Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Richard Stallman trên con đường ít người qua lại

Richard Stallman on the road less travelled
By Paul Anderson, Intelligent Content, Published: 18 June 2008, Reviewed: 11 June 2012
Bài được đưa lên Internet ngày: 11/06/2012
Lời người dịch: Tại Việt Nam, nhiều người chỉ biết tới sự đấu tranh giữa mở và đóng. Nhưng những ai đã từng ở trong thế giới phần mềm tự do nguồn mở đủ lâu, thì sẽ còn thấy một cuộc đấu tranh khác, giữa triết lý của phần mềm tự do và những gì được cho là phần mềm nguồn mở. Và cuộc tranh cãi này trong lịch sử đã từng có những lúc là gay gắt, và những cuộc tranh cãi đó là vẫn đang tồn tại cho tới tận bây giờ mà vẫn chưa có hứa hẹn sẽ chấm dứt trong một tương lai gần. Nếu như 'tự do' mục đích chính nhằm vào đấu tranh cho các quyền tự do của người sử dụng đối với phần mềm, thì 'nguồn mở' lại tập trung nhiều hơn vào sự thương mại hóa phần mềm và các ý nghĩa thực dụng khác.
Quan điểm của Richard Stallman về phần mềm tự do và nguồn mở là gây tranh cãi và hoàn toàn nổi tiến, nhưng những gì là các quan điểm của ông về sử dụng chúng trong giáo dục? Paul Anderson, từ Intelligent Content, bắt kịp với ông tại Đại học Manchester trong một chuyến viếng thăm hy hữu tới Anh vào mùa hè năm 2008.
Những ý tưởng lớn
Richard Stallman đã nắm lấy con đường, theo thơ ca các áng nổi tiếng của Robert Frost, là 'ít người qua'. Là một người bảo vệ lâu đời và nhiệt huyết của phần mềm không sở hữu độc quyền ông đã thành lập Quỹ Phần mềm Tự do – FSF (Free Software Foundation) vào năm 1985, nhưng ông thấy bản thân ở một rẽ nhánh trên con đường 13 năm về trước, khi ông đã từ chối tham gia vòa cộng đồng nguồn mở thực dụng và đang lên nhanh chóng, đang nổi. Theo quan điểm của Stallman, nguồn mở đã không hoàn toàn hỗ trợ và thúc đẩy những gì mà đối với ông từng là vấn đề quan trọng nhất với lưu ý về sự tạo ra và sử dụng phần mềm: điều nó làm cho sự tự do của chúng ta như những cá nhân.
Thật rõ ràng, chúng ta đang nói về những ý tưởng lớn ở đây. Đây là một tranh luận về quyền tự do như trong sự tự do, thay vì miễn phí, và Stallman nhấn mạnh rằng đó là những câu hỏi chính trị sâu sắc: 'Phần mềm tự do nghĩa là phần mềm mà tôn trọng quyền tự do của người sử dụng. Xã hội của chúng ta khuyến khích những người phán xét các chương trình theo một cách nông cạn dựa chỉ vào sự thuận tiện thực tế – nó mạnh thế nào, tin cậy thế nào, giá nó là bao nhiêu, và bỏ qua các câu hỏi quan trọng nhất: chương trình đó làm gì đối với quyền tự do của tôi?'
Vì sao nó là quá quan trọng để nói về quyền tự do khi thảo luận về phần mềm? Stallman viện lý rằng vì điện toán đám đông đã phát triển quá nhanh và từng có ít thời gian cho một tranh luận phù hợp về các quyền chính trị và con người có liên quan tới phần mềm máy tính và sự sử dụng lan tràn rộng rãi của nó. Ông viện lý rằng một chương trình là phần mềm tự do nếu giấy phép của nó đưa ra cho người sử dụng 4 quyền tự do cơ bản: tự do chạy chương trình như bạn muốn; tự do nghiên cứu cách mà chương trình làm việc và tùy biến nó cho các nhu cầu của bạn (truy cập tới mã nguồn là một điều kiện tiên quyết cho điều này); tự do phân phối lại các bản sao sao cho bạn có thể giúp được người hàng xóm của bạn; tự do cải tiến chương trình và phát hành những cải tiến của bạn cho công chúng, sao cho toàn bộ cộng đồng được hưởng lợi.
