Lê
Trung Nghĩa, letrungnghia.foss@gmail.com
Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển Quốc gia về Công nghệ Mở,
Bộ
Khoa học và Công nghệ (RDOT)
-------------------------------------------------------------------------------
Truy
cập mở, như tất cả các chính sách được liệt kê ở
trên, đều nhằm mục đích làm cho các kết quả nghiên
cứu được nhà nước cấp tiền là truy cập được tự
do đối với tất cả mọi người và vì lợi ích của xã
hội và tất cả mọi người. 'Nguyên
tắc theo đó các kết quả nghiên cứu từng được nhà
nước cấp tiền sẽ là truy cập được tự do trong phạm
vi công cộng là nguyên tắc đầy sức thuyết phục, về
cơ bản không cãi lại được'
[2, trang 5 và 18]. Hệ quả của điều này là nó làm thay
đổi cơ bản hệ thống truyền thông nghiên cứu, làm
dịch chuyển
từ hệ thống độc giả trả tiền sang tác giả trả
tiền, điều tới lượt nó đòi hỏi sự dịch chuyển
trong các mô hình kinh doanh và các quy trình xuất
bản
trong một môi trường cạnh tranh hơn theo một cách thức
bền vững tránh đổ vỡ, nơi các tay chơi đã thành danh
và những người mới tới đều có khả năng phát triển,
đặc biệt trong các lĩnh vực chủ chốt như các mối
liên kết giữa các xuất bản phẩm và dữ liệu nằm bên
dưới, sự xuất bản các chuyên khảo, và thí điểm về
các cơ chế rà soát lại ngang hàng.
Sự
dịch chuyển trong các mô hình kinh doanh và các quy trình
xuất bản được đặt trong và tính tới sự phát triển
không chỉ ở riêng một quốc gia, trong trường hợp cụ
thể này là Vương quốc Anh, mà còn phải xem xét ở mức
toàn cầu, và trong một giai đoạn chuyển đổi quá độ
cần thiết, với Vương quốc Anh, là khoảng 5 năm.
Sự
dịch chuyển trong các mô hình kinh doanh và các quy trình
xuất bản đòi hỏi sự hợp tác và hài hòa hóa lợi ích
của tất cả các bên tham gia đóng góp, điều sống còn
nhưng rất không dễ thực hiện, khi mà lợi ích của từng
bên là không giống nhau, mà theo [2, mục 8.5] thì:
-
Các nhà nghiên cứu có quan tâm trong xuất bản và phổ biến nhanh và có hiệu quả các xuất bản phẩm nghiên cứu. Như là các tác giả, họ có quan tâm trong việc đảm bảo xuất bản trên các tạp chí có uy tín cao mà tối đa hóa cơ hội của họ để đảm bảo ảnh hưởng và sự tin cậy cao về tác phẩm họ đã làm, và các cơ hội của họ giành chiến thắng trợ cấp nghiên cứu tiếp sau. Như là các độc giả và những người sử dụng, họ có quan tâm trong truy cập nhanh, tự do ở thời điểm sử dụng; dễ dàng lái chỉnh; và khả năng để sử dụng, sử dụng lại, nội dung với càng ít hạn chế có thể càng tốt.
-
Các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu khác có quan tâm trong việc tối đa hóa doanh số và hiệu năng nghiên cứu của họ, trong khi luôn muốn giảm chi tiêu xuống. Các trường đại học lớn hơn có sự tăng cường nghiên cứu hưởng thụ rồi (và trả tiền cho) sự truy cập tới đa số các tạp chí thích hợp cho công việc của họ; nhưng họ có thể đối mặt với các chi phí bổ sung thêm như là kết quả của sự dịch chuyển sang các thanh toán ở phía của các tác giả. Các trường đại học ít tăng cường nghiên cứu hơn có thể thấy sự giảm bớt các chi phí như là kết quả của sự chuyển dịch như vậy.
-
Các nhà cấp vốn nghiên cứu có quan tâm trong việc đảm bảo ảnh hưởng tối đa từ nghiên cứu chất lượng cao, và vì thế trong việc đảm bảo rằng các xuất bản phẩm nảy sinh từ công việc họ cấp vốn là có khả năng truy cập được rộng rãi - khắp cộng đồng nghiên cứu toàn cầu cũng như tất cả các cộng đồng khác mà có thể có quan tâm về các kết quả đó - với càng ít các hạn chế có thể càng tốt. Giống như các trường đại học, họ cũng có quan tâm trong việc giảm thiểu các chi phí.
