Open
innovation in software
By
Gabriel Hanganu, Published: 18 January 2011, Reviewed: 09
July 2012
Bài được đưa lên
Internet ngày: 09/07/2012
Lời
người dịch: Triết lý về đổi mới mở nói chung và
trong phần mềm nói riêng. “Đổi mới mở là về việc
đổi mới cả bên trong và bên ngoài tổ chức hoặc dự
án của bạn, và mang những đổi mới đó tới thị
trường thông qua cả các con đường bên trong và bên
ngoài. Trong ngữ cảnh của phát triển phần mềm, đổi
mới mở là sự phát triển mở. Phát triển mở có các
qui trình và công cụ khuyến khích đổi mởi bằng việc
thúc đẩy sự sáng tạo nội bộ, và khai thác sự sáng
tạo từ bên ngoài, và bằng việc mang các kết quả của
đổi mới đó tới thị trường thông qua các kênh cả
nội bộ và bên ngoài”. Có thể nói: Mô hình phát
triển của phần mềm nguồn mở chính là mô hình đổi
mới mở cho phần mềm!. Một bài viết có lẽ cần cho
tất cả các công ty phần mềm.
Sự chuyển dịch cơ
bản theo con đường đổi mới diễn ra đang trải ra khắp
trên thế giới. Chủ yếu do Internet và các cộng đồng
cộng tác dẫn dắt, nó xúc tác cho văn hóa đổi mới mở
mới này thay đổi mọi thứ, từ các cách thức trong đó
khoa học và sáng tạo tiến bộ cho tới sự phát triển
của các xã hộ và các nền kinh tế.
Tài liệu này tiếp
cận sự đổi mới mở từ viễn cảnh của sự phát
triển của phần mềm nguồn mở (PMNM). Nó xem xét các qui
trình đổi mới diễn ra một cách tự nhiên trong các dự
án nguồn mở thành công, và trong các chương trình đổi
mới mở đặc biệt được thiết kế để khởi xướng
và quản lý các qui trình như vậy trong các tổ chức được
xác định để mở ra hoạt động nghiên cứu và phát
triển của họ.
Tài liệu được minh
họa với các tham chiếu bằng video từ những người
triển khai thực tế đổi mới mở, những người cung cấp
sự hiểu thấu đáo và những ví dụ cuộc sống thực
của đổi mới mở thành công trong phát triển phần mềm.
Ngữ cảnh mở của
đổi mới
Sự minh bạch của
các qui trình có liên quan tới đổi mới mở đối nghịch
một cách hoàn toàn rõ ràng với những qui trình được
sử dụng trong đổi mới đóng. Trong đổi mới đóng, các
tổ chức tạo ra các sản phẩm mới trong các phòng thí
nghiệm đóng kín, canh gác cẩn mật những đổi mới của
họ với các kho bằng sáng chế mạnh.
Tuy nhiên, các công ty
ngày càng đang mở ra sự đổi mới của họ thông qua sự
kết hợp của nguồn đám đông (crowdsourcing),
các nguồn liên kết, chia sẻ sở hữu trí tuệ, và đưa
ra những quyền có giới hạn cho công nghệ được trao
bằng sáng chế để cho phép các bên thứ 3 làm việc với
những đổi mới đó. Trong ngữ cảnh đổi mới mới này,
người tiêu dùng không còn là những người nhận các sản
phẩm một cách thụ động nữa, mà là những nhà đồng
sáng tạo và các nguồn có giá trị của các ý tưởng
mới.
Theo nhiều cách, sự
dịch chuyển tới ngữ cảnh đổi mới mở hơn này đã
tác động tới khu vực giáo dục và nghiên cứu cũng như
khu vực thương mại. Ngày càng có nhiều cách thức mới
theo đó các viện nghiên cứu tạo ra, lưu trữ, phân tích
và truyền các thông tin và nghiên cứu. Như được mô tả
trong Nguồn mở và Hạ tầng Nghiên cứu (Open
Source and Research Infrastructure) (bản
dịch tiếng Việt), nước Anh đã phát triển một hạ
tầng kỹ thuật mạnh cho việc chia sẻ tri thức hàn lâm.
Điều sống còn bây giờ là để khuyến khích các viện
trường nghiên cứu ôm lấy văn hóa của tính mở này một
cách tích cực hơn.