Stallman đòi hỏi rằng nếu bạn có tất cả 4 quyền tự do thì chương trình là phần mềm tự do vì hệ thống xã hội của sự phân phối và sử dụng chương trình là một hệ thống đạo đức, tôn trọng quyền tự do và sự đoàn kết xã hộ của những người sử dụng. Tuy nhiên, nếu một trong những quyền tự do đó bị thiếu hoặc không đủ, thì, ông tranh luận: 'chương trình là phần mềm sở hữu độc quyền. Phần mềm nô dịch người sử dụng. Nó giữ cho những người sử dụng bị chia rẽ và bất lực. Bị chia rẽ vì mọi người bị cấm đoán chia sẻ nó với những người khác và bất lực vì người sử dụng không có mã nguồn nên họ không thể thay đổi được nó, họ thậm chí không thể kiểm tra, một cách độc lập, những gì nó đang làm đối với họ'.
Phàn nàn của ông với cộng đồng nguồn mở không phải là việc người sử dụng không có đủ sự truy cập tới mã nguồn, cũng không phải vì phương pháp luận phát triển nguồn mở không tạo ra những chương trình tốt và hữu dụng. Vấn đề của ông là ông tin tưởng cộng đồng nguồn mở không nắm lấy các vấn đề cốt lõi đó của tự do, sự đoàn kết xã hội và quyền tự do, đầy đủ và nghiêm túc. Ông nói: 'Nguồn mở là chiến dịch để quên đi về quyền tự do và quên đi về việc phán xét tính đúng hay sai của các thực tiễn phân phối phần mềm và phán xét chúng chỉ về những điều khoản thuận tiện thực tiễn'. Quả thực, thực tế là từ 'free' (tự do) đã bị bỏ khỏi các hội thoại là một chỉ số sống còn đối với Stallman về đường lối đi lại: 'Trong năm 1998 họ đã đưa ra một khái niệm khác sao cho họ có thể rời khỏi tất cả các ý tưởng có liên quan tới khái niệm phần mềm tự do bao gồm ý tưởng rằng điều này là một sự cấp bách về đạo đức cho việc tôn trọng quyền tự do của người sử dụng'. Nói cách khác, nếu bạn không nói về quyền tự do, thì bạn sẽ không dẫn được những người khác nghĩ về nó.
Những tranh luận đó có lẽ đối với người ngoài giống như là những thảo luận bí mật nhà nghề của các giáo sư thần học thời trung cổ, nhưng chúng là quan trọng vì 2 lý do. Trước hết, điều này lẫn là vấn đề sống động trong cộng đồng phát triển phần mềm, nơi mà sự tranh cãi vẫn sôi nổi về cách tốt nhất để phát triển và phân phối phần mềm. Thứ 2, các sản phẩm phần mềm từ 2 trại đó thực sự đang được hàng triêu người sử dụng - ví dụ hàng đầu đang là GNU/Linux.
Quyền tự do hàn lâm
Chúng là những vấn đề nổi tiếng, đặc biệt trong các cộng đồng pháp lý và phần mềm, nhưng ít nổi tiếng hơn có lẽ là quan điểm của Stallman về những tác động của các vấn đề đó đối với giáo dục.
Những gì về quan điểm của ông sau đó về làm thế nào phần mềm tự do được sử dụng, và được phát triển, trong cộng đồng giáo dục? Như bạn có thể mong đợi nó là một thông điệp không có sự thỏa hiệp. Stallman tạo ra sự truyền cảm hứng từ một dòng dài những người cấp tiến, họ đã đấu tranh cho các quyền tự do của họ, và, quả thực, ông trích lời của người theo chủ nghĩa bãi nô của Mỹ, Frederick Douglass, trên website của cá nhân ông: 'Những người tự nhận mình quý mến quyền tự do, sự xao động giảm giá trị, là những người mà muốn gặt mà không muốn cày mảnh đất'.