-
Các thư viện - đặc biệt trong khu vực giáo dục đại học - có quan tâm trong việc tối đa hóa số lượng các tạp chí và các xuất bản phẩm nghiên cứu khác mà họ có thể cung cấp cho các độc giả của họ, với chi phí thấp nhất có thể. Các thủ thư từng đi tiên phong trong việc tìm cách hạn chế sự gia tăng các chi phí của các tạp chí, và trong việc thúc đẩy sự phát triển của các kho. Họ cũng đang phát triển các vai trò của họ trong việc cung cấp các dịch vụ mới cho các nhà nghiên cứu trong môi trường thông tin mà đã thay đổi một cách cơ bản trong thập niên vừa qua.
-
Các nhà xuất bản tới trong nhiều bộ dạng khác nhau: những người mà xuất bản hàng ngàn đầu tạp chí và những người xuất bản chỉ một đầu tạp chí; thương mại và phi thương mại; các nhà in ở các trường đại học và của xã hội học tập; và dựa vào đăng ký thuê bao và truy cập mở, với nhiều mô hình vận hành khác nhau cho cả 2 dạng đó. Tất cả đều có quan tâm trong việc duy trì bền vững và phát triển các dịch vụ để xuất bản và phổ biến các xuất bản phẩm nghiên cứu có hiệu quả mà đang được sự rà soát lại ngang hàng chống trụ. Các nhà xuất bản dựa vào đăng ký thuê bao và truy cập mở vận hành các mô hình kinh doanh khác nhau; nhưng cả 2 đều có quan tâm trong việc đảm bảo doanh thu mà xúc tác cho họ để chào các dịch vụ chất lượng cao cho các tác giả và các độc giả/người sử dụng. Đối với các nhà xuất bản dựa vào đăng ký thuê bao, sự phát triển các kho như vậy - đặc biệt nếu các giai đoạn cấm vận và các hạn chế khác về các quyền sử dụng và sử dụng lại được giảm thiểu - đặt ra các rủi ro mà gây cho họ lo ngại lớn, vì điều này có thể làm xói mòn các mô hình kinh doanh bằng việc cản trở họ lấy lại các chi phí của họ. Đối với các nhà xuất bản truy cập mở, những phát triển như vậy là tư liệu cơ bản vì họ lấy lại các chi phí của họ trước đó thông qua các APC; các kho đơn giản cung cấp kênh bổ sung cho sự phổ biến các bài báo họ xuất bản.
-
Các xã hội học tập có quan tâm trong việc duy trì bền vững sự hỗ trợ của họ cho xuất bản và phổ biến nghiên cứu chất lượng cao, nhưng cũng cho công việc của họ vì lợi ích của công chúng trong việc thúc đẩy và hỗ trợ sự uyên thâm trong các chuyên ngành mà họ đại diện. Bất kỳ rủi ro nào cho thặng dư mà họ đảm bảo thông qua các xuất bản phẩm của họ cũng gây nguy hiểm cho các hoạt động rộng rãi hơn của các xã hội đó với sự ngờ vực, khi các thặng dư xuất bản của nó được sử dụng để cấp vốn.
Để
gia tăng truy cập mở, có 3 cơ chế có quan hệ mật thiết
với nhau cần phải được xem xét kỹ lưỡng trong giai
đoạn chuyển đổi quá độ, đó là: (1) Các tạp chí
dựa vào thuê bao; (2) Các tạp chí truy cập mở;
và (3) Các kho, đặc biệt là các kho theo chủ đề.
Làm thế nào để có được chính sách từ tất cả các
bên tham gia đóng góp sao cho 3 cơ chế đó làm việc được
hiệu quả mà không loại trừ lẫn nhau, phụ thuộc vào
sự phối hợp và hợp tác của tất cả các bên tham gia
đóng góp, như các trường
đại học, các nhà cấp vốn, các thư viện, các nhà xuất
bản, các xã hội học tập, các nhà nghiên cứu. Có lẽ
chính vì thế, mà Vương quốc Anh, đã thành lập ra nhóm
nghiên cứu với các đại diện từ tất cả các bên tham
gia đóng góp đó, Nhóm Finch, để nghiên cứu thực tế hệ
thống truyền thông nghiên cứu để đưa ra các đề xuất
phù hợp thực tiễn nhất cho Chính phủ trong khi vẫn đảm
bảo tương đối quyền lợi của các bên.