Báo cáo Tương
lai của Nghiên cứu gần đây gợi ý rằng đối với
các nhà nghiên cứu của nước Anh để giữ lại được
tính cạnh tranh toàn cầu, họ cần quen với việc chia sẻ
các dữ liệu và chuyển tự do giữa các khu vực và các
quốc gia. Như ngôn từ của Rufus Pollock, đồng sáng lập
của Quỹ Tri thức Mở (Open Knowledge Foundation), 'thứ tốt
nhất phải làm với các dữ liệu của bạn sẽ được
ai đó khác nữa suy nghĩ ' 1.
Hội đồng Lisbon của
Ủy ban châu Âu đã khởi xướng một qui trình mở ra sự
truy cập tới các nghiên cứu được cấp vốn thông qua
các chương trình của nó. Dự
án Hạ tầng Truy cập Mở cho Nghiên cứu đã được
giao nhiệm vụ với việc tạo ra 20% đầu ra các nghiên
cứu của FP7 sẵn sàng như là các tài nguyên truy cập mở,
và nhiều tới 80% các nghiên cứu được EU cấp vốn được
lên kế hoạch để làm cho sẵn sàng công khai từ năm
2014.
Đổi mới mở
Đối
với Henry Chrsbrough, một giáo sư tại Đại học California
Berkeley, người đồng ý với khái niệm này, thì đổi
mới mở là một cách thức theo đó các công ty làm nghiên
cứu và phát triển bằng việc làm cho sự sử dụng nhiều
hơn các ý tưởng và công nghệ của bên ngoài trong doanh
nghiệp của riêng họ, đổi lại để cho những người
khác hưởng lợi từ những ý tưởng chưa được sử
dụng của họ.
Trong mô hình cổ
điển, công nghệ đẩy, qui trình đổi mới thường được
mô tả như một cái phễu được lật ngược lại, với
các ý tưởng chọn lọc được chọn từ một cơ sở
khoa học và công nghệ và đi xuống tới thị trường.
Tuy nhiên, ngày càng có quá nhiều tri thức sẵn sàng trong
quá nhiều phần của thế giới cho các công ty tiếp tục
đổi mới thành công cho riêng họ.
Trong mô hình đổi
mới mở của Chesbrough, những ý tưởng mới được vẽ
ra từ cả 2 bên trong và bên ngoài tổ chức, nên sơ đồ
cái phễu cổ điển cần phải được chỉnh cho phù hợp.
Những ý tưởng cũng được phép đi tới thị trường
thông qua cả các quy trình nội bộ của riêng công ty và
các hoạt động đối mặt với bên ngoài, như việc cấp
phép, liên danh liên kết và tạo ra các công ty mới từ
nghiên cứu ( spin-offs).
'Phát hiện' và
'chêm vào' đổi mới mở
Nhiều qui trình đổi
mới mở trong các công ty bắt đầu từ một vấn đề
hoặc yêu cầu được xác định rõ ràng mà qui trình đổi
mới dự kiến giải quyết.
Tuy nhiên, theo Roland
Harwood, đồng sáng lập của công ty NESTQA được tạo ra
từ nghiên cứu 100% mở, nhấn mạnh rằng trong thực tế
có ít nhất 2 cách theo đó các tổ chức có thể mở ra
các qui trình đổi mới của họ. Roland phân biệt giữa
cái gọi là 'phát hiện' và 'chêm vào' đối với các tiếp
cận đổi mởi mở. Một chương trình 'phát hiện' thường
bắt đầu với một câu hỏi 'cái gì', như 'Cái gì là ý
tưởng hoặc công nghệ đặc thù mà chúng ta cần?' Theo
kịch bản này, các yêu cầu được viết ở dạng các
lời gọi tóm tắt cho một giải pháp kỹ thuật hoặc một
quan hệ đối tác nghiệp vụ đặc thù.
Ngược lại, một
chương trình 'chêm vào' thường bắt đầu với một câu
hỏi 'ai', như 'Ai là những người cộng tác có tiềm năng
mà chúng ta có thể làm việc cùng để có hiệu quả lớn
hơn?'. Trong trường hợp này, không có vấn đề được
xác định rõ ràng - chỉ là một lĩnh vực có cơ hội mà
sẽ được xác định trong sự cộng tác với các đối
tác được xác định trong qui trình này.