Về bản chất, đây là thông điệp của ông cho hệ thống giáo dục và ông viện lý rằng: 'Nếu bạn là một sinh viên trong trường học [hoặc đại học] hoặc một giáo viên hoặc thành viên đội nhân lực thì trách nhiệm của bạn để tổ chức và thúc ép vì sự chuyển sang phần mềm tự do và trên hết hãy đứng lên vì nhận thức [rằng] phần mềm sở hữu độc quyền là sai'. Các trường học, các đại học, các trường cao đẳng tất cả các mức độ giáo dục nên thiết lập một ví dụ và không sử dụng phần mềm sở hữu độc quyền, không dạy những người trẻ tuổi sử dụng những sản phẩm như vậy. Ông duy trì rằng vì vai trò đầu tiên của giáo dục là vai trò xã hội rồi nó tuân theo việc: 'Nhiệm vụ của họ là để giáo dục thế hệ tiếp sau trở thành các công dân tốt của một xã hộ mạnh, độc lập, có khả năng, hợp tác và tự do và điều này có nghĩa là việc dạy họ sử dụng Phần mềm Tự do chứ không phải phần mềm sở hữu độc quyền'.
Cũng có nhiều lý do thực tế cho việc từ bỏ phần mềm sở hữu độc quyền, rõ ràng nhất và có lẽ nông cạn nhất là để tiết kiệm tiền phí giấy phép. Bổ sung thêm, sử dụng phần mềm tự do - mã nguồn của nó có thể được đọc kỹ lúc nhàn rỗi - cũng khuyến khích trực tiếp, ông viện lý, các lập trình viên trẻ tuổi của ngày mai. Nhưng hầu hết tất cả đó là một lý lẽ đạo đức: 'Nếu một trường học muốn bắt đầu tôn trọng quyền tự do và dạy mọi người cách sống trong một xã hội tự do thì họ phải làm nhiều hơn là chỉ nói: “Chúng tôi sẽ làm nó vì nó là rẻ hơn”. Họ phải nói chúng tôi sẽ đứng lên vì quyền tự do. Chúng tôi sẽ thay thế tất cả các phần mềm không tự do và chúng tôi sẽ không lấy bất kỳ gì hơn'.
Liệu có chắc chắn điều đó thiếu thực tế cho một tổ chức rộng lớn và phức tạp như một trường học hoặc đại học để dừng sử dụng phần mềm sở hữu độc quyền chăng? Đây thường là trường hợp mà các nhân viên viện lý rằng các sinh viên tích cực muốn sử dụng phần mềm sở hữu độc quyền, vì nó giúp họ học về phần mềm đang được sử dụng trong doanh nghiệp và vì thế cải thiện khả năng được thuê làm dài hạn của họ. Chắc chắn sức mạnh của thị trường đã chỉ định những gì giáo dục nên làm chứ? Stallman viện lý rằng đây là một lý do tồi cho các trường và cao đẳng để thúc đẩy phần mềm không tự do: 'Đây không là sức mạnh thị trường. Đây là một sai lầm để gọi đó là sức mạnh của thị trường. Đây là vấn đề đánh bẫy mọi người trong một tình huống mất ưu thế vĩnh viễn'. Ông nói tiếp: 'thực tế rằng xã hội là một phần rồi trong một cái bẫy không phải là lý do để thúc đẩy tiếp vào đó'. Stallman viện lý rằng điều đó có thể là khó khăn, nhưng rằng: 'Nếu bạn muốn quyền tự do bạn sẽ chấp nhận rằng đôi khi có những sự bất tiện để bảo vệ nó. Mọi người mà sẽ không bao giờ chấp nhận sự bất tiện để bảo vệ quền tự do của họ sẽ thua nó'.