Thực
tế ở Vương quốc Anh chỉ ra rằng, trong giai đoạn
chuyển đổi, nhiều nhà xuất bản áp dụng mô hình lai,
nghĩa là doanh thu của họ vừa dựa vào sự thuê bao và
vừa dựa vào các khoản tiền xử lý các bài báo (APC)
cho xuất bản truy cập mở. Các nhà cấp vốn chính cho
nghiên cứu của Vương quốc Anh, như RCUK hoặc HEFCE
đều có các chính sách cấp vốn cho các APC cho các cơ sở
nghiên cứu, các cơ sở giáo dục công lập có tăng cường
nghiên cứu hoặc trực tiếp cả gói, hoặc gián tiếp để
xây dựng các quỹ thanh toán cho các APC tại các cơ sở
đó. Chính vì vậy, cây quyết định về truy cập mở và
giai đoạn cấm vận của RCUK như trên Hình
2
là rất đáng được quan tâm xem xét.
Trong
giai đoạn chuyển đổi quá độ, đầu tư cho hệ thống
truyền thông nghiên cứu không giảm đi (do những khoản
tiết kiệm được từ truy cập mở có khả năng tạo
ra), mà tăng lên, đặc biệt từ các nguồn vốn cấp của
nhà nước, cả cho: (1) các tạp chí truy cập mở thông
qua các APC; (2) cho việc mở rộng cấp phép truy cập tới
lượng người sử dụng lớn hơn với số lượng nhiều
hơn các tạp chí cho các khu vực giáo dục và y tế; (3)
các kho; và (4) các vấn đề khác có liên quan tới truy
cập mở. Tất cả các khoản đầu tư này, dù là một
lần hay thường niên, hầu hết, như đối với Vương
quốc Anh, là từ ngân sách nhà nước.
Về
các giấy phép được áp dụng trong các chính sách truy
cập mở được nêu ở trên, cũng như trong các tài liệu
có liên quan được nêu trong bài viết này, đều sử dụng
hệ thống giấy phép Creative Commons với các giấy phép
khác nhau, thể hiện các sắc thái khác nhau của các tư
liệu mà các khái niệm đó bao trùm. Bản thân các chính
sách được nêu ở trên, phụ thuộc vào mục đích và
điều kiện cụ thể của từng cơ quan hoặc tổ chức
ban hành và các nguồn vốn cấp, chỉ định các giấy
phép Creative Commons khác nhau cho các tư liệu khác nhau có
sự tham gia của các nhân viên của họ với tư cách là
tác giả và/hoặc đồng tác giả. Điều này cho thấy,
nếu đi theo tiếp cận truy cập mở, thì nhu cầu phải
hiểu biết rõ về hệ thống giấy phép Creative Commons là
vô cùng lớn hiện nay.
Việc
liệt kê vắn tắt chính sách truy cập mở của vài tổ
chức ở trên, đặc biệt các chính sách của các tổ
chức ở Vương quốc Anh - như của RCUK, HEFCE và LSE - cho
thấy các chính sách được nghiên cứu kỹ lưỡng để
từng bước triển khai truy cập mở có hiệu lực và hiệu
quả vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện rất rõ ở
vài chi tiết như: (1) có giai đoạn chuyển tiếp dự kiến
5 năm; (2) cho từng loại tư liệu chứ không phải là tất
cả cùng một lúc; (3) chính sách có dự kiến được rà
soát lại và sửa đổi bổ sung từng năm một hoặc 2 năm
một.
Chính
sách truy cập mở trong tương lai của Vương quốc Anh
nhiều khả năng là đầy tiềm năng hứa hẹn, thể hiện
trong việc cả 10 đề xuất trong báo cáo của Nhóm Finch
[2] đều đã được Chính phủ Vương quốc Anh chấp nhận
(ngoại trừ một điểm nhỏ có liên quan tới thuế VAT áp
dụng cho các tạp chí điện tử nhưng không cho các cuốn
sách và tạp chí được in). Các khuyến cáo của Nhóm
Finch về truy cập mở trong tương lai của Vương quốc Anh
gồm (xem bình luận giải thích vì sao Chính phủ đồng ý
trong tài liệu [3]):
-
Đường hướng chính sách rõ ràng nên được đặt ra hướng tới hỗ trợ xuất bản các tạp chí truy cập mở hoặc lai, được các APC cấp vốn, như là phương tiện chính để xuất bản nghiên cứu, đặc biệt khi nó được cấp vốn nhà nước.