Những ví dụ về
đổi mới mở trong phần mềm
Trong bài trình bài
trình bày chính tại TransferSummitUK 2010, Roland Harwood đã
đưa ra 2 ví dụ về đổi mới mở trong các dự án phần
mềm được NESTA tạo
thuận lợi.
Ví dụ thứ nhất là
một chương trình 'phát hiện' đã đề cập tới một tập
hợp được xác định rõ ràng các yêu cầu được đặt
ra trước từ nhà vận hành mạng Orange. Orange từng có
quan tâm trong những ý tưởng đối với các sản phẩm và
dịch vụ mà có thể tạo doanh số trong khoảng 50 triệu
£ trong 3 năm. 85 doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và các nhà
đổi mới độc lập đã đệ trình các ý tưởng, trong
đó 6 ý tưởng đã được chọn cho sự phát triển tiếp
tục. Một trong những ý tưởng đó là 'Các vé Hạng 2
cuối cùng' (Last Second Tickets), một dịch vụ di động dựa
vào phần mềm đưa ra cho các khách hàng của Orange các vé
xem phim và kịch chua bán được với một mức giá hạ.
Ví dụ thứ 2 là một
chương trình 'chêm vào' mà đã tạo ra một sự cộng tác
còn chưa được dự kiến giữa nhà sản xuất ô tô Công
thức 1 McLaren và cơ quan các Dịch vụ Kiểm soát Không
lưu Quốc gia của nước Anh (NACTS). Phần mềm quản lý
hoạt động của sân bay có độ chính xác cao được xây
dựng như là kết quả của sự cộng tác này xung quanh
phần mềm quản lý dừng ở đường pit đua Công thức 1
của McLaren đã ch phép NACTS quản lý tốt hơn các hoạt
động của sân bay và tiết kiệm chi phí ước tính tới
vài triệu £.
Trong các chương trình
đổi mới mở đó và các chương trình khác, NESTA đã
hành động như một người môi giới trung gian độc lập
giữa các đơn vị nghiên cứu và phát triển tại các
công ty khác nhau, hoặc giữa các tập đoàn lớn và các
SME hoặc các nhà phát triển độc lập, để giúp họ
quản lý IPR và các qui trình phát triển phần mềm. Trong
môi trường phần mềm nguồn mở thì những qui trình như
vậy là chuẩn mực. Qua năm tháng, các cộng đồng nguồn
mở đã tích lũy được một số lượng khổng lồ sự
tinh thông mà có thể đưa ra những bài học hữu ích cực
kỳ theo cách này.
Đổi mới mở
trong phần mềm là sự phát triển mở
Các dự án nguồn mở
đưa ra một môi trường tuyệt vời cho đổi mới phần
mềm vì chúng sử dụng một phương pháp luận phát triển
mở. Đối với Ross Gardler, người quản lý OSS Watch tại
thời điểm viết bài này, sự
phát triển mở (bản
dịch tiếng Việt) là 'cách thức cho các thành viên
phân tán của đội phát triển một cách cộng tác các
tài nguyên được chia sẻ theo một cách thức được quản
lý và bền vững'. Hoặc, theo công thức của người nắm
bắt Yochai Benkler, giáo sư của Entrepreneurial Legal Studies
tại Harvard, phát triển mở là ‘một
ví dụ về sản xuất ngang hàng dựa vào những cái
chung’.
Khả năng truy cập và
sự minh bạch của các hoạt động cộng tác được sự
đa dạng về văn hóa khuyến khích phát triển mở tạo
thuận lợi, và tới lượt nó là có lợi cho đổi mới.
Đới với Marten Mickos, cựu CEO của MySQL, đổi mới có
khả năng nhiều nhất xảy ra khi mọi người gặp gỡ
nhau trong các môi trường xã hội nơi mà các quan điểm
và các giải pháp khác nhau có thể được khai thác. Sự
đa dạng mang tới sự bền vững dài hạn chính xác vì
những người khác nhau theo đuổi những lợi ích cá nhân
của riêng họ trong một cộng đồng có khả năng kết
thúc bằng việc làm việc cùng nhau vì lợi ích của mỗi
người.
Apache
Hadoop là một ví dụ tốt về một hệ sinh thái phức tạp
của những đối tác khác biệt rộng lớn đang hợp tác
trong một dự án nguồn mở. Các công ty lớn và nhỏ, bao
gồm cả IBM, Google, Facebook, Yahoo, Microsoft, Cloudera và 6
trường đại học làm việc cùng nhau để xây dựng hạ
tầng nghiên cứu này cho phân tích dữ liệu lớn.
