí trong 2 năm 2009 – 2010 phải chờ tới
năm 2010 mới được cấp mỗi tỉnh 260 triệu đồng, chưa
bằng với mức được nêu theo tinh thần của Quyết
định 50/2009/QĐ-TTg là 300 triệu/năm/tỉnh, thì sang
năm 2011 khoản tiền này đã bị cắt hoàn toàn, dù đã
có ý kiến của Phó
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân, Trưởng Ban Chỉ
đạo quốc gia về công nghệ thông tin khi đó, tại phiên
họp lần thứ nhất năm 2010 của Ban Chỉ đạo, trong
thông báo số 05/TB-BCĐCNTT,
ngày 17/05/2010 về việc giao cho: “Bộ Tài chính phối hợp
với Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét, bổ sung kinh
phí phát triển phần mềm nguồn mở cho các địa phương
theo Quyết
định 50/2009/QĐ-TTg
về Chương trình phát triển Công nghiệp phần mềm và
Nội dung số, trong đó: bổ sung 100% kinh phí còn thiếu
(170 triệu/năm) cho các địa phương thực sự khó khăn,
không có khả năng tự cân đối ngân sách; và bổ sung
50% kinh phí còn thiếu (85 triệu/năm) cho các địa phương
nhận hỗ trợ ngân sách từ Trung ương còn lại để
triển khai”.
Người
ta nói rằng vì việc triển khai PMNM ở các tỉnh là không
hiệu quả nên không cấp tiền tiếp. Không rõ dựa vào
những lý do nào và nội dung văn bản nào để có thể
đưa ra quyết định như vậy.
Trong
khi trong năm 2011 kinh phí cho triển khai PMNM đã bị cắt,
thì, ít nhất là, cho tới hết năm 2012, công việc triển
khai CMMI vẫn được tiếp tục cấp tiền. Website
của Bộ Thông tin và Truyền thông ngày 06/11/2012
nêu: “Trong giai đoạn năm 2010 – 2012, Bộ Thông tin và
Truyền thông đã tổ chức 12 khóa đào tạo cho hơn 100
doanh nghiệp, tổ chức liên quan đến công nghệ thông
tin, đồng thời trực tiếp hỗ trợ cho 22 doanh nghiệp,
tổ chức phần mềm và nội dung số xây dựng và áp dụng
quy trình sản xuất theo chuẩn CMMI. Đến nay đã có 12
doanh nghiệp, tổ chức đã thực hiện đánh giá chứng
chỉ CMMI từ mức 3 trở lên thành công, trong đó có 01
doanh nghiệp đạt chứng chỉ CMMI mức 5 (mức cao nhất)”.
Được biết, chương trình vẫn
còn được triển khai trong năm 2013.
Chỉ
đáng tiếc, là tiêu chuẩn CMMI lại không phải là tiêu
chuẩn phù hợp với các công ty PMNM, khi mà các dự án
PMNM thường được đánh giá bằng
các phương pháp và tiêu chuẩn khác,
và tại Việt Nam, Câu lạc bộ Phần mềm Tự do Nguồn mởViệt Nam (VFOSSA) cũng đã đề xuất với Vụ CNTT, BộThông tin Truyền thông đưa các tiêu chuẩn đánh giá PMNM
như Mô hình Độ chín PMNM – OSMM (Open Source Maturity Model)
và Mô hình Điểm Chết – PoF (Point of Fail) vào dự thảo
thông tư 42 của Bộ với các nội dung có liên quan tới
đánh giá độ chín của các PMNM.
Một
lần nữa đáng tiếc, trong cùng một thông tư 142, một
việc để phát triển PMNM đã không được đánh giá và
triển khai thực sự trong thực tế ngang bằng với một
việc để phát triển PMNĐ.
…
Và tới gần đây
Khi
mà các phần mềm độc hại được viết cho cho các máy
tính cá nhân PC trên thế giới cho tới 6 tháng đầu năm
2013 cho hệ điều hành Microsoft Windows đã
chiếm gần như hoàn toàn 100%; khi mà Việt
Nam bây giờ có hơn 5 triệu máy tính chạy Windows XP sẽ
hết hạn bảo hành toàn cầu trong tháng 04/2014 này và các
máy tính đó chắc chắn sẽ trở thành các trung tâm lây
nhiễm các phần mềm độc hại nguy hiểm ra tất cả các
máy tính khác, các mạng máy tính khác; khi mà chương
trình giám sát ồ ạt của NSA là không chừa bất kỳ
ai, không chừa bất kỳ quốc gia nào, không chừa bất kỳ
ngành kinh tế nào, không chừa việc phá hoại nào đối
với Internet, mà Microsoft chính là hãng chủ động tích
cực nhất trong việc hợp tác với NSA trong các hoạt động
đó, làm cho cả thế giới bàng hoàng kinh hãi; thì ở
Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, và không phải là
bộ duy nhất, đã ký thỏa
thuận hợp tác với Microsoft trong vòng 5 năm, từ
2013-2018.