Dù từng có một vài sự áp dụng các giải pháp phần mềm tự do và nguồn mở trong cộng đồng giáo dục tại nước Anh, thì vẫn còn chưa ở mức mà những người đề xướng mong muốn. Khảo sát 2 năm một lần của OSS Watch về Giáo dục Trung học và Cao hơn (HE/FE) từ 2008 đã thấy rằng trong khi khoảng nửa các viện trường của HE/FE đã có chính sách cho việc xem xét phần mềm tự do nguồn mở theo những điều khoản tuyệt đối, thì các trường đại học và cao đẳng vẫn dựa nặng nề vào các giải pháp sở hữu độc quyền. Stallman phản ứng với điều này bằng việc viện lý rằng chính sách là không đủ: 'Đó chỉ là bước đầu tiên. Không ngạc nhiên [có sự cất cánh chậm] vì chính sách họ có không là một chính sách để hỗ trợ cho quyền tự do, nó chỉ là một chính sách có lẽ sẽ hỗ trợ cho các quyền tự do'.
Nhưng, ông viện lý nó có thể được thực hiện. Ông trích ví dụ của các viện trường tại các nước như Peru, Ấn Độ và Brazil, nơi mà các trường học và đại học đang chuyển hoàn toàn sang sử dụng phần mềm tự do.
Các viện trường như những người sản xuất phần mềm
Vai trò đáng kể khổng lồ khác mà các trường đại học và cao đẳng (đặc biệt những trường mà dẫn dắt nghiên cứu) có trong tranh luận này là họ cũng là những người sản xuất phần mềm. Theo truyền thống, từng có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các nhà khoa học máy tính của các trường đại học và các nhà nghiên cứu khác vì những ý tưởng của phần mềm tụ do và, quả thực, bản thân Stallman đã hình thành ý tưởng của ông trong khi làm việc tại MIT. Tuy nhiên, dường như là điều này đã thay đổi qua năm tháng và, bổ sung thêm, có sức ép đáng kể từ chính phủ đối với các trường đại học để hiện thực hóa hoàn vốn đầu tư thông qua sự đa dạng của những gì được gọi là các hoạt động 'dòng thứ 3'. Kết quả là, các văn phòng sở hữu trí tuệ (IP) và thương mại hóc đã nắm lấy một sự quan tâm ngày một gia tăng trong mã mà các dự án nghiên cứu sản xuất.
Stallman ghê tởm sử dụng khái niệm sở hữu trí tuệ và không hạnh phúc tương tự với khái niệm bảo vệ sở hữu trí tuệ của đại học và cao đẳng: 'Việc dừng mọi người khỏi việc chia sẻ một chương trình hoặc một bài hát, là việc không bảo vệ - điều đó là hoàn toàn sai, vì điều đó tạo ra một yêu sách, một yêu sách ẩn, rằng đối với nhiều người hơn để chạy chương trình hoặc nhiều người hơn để nghe bản nhạc, hủy hoại nó hoặc gây thiệt hại cho nó, và đó là điều sai trái'.
Tư vấn của ông cho các lập trình viên máy tính và các nhà nghiên cứu làm việc với mã phần mềm thông qua các dự án nghiên cứu của đại học là mạnh mẽ một cách đặc trưng: 'Đây là những gì mỗi người đang phát triển phần mềm trong một trường đại học phải làm khi cần thiết. Khi chương trình chỉ bắt đầu ang áng làm việc, hãy đi tới [quản lý] hành chính và nói “Nếu tôi có thể phát hành điều này như phần mềm tự do, thì sau đó tôi sẽ kết thúc nó. Nếu không, tôi sẽ chỉ viết một tờ giấy về nó”'. Và, một lần nữa, như trường hợp với các trường học, các nhân viên nên chống lại và có tổ chức, có lẽ thông qua Liên đoàn của họ: 'Hãy sử dụng bất kỳ phương tiện đạo đức nào có sẵn vì các đại học sẽ không phát triển phần mềm sở hữu độc quyền. Điều đó là tốt hơn nếu họ không phát triển gì cả, vì [bằng việc làm thế], họ đang phản bội lại nhiệm vụ của họ để đóng góp cho tri thức của con người'.