Theo cùng tinh thần
khuyến khích y hệt cho sự đa dạng cộng tác, OSS Watch đã
khởi xướng Kết
nối Nguồn Mở (bản
dịch tiếng Việt), một loạt sự kiện mang lại cùng
một dải những người làm thực tiễn từ môi trường
các công nghệ di động nguồn mở. Trong sự kiện đầu
của loạt này, một hội thảo về các ứng dụng di động
xuyên nền tảng, đại diện từ giới công nghiệp và hàn
lâm đã thảo luận các vấn đề liên quan tới phát triển
và các cơ hội mở của di động cho quan hệ đối tác
liên khu vực trong môi trường này.
Vòng phản hồi
nhanh và hiệu quả
Đối với Bertrand
Delacretaz, nhà phát triển cao cấp tại Day Software, các
phương pháp phát triển mở cho phép các lập trình viên
có được phản hồi hiệu quả và ngay lập tức từ các
bên tham gia đóng góp của dự án. Vòng lặp phản hồi
trực tiếp này có được thông qua sự kết hợp của các
kênh giao tiếp, bao gồm các thông điệp được đề xuất,
các danh sách thư thảo luận, các sự kiện của người
theo dõi các vấn đề và những xây dựng được tự động
hóa.
Chất lượng của
phản hồi nhanh và trực tiếp này là cơ bản. Thay vì
việc thuê các chuyên gia tốn kém để cung cấp phản hồi
về một sản phẩm, như nhiều công ty làm, các dự án
nguồn mở có các qui trình trực tuyến cho việc mang lại
cùng các trí tuệ tốt nhất trong giới công nghiệp để
giải quyết một cách cộng tác một vấn đề mà có lợi
cho tất cả các phần có liên quan.
Cộng tác dựa vào
sự kiện
Công việc phát triển
triển khai trong các dự án nguồn mở đôi khi được mô
tả như là 'sự cộng tác dựa vào các sự kiện'. Điều
này là vì tất cả các kênh giao tiếp của dự án được
ăn khớp hướng tới việc chia sẻ hoạt động phát triển
của công việc đó với toàn bộ cộng đồng của dự
án.
Bertrand Delacretaz xác
định vài đặc tính của sự cộng tác nguồn mở. Trước
hết, vì tất cả hoạt động của dự án được phản
ánh trong các danh sách thư, một tầm nhìn được chia sẻ
giữa các thành viên dự án là có được. Thứ 2, với
hoạt động đề xuất minh bạch, một người có được
các cập nhật tình trạng theo thời gian thực, nó đưa ra
dấu hiện những gì từng người khác nữa đang làm việc.
Thứ 3, thông qua sử dụng của các trình theo dõi vấn đề,
một người có khả năng tạo ra các yêu cầu trợ giúp
thời gian thực mà không can thiệp vào lịch trình của
những người khác, vì thế cho phép các yêu cầu đó được
ưu tiên và làm việc một cách phù hợp. Cuối cùng, hoạt
động minh bạch này của dự án tạo ra các lưu trữ của
bản thân dịch vụ, nó cực kỳ hữu dụng cho việc theo
dõi các thảo luận đã qua và các qui trình ra quyết định.
Chúng cũng đưa ra tài liệu cho những người mới tới
tham gia vào dự án.
Gãi từng tí một
và tạo ra một thế giới tốt hơn
Đối với Gianugo
Rabellino, Giám đốc cao cấp các cộng đồng nguồn mở
tại Microsoft, khái niệm 'cộng đồng' bị vướng trong
nguyên tắc phức tạp và sự tối nghĩa về văn hóa.
Trong ngữ cảnh cộng tác trực tuyến, 'cộng đồng' là
khó hơn để xác định so với cộng đồng vật lý, biết
rằng sự thiếu thống nhất về thời gian và không gian
theo đó sự cộng tác diễn ra.