-
Các Hội đồng Nghiên cứu và các cơ quan khác của khu vực nhà nước cấp vốn nghiên cứu ở Vương quốc Anh nên thiết lập các dàn xếp có hiệu quả và mềm dẻo hơn để đáp ứng các chi phí xuất bản các tạp chí truy cập mở và lai;
-
Hỗ trợ để xuất bản truy cập mở nên được đi kèm với các chính sách để giảm thiểu những hạn chế về các quyền sử dụng và sử dụng lại, đặc biệt vì các mục đích phi thương mại, và về khả năng sử dụng các công cụ và dịch vụ mới nhất để tổ chức và thao tác văn bản và các nội dung khác;
-
Trong giai đoạn chuyển đổi quá độ sang xuất bản truy cập mở toàn cầu, để tối đa hóa sự truy cập trong các khu vực giáo dục đại học và y tế tới các tạp chí và các bài báo được các tác giả ở Vương quốc Anh và từ khắp nơi trên thế giới sản xuất ra còn chưa truy cập được theo các điều khoản truy cập mở, thì các vốn cấp sẽ được mở rộng và hợp lý hóa các giấy phép hiện có để bao trùm tất cả các cơ sở trong các khu vực đó;
-
Các cuộc thảo luận hiện hành về làm thế nào để triển khai đề xuất cho truy cập đi vào (walk-in) tới đa số các tạp chí sẽ được cung cấp trong các thư viện công cộng khắp Vương quốc Anh sẽ được theo đuổi với sức mạnh, cùng sự công khai và chiến dịch tiếp thị hiệu quả;
-
Các cơ quan đại diện cho các khu vực chính bao gồm cả Chính phủ trung ương và địa phương, các tổ chức tự nguyện, và các doanh nghiệp sẽ làm việc cùng nhau với các nhà xuất bản, các xã hội học tập, các thư viện và các tác nhân khác với sự tinh thông thích đáng để cân nhắc các điều khoản và chi phí các giấy phép để cung cấp sự truy cập tới dải rộng lớn các nội dung thích hợp vì lợi ích của các nhóm các tổ chức trong các khu vực của họ; và cách thức các giấy phép như vậy có thể được cấp vốn;
-
Các cuộc thảo luận và thương thảo trong tương lai giữa các trường đại học và các nhà xuất bản (bao gồm các xã hội học tập) về định giá các vụ làm ăn lớn và các đăng ký thuê bao khác nên tính tới các ngụ ý tài chính cho sự dịch chuyển sang xuất bản các tạp chí truy cập mở và lai, các mở rộng cấp phép, và những thay đổi là kết quả trong doanh thu được cung cấp cho các nhà xuất bản;
-
Các trường đại học, các nhà cấp vốn, các nhà xuất bản, và các xã hội học tập nên tiếp tục làm việc cùng nhau để thúc đẩy xa hơn kinh nghiệm trong xuất bản truy cập mở đối với các chuyên khảo hàn lâm;
-
Hạ tầng các kho theo chủ đề và của cơ sở nên được phát triển sao cho chúng đóng vai trò có giá trị bổ sung cho việc xuất bản chính quy, đặc biệt trong việc cung cấp sự truy cập tới dữ liệu nghiên cứu và tư liệu xám, và trong lưu giữ số.
-
Những hạn chế về cấp vốn theo độ dài các giai đoạn cấm vận, và về bất kỳ hạn chế nào khác trong truy cập tới nội dung chưa được xuất bản theo các điều khoản truy cập mở, sẽ được cân nhắc thận trọng, để tránh rủi ro quá đáng cho các tạp chí có giá trị còn chưa được cấp vốn chủ yếu qua các APC. Các quy định nên được rà soát lại phù hợp với bằng chứng có sẵn đối với ảnh hưởng có khả năng của chúng lên các tạp chí như vậy.
Báo
cáo của Nhóm Finch [2] cũng chỉ ra rằng trong giai đoạn
quá độ dịch chuyển sang truy cập mở đầy đủ, có khả
năng có nhiều rủi ro cho tất cả các bên tham gia đóng
góp, cho các
trường đại học, các nhà cấp vốn, các thư viện, các
nhà xuất bản, các xã hội học tập, các nhà nghiên cứu
nhưng Nhóm
cũng nhấn mạnh đặc biệt rằng, rủi ro lớn nhất là
không làm gì cả [2,
mục 8.52, trang 109].
Truy
cập mở, tài nguyên giáo dục mở hay dữ liệu mở có
những phần giống nhau, có sự chồng lấn nhau nhưng là
những khái niệm khác nhau và có khả năng phân biệt
được.