Hy
vọng chúng ta sẽ sắp được thấy các bộ đó sẽ đối
xử bình đẳng giữa PMNĐ và PMNM bằng những việc làm
cụ thể của lãnh đạo các bộ đó và/hoặc của Ủy
ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin
trong thời gian sớm nhất có thể.
Thay
cho lời kết
Đã
có người chỉ thẳng ra rằng, giáo dục sử dụng hệ
điều hành PMNĐ Microsoft Windows là giáo dục ăn
cắp bản quyền phần mềm và tiếp tay cho gián điệp
nước ngoài, bất luận là kẻ xấu của nước nào.
Một khi không ai có thể kiểm soát được
mã nguồn của Microsoft Windows ngoài chính hãng độc quyền
Microsoft, nghĩa là không ai biết được Microsoft có thể
làm gì với kho mã nguồn của Microsoft Windows khi trên thực
tế hãng đã có hợp tác với các cơ quan an ninh và tình
báo như NSA, như
những gì đã được tiết lộ cho tới nay,
mà bạn lại vẫn tiếp tục giáo dục cho cả xã hội sử
dụng nó, thì có lẽ đúng là bạn đang giáo dục cho mọi
người bán nước và phản quốc.
Người
ta có thể nêu ra rất nhiều lý do để biện minh cho (các)
ký kết hợp tác nêu trên, nhưng có lẽ sẽ là hợp lý
hơn nhiều nếu việc giáo dục sử dụng Microsoft Windows
là do sự tự nguyện của (các) trường dân lập hay (các)
công ty tư nhân nào đó tự bỏ tiền túi của họ ra làm,
nếu họ cảm thấy có nhu cầu, dưới sự kiểm tra, giám
sát của các cơ quan chức năng nhà nước khi chúng được
đưa vào sử dụng trong các cơ quanh nhà nước hoặc khi
các cơ quan nhà nước thực sự có nhu cầu. Có lẽ thực
sự khó để giải thích một cách hợp lý, khi giáo dục
công lập, được nuôi dưỡng từ tiền đóng thuế của
người dân, lại tiếp tục làm một công việc như vậy
từ giờ trở đi. Có lẽ sẽ còn khó
giải thích hơn nữa về sự bình đẳng giữa PMNM và
PMNĐ, nếu như cùng với hệ thống giáo dục công lập,
hệ thống hành chính, hệ thống tài chính, hệ thống
truyền thông báo đài của nhà nước... đều nhiệt tình
cổ vũ cho việc giáo dục PMNĐ như vậy.
Có
người muốn dùng câu “gà què ăn quẩn cối xay” để
chỉ đám doanh nghiệp PMNM chỉ thích kêu ca đòi quyền
lợi. Nhưng dân gian thì đã có câu “nhà nước què ăn
quẩn nông dân”, còn các cụ ngày xưa có câu “tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”. Nếu như đến sân nhà mình
còn thua, còn để cho “giặc” nó chiếm, mà đã nghĩ
đến chuyện “bình thiên hạ” thì quả thực đó chỉ
là các câu nói của những người tự nghĩ là mình có
quyền để phỉ báng những người khác, không hơn, không
kém.
Niềm
tin và hy vọng của giới PMNM Việt Nam có lẽ lại một
lần nữa được thắp sáng lên chăng trong Quyết
định số 300/QĐ-TTg ngày 27/02/2014 của Thủ tướng Chính
phủ “Về việc thành lập Trung tâm
Nghiên cứu và Phát triển quốc gia về công nghệ mở
trực thuộc Bộ Khoa học Công nghệ”, hay lại có lẽ,
Microsoft mới thực sự là người lãnh đạo CNTT ở Việt
Nam?
Bạn
muốn bình đẳng giữa PMNM với PMNĐ ư? Hãy đợi đấy!
Trần
Lê
Bài
đăng trên tạp chí Tin học và Đời sống, số tháng
5/2014, trang 36-38.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.