Để nhấn mạnh bản
chất kép của các động lực của một người cho việc
đóng góp cho một dự án nguồn mở, Gianugo tham chiếu tới
sự khác biệt giữa các khái niệm ‘Gemeinschaft’ và
‘Gesellschaft’. Trong tiếng Đức, ‘Gemeinschaft’ được
sử dụng trong các ngữ cảnh ngôn ngữ nơi mà một nhóm
được thừa nhận như là quan trọng hơn so với các thành
viên cá nhân. Ngược lại, ‘Gesellschaft’ có xu hướng
được sử dụng trong các tình huống nơi mà các cá nhân
là quan trọng hơn so với nhóm mà họ thuộc về. Các dự
án nguồn mở, Gianugo gợi ý, đặc trưng ở đâu đó ở
giữa: mọi người đóng góp cả vì điều này giúp họ
'gãi từng tí một', nghĩa là tìm các giải pháp cho một
vấn đề mà nó ảnh hưởng tới họ trực tiếp, và vì
họ cảm thấy rằng bằng cách làm thế, tất cả những
người khác cùng tham gia - và xã hội như một tổng thể
- có khả năng hưởng lợi.
Tới vì mã nguồn
và ở lại vì cộng đồng
Rất
thường xuyên, các lập trình viên bắt đầu đóng góp
cho một dự án nguồn mở đi theo dự định thành công
của họ để tùy biến phần mềm đang tồn tại cho các
nhu cầu của họ, hoặc để cải thiện một mẩu mã
nguồn. Một khi họ đã sửa được vấn đề đó, họ có
một sự lựa chọn hoặc đóng góp mã nguồn của họ trở
ngược lại cho cộng đồng, hoặc giữ phiên bản được
sửa đổi trên máy tính của họ. Ở giai đoạn này, một
số lập trình viên nhận thức được rằng nỗ lực đóng
góp trở ngược lại có thể thực sự tiếp kiệm cho họ
nhiều nỗ lực về lâu dài, khi họ sẽ không cần áp
dụng những thay đổi của họ cho từng phiên bản mới
của phần mềm đó. Bổ sung thêm, và có lý thậm chí
quan trọng hơn, họ nhận thức được rằng bằng việc
đóng góp trở ngược lại họ có được sự truy cập
tới sự giàu có các lợi ích có liên quan tới cộng
đồng, bao gồm cơ hội để học bằng việc giám sát
hoạt động trực tuyến của một số những tên tuổi
đáng kính nhất trong thế giới phần mềm.
Việc
phản ánh lên kinh nghiệm trước đó của ông như một
lập trình viên trong dự án Apache Cocoon, Gianugo Rabellino
nhớ về cách mà bản thân ông ban đầu 'tới vì mã nguồn
và đã ở lại vì cộng đồng'.
Kết luận
Đổi
mới mở là về việc đổi mới cả bên trong và bên
ngoài tổ chức hoặc dự án của bạn, và mang những đổi
mới đó tới thị trường thông qua cả các con đường
bên trong và bên ngoài. Trong ngữ cảnh của phát triển
phần mềm, đổi mới mở là sự phát triển mở. Phát
triển mở có các qui trình và công cụ khuyến khích đổi
mởi bằng việc thúc đẩy sự sáng tạo nội bộ, và
khai thác sự sáng tạo từ bên ngoài, và bằng việc mang
các kết quả của đổi mới đó tới thị trường thông
qua các kênh cả nội bộ và bên ngoài. Nếu
bạn cần giúp với việc mở ra sự đổi mới trong dự
án phần mềm của bạn để làm cho nó lôi cuốn hơn cho
những người đóng góp ở bên ngoài và bên vững hơn về
lâu dài, thì OSS Watch là ở
đây để giúp.
A
radical shift in the way innovation takes place is unfolding around
the globe. Driven largely by the Internet and the collaborative
communities it enables, this new open innovation culture changes
everything, from the ways in which science and invention evolve to
the development of societies and economies.
This
document approaches open innovation from the perspective of open
source software development. It looks at the innovation processes
that take place naturally in successful open source projects, and at
open innovation programmes specially designed to initiate and manage
such processes in organizations determined to open up their research
and development activity.
The
document is illustrated with video references from open source and
open innovation practitioners, who provide insights and real-life
examples of successful open innovation in software development.
The
transparency of the processes associated with open innovation
contrasts starkly with those employed in closed innovation. In the
latter, organizations create new products in closed-off laboratories,
fiercely guarding their innovations with powerful patent armouries.
However,
increasingly companies are opening up their innovation through a
combination of crowdsourcing,
pooling resources, sharing intellectual property, and offering
limited rights to patented technology to allow third parties to work
with those innovations. In this new innovation context consumers are
no longer passive recipients of products, but co-creators and
valuable sources of new ideas.