Với
truy cập mở, có rất nhiều khái niệm và đi với chúng
là các quy trình xử lý mới, rất mới đối với Việt
Nam, cần có thời gian để hiểu thấu và so sánh chúng
với những gì đang diễn ra trong việc truy cập tới các
kết quả đầu ra nghiên cứu được cấp vốn nhà nước,
trong hệ thống truyền thông nghiên cứu ở Việt Nam. Từ
đó mới có thể có những khuyến cáo chính xác cho Việt
Nam nên làm gì và như thế nào nếu đi theo tiếp cận
truy cập mở.
Có
lẽ, việc đầu tiên Việt Nam có thể và nên làm, là
thành lập một nhóm nghiên cứu có đại diện từ các
bên tham gia đóng góp như các trường đại học, các nhà
cấp vốn, các nhà xuất bản, và các
xã hội học tập để thảo luận về hiện trạng
hệ thống truyền thông nghiên cứu ở Việt Nam và cách
thức để dịch chuyển hệ thống đó sang tiếp cận truy
cập mở sao cho lợi ích của từng bên có thể là hài
hòa ở mức tất cả các bên đều có thể chấp nhận
được chăng?
Quyết
định gần đây nhất của Liên minh châu Âu khi tuyên bố
về Khoa học Mở và chương trình Horizon 2020 của mình,
với sự đầu tư kinh phí lên tới 70 - 80 tỷ EUR và các
phong trào mở, hay như phong trào
giáo dục mở - tài nguyên giáo dục mở ở Mỹ, Vương
quốc Anh và các quốc gia khác trên thế giới đã và
đang triển khai tích cực là dấu hiệu cho thấy truy cập
mở tới các kết quả nghiên cứu được cấp vốn nhà
nước là cái đích mà thế giới hướng tới, mà Việt
Nam có lẽ không có cách gì để thoái thác nếu không
muốn, như trong báo cáo của Nhóm Finch đã nêu, gặp rủi
ro lớn nhất vì không làm gì cả
[2, mục 8.52, trang 109].
Hà
Nội, ngày 20/09/2016
[1]
'Chính
sách truy cập mở của Ngân hàng Thế giới cho các xuất
bản phẩm chính thức', Ngân hàng Thế giới được
xuất bản ngày 02/04/2012.
[2]
'Khả
năng truy cập, tính bền vững, sự xuất sắc: làm thế
nào để mở rộng truy cập tới các xuất bản phẩm
nghiên cứu', báo
cáo của Nhóm Finch, xuất bản tháng 06/2012.
[3]
Thư trả lời của Chính phủ Anh cho Báo cáo của Nhóm
Finch về “Khả
năng truy cập, tính bền vững, sự xuất sắc: làm thế
nào để mở rộng truy cập tới các xuất bản phẩm
nghiên
cứu”,
xuất bản ngày
16/07/2012.
[4]
'Chính
sách của RCUK về truy cập mở và chỉ dẫn hỗ trợ',
Hội đồng Nghiên cứu của Vương quốc Anh (Research
Councils UK), xuất bản 08/04/2013.
[5]
'Chính
sách truy cập mở của UNESCO cho các xuất bản phẩm',
UNESCO xuất bản ngày 31/07/2013.
[6]
'Chính
sách truy cập mở theo Khung Xuất sắc Nghiên cứu sau
2014', Hội đồng Cấp vốn cho Giáo dục Đại học cho
nước Anh - HEFCE (Higher Education Funding Council for England)
xuất bản 03/07/2014, được cập nhật vào tháng 07/2015.
[7]
'Chính
sách về các xuất
bản phẩm truy
cập mở của LSE'
- Trường
Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn - LSE (London
School of Economics and Political Science), có hiệu lực từ
01/01/2015.
[8] Thông
cáo báo chí của Ủy ban châu Âu - EC (European
Commission) sau cuộc họp ngày 27/05/2016 về việc phê
chuẩn các kết luận chuyển đổi quá độ hướng tới
Hệ thống Khoa học Mở.
[10]
'Chỉ
dẫn cơ bản về tài nguyên giáo dục mở (OER)',
UNESCO và COL xuất bản năm 2011, 2015.
-
Tải về
bài trình bày ở định dạng PDF:
- Xem và tải về bài trình bày dạng slide tại hội thảo 'Truy cập mở thông tin: động lực phát triển bền vững' diễn ra ngày 20/10/2016 tại Đại học KHoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh:
http://www.slideshare.net/lnghia/oa-basic
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.