In
many ways, this shift to a more open innovation context has affected
the education and research sectors as well as the commercial sector.
Increasingly, there are new ways in which academics create, store,
analyse and transmit information and research. As described in Open
Source and Research Infrastructure, the UK has developed a
powerful technical infrastructure for sharing academic knowledge. The
critical thing now is to encourage academics to embrace this culture
of openness more actively.
A
recent Future
of Research report suggests that for UK researchers to remain
competitive globally, they need to get used to sharing data and move
freely between sectors and countries. In the words of Rufus Pollock,
co-founder of the Open Knowledge Foundation, ‘the best thing to do
with your data will be thought of by someone else’1.
The
European Union’s Lisbon Council has initiated a process of opening
up access to research funded through its programmes. The Open
Access Infrastructure for Research project has been tasked with
making 20% of the FP7 research outputs available as open access
resources, and as much as 80% of EU-funded research is planned to be
made publicly available from 2014.
For
Henry Chesbrough, a professor at the University of California
Berkeley, who coined the term, open innovation is a way in which
companies do research and development by making greater use of
external ideas and technology in their own business, and in turn let
others benefit from their unused ideas.
In
the classic, technology-push model, the innovation process is usually
pictured as a funnel turned on its side, with selected ideas picked
from a science and technology base and taken down to the market.
Increasingly, however, there is too much knowledge available in too
many parts of the world for companies to continue to innovate
successfully on their own.
In
Chesbrough’s model of open innovation, new ideas are drawn from
both inside and outside the organization, so the classic funnel
diagram needs to be adjusted accordingly. Ideas are also allowed to
go to market through both the company’s own internal processes and
external-facing activities, such as licensing, spin-offs and joint
ventures.
Many
open innovation processes in companies start from a clearly defined
problem or requirement that the innovation process attempts to
address.
However,
Roland Harwood, co-founder of the NESTA spin-off 100% Open,
emphasizes that there are in fact at least two ways in which
organizations can open up their innovation processes. Roland
distinguishes between so-called ‘discover’ and ‘jam’ open
innovation approaches. A ‘discover’ programme usually starts with
a ‘what’ question, such as ‘What is the specific idea or
technology we need?’ In this scenario, requirements are written in
a formal brief calling for a technical solution or a specific
business partnership.
By
contrast, a ‘jam’ programme normally starts with a ‘who’
question, such as ‘Who are the potential collaborators we can work
with to the greatest effect?’. In this case, there is no clearly
defined problem – just an area of opportunity that will be defined
in collaboration with the partners identified in this process.
In
his keynote at
TransferSummitUK 2010, Roland Harwood provided two examples of
open innovation in software projects facilitated by NESTA.
The
first example was a ‘discover’ programme that addressed a clearly
defined set of requirements put forward by the network operator
Orange. Orange was interested in ideas for products and services that
would generate revenue in the region of £50m over three years.
Eighty-five SMEs and independent innovators submitted ideas, of which
six were selected for further development. One of these ideas was
‘Last Second Tickets’, a software-based mobile service offering
Orange customers unsold cinema and theatre tickets at a discounted
price.
The
second example was a ‘jam’ programme that resulted in an
unexpected collaboration between the Formula 1 car manufacturer
McLaren and the UK National Air Transport Control Services (NACTS).
The highly accurate airport operation management software built as a
result of this collaboration around McLaren’s Formula 1 pit stops
management software allowed NACTS to better manage airport operations
and save costs estimated at several million pounds.
In
these and other open innovation programmes, NESTA acted as an
independent broker between research and development units in
different companies, or between large corporates and SMEs or
independent developers, to help them manage the IPR and software
development processes. In open source software environments such
processes are the norm. Over the years, open source communities have
accumulated a huge amount of expertise that can provide extremely
useful lessons in this respect.
Open
source projects provide an excellent environment for software
innovation because they employ an open development methodology. For
Ross Gardler, OSS Watch manager at the time of writing, open
development is ‘a way for distributed team members to
collaboratively develop shared resources in a managed and sustainable
way’. Or, in the snappier formulation of Yochai Benkler, Professor
of Entrepreneurial Legal Studies at Harvard, open development is ‘an
example of commons-based peer-production’.
The
accessibility and transparency of the collaborative activities
facilitated by open development encourage cultural diversity, and
this in turn is conducive to innovation. For Mårten Mickos, former
CEO of MySQL, innovation is most likely to happen when people
encounter each other in social spaces where different views and
solutions can be explored. Diversity brings long-term sustainability
precisely because diverse people pursuing their own self-interests
within a community are likely to end up working together for the
benefit of everyone.
Apache
Hadoop is a good example of a complex ecosystem of widely diverse
partners collaborating in an open source project. Large and small
companies, including IBM, Google, Facebook, Yahoo, Microsoft,
Cloudera, and six universities work together to build this research
infrastructure for massive data analysis.
In
the same spirit of encouraging collaboration diversity, OSS Watch has
initiated Open
Source Junction, a series of events that bring together a wide
range of practitioners from the open source mobile technologies
space. In the first event of the series, a workshop
on open source cross-platform mobile apps, delegates from
industry and academia discussed issues relevant to mobile open
development and opportunities for cross-sector partnership in this
space.
For
Bertrand Delacretaz, Senior Developer at Day Software, open
development methods allow developers to get immediate and effective
feedback from project stakeholders. This direct feedback loop is
acquired through a combination of communication channels, including
commit messages, email discussion lists, issue tracker events and
automated builds.
The
quality of this quick and direct feedback is essential. Instead of
hiring expensive experts to provide feedback on a product, as many
companies do, open source projects have online processes for bringing
together the best minds in the industry to collectively solve a
problem that benefits all the involved parts.
The
development work carried out in open source projects is sometimes
described as ‘event-based collaboration’. This is because all
project communication channels are geared towards sharing one’s
development activity with the entire project community.
Bertrand
Delacretaz identifies several features of open source collaboration.
First, because all project activity is reflected on the mailing
lists, a shared vision among the project members is acquired. Second,
with the transparent commit activity, one gets real-time status
updates, which signal what everyone else is working on. Third,
through the use of issue trackers, one is able to create real-time
help requests without interfering with other people’s schedules,
thus allowing these requests to be prioritized and dealt with
appropriately. Finally, this transparent project activity creates
self-service archives, which are extremely useful for tracking past
discussions and decision-making proceses. They also provide
documentation for the newcomers joining the project.
For
Gianugo Rabellino, Senior Director for Open Source Communities at
Microsoft, the term ‘community’ is entangled in complex
disciplinary and cultural ambiguities. In an online collaboration
context, ‘community’ is more difficult to define than physical
community, given the lack of unity of time and space in which
collaboration takes place.
To
emphasize the dual nature of one’s motivations for contributing to
an open source project, Gianugo refers to the distinction between the
terms ‘Gemeinschaft’ and ‘Gesellschaft’. In German,
‘Gemeinschaft’ is used in linguistic contexts where a group is
perceived as more important than the individual members. In contrast,
‘Gesellshaft’ tends to be used in situations where individuals
are more important than the group they belong to. Open source
projects, Gianugo suggests, are typically somewhere in between:
people contribute both because this helps them ‘scratch an itch’,
i.e. find solutions to a problem that affects them directly, and
because they feel that by doing this, all the other people involved -
and society as a whole - are likely to benefit.
Very
often, developers start contributing to an open source project
following their successful attempt to adapt existing software to
their needs, or to improve a piece of code. Once they have fixed the
problem, they have a choice of either contributing their code back to
the community, or keeping the modified version on their machine. At
this stage, some developers realize that the effort of contributing
back can actually save them a lot of effort in the long term, as they
won’t need to apply their changes to every new release of the
software. In addition, and perhaps even more importantly, they
realize that by contributing back they get access to a wealth of
community-related benefits, including the opportunity to learn by
monitoring the online activity of some of the most respected names in
the software world.
Reflecting
on his early experience as a developer on the Apache Cocoon project,
Gianugo Rabellino recalls how he himself initially ‘came for the
code and stayed for the community’.
Open
innovation is about innovating both inside and outside your
organization or project, and bringing these innovations to market
through both internal and external routes. In a software development
context, open innovation is open development. Open development has
processes and tools that encourage innovation by boosting internal,
and harnessing external, creativity, and by bringing the innovation
results to market through both internal and external channels. If you
need help with opening up innovation in your software project to make
it more appealing to external contributors and more sustainable in
the long term, OSS Watch is here
to help.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.