Ông cũng sắc bén ngang bằng khi thảo luận về vai trò của chính phủ trong việc yêu cầu các đại học phát triển thông qua việc lôi cuốn cấp vốn thương mại và thông qua việc phát triển và thương mại hóa công việc của họ bằng việc sử dụng các giấy phép không tự do. Ông nói: 'Vì thế, mọi người phải từ chối điều đó. Mọi người phải nói chính phủ là sai, và các nhà quản trị đại học mà đi với nó là sai và là tốt hơn để giảm kích cỡ của đại học, làm giảm hoạt động của nó, rồi bắt đầu đi vào thứ gì đó mà nó là sai. Điều này cần sự dũng cảm, không thật nhiều sự dũng cảm, không giống như đối mặt với cái chết có thể, nhưng nó cần sự dũng cảm về đạo đức để nói chúng là sai... Việc cho phép trường đại học để biến thành công cụ kinh doanh là cho phép nó bị hư hỏng'.
Web 2.0 và Phần mềm như một Dịch vụ
Cũng có một vấn đề mới mà cũng ảnh hưởng tới những thảo luận về sử dụng phần mềm trong giáo dục: Web 2.0 và khái niệm đang nổi lên về Phần mềm như một Dịch vụ (SaaS). Một số lượng đang gia tăng các viện trường giáo dục, đặc biệt là các trường học - như tờ Guardian đã làm rõ trong một bài báo gần đây (Dodson, 2008) - đang sử dụng các gói văn phòng dựa trên web như Phiên bản cho Giáo dục các Ứng dụng của Google (Google Apps Education Edition) (một đống cho giáo dục mà bao gồm cả GoogleDocs nổi tiếng). Chúng đưa ra nhiều tính năng, như trình xử lý văn bản và bảng tính, mà theo truyền thống từng được cung cấp bằng các gói phần mềm được cấp phép, được thu gọn lại, nhưng thông qua cửa sổ trình duyệt thay vì máy tính để bàn. Bản thân phần mềm chạy chủ yếu trên một máy chủ ở xa.
Quỹ Phần mềm Tự do đã trả lời thế nào cho thách thức mới này? Stallman nói đây nhất định là một vấn đề mà họ nhận thức được nhưng chỉ ra rằng: 'Bằng cách nào đó mọi người nghĩ rằng nếu phần mềm sở hữu độc quyền được cài đặt lên máy của bạn bằng trình duyệt và bạn không lưu ý nó thì điều đó làm cho nó OK, nhưng tôi không nghĩ nó làm cho OK'.
Ông viện lý rằng có 2 cách nhìn vào sự phát triển đang nổi lên này. Điều đầu tiên là để duy trì trọng tâm vào việc liệu mã có liên quan có là tự do hay không, về các điều khoản mà FSF định nghĩa, và chỉ cho công việc với các dịch vụ có thể được phân loại thực sự như là tự do theo nghĩa này. Ví dụ, điều này có nghĩa là mã phần mềm mà chạy dịch vụ trên các máy chủ ở xa phải được làm cho sẵn sàng cho những người sử dụng. Để giải quyết vấn đề này, FSF đã đóng góp cho sự tạo ra một giấy phép mới, giấy phép Affero General Public License 3 (AGPLv3), nó tuyên bố rằng mã được làm cho sẵn sàng theo cách này cho những ai sử dụng dịch vụ ở xa đó. Tuy nhiên, như Stallman chỉ ra: 'Google đang không sử dụng nó... các chương trình mà Google đã cài đặt [trên các máy chủ của hãng] là không theo giấy phép đó'.
Thứ 2, Stallman mở rộng lý lẽ ra để nhìn vào toàn bộ khái niệm về sự kiểm soát của người sử dụng: 'Một vấn đề mà chúng ta thấy ngày càng gia tăng là mọi người làm điện toán của họ trên máy chủ của ai đó khác và nếu bạn là điều đó thì bạn không kiểm soát được điện toán của bạn. Điều thú vị là điều đó đúng ngang bằng đối với Web liệu phần mềm trên máy chủ đó có là tự do hay không'. Vì thế vấn đề là phần mềm thực sự chạy ở đâu và liệu người sử dụng có sự kiểm soát qui trình đó hay không. Ông viện lý rằng: 'bạn vẫn có thể không kiểm soát được qua điện toán của bạn nếu bạn thực hiện nó với máy chủ của Google, nhưng điều này là không vì Google thực sự là tồi. Giả thiết Google đã xuất bản tất cả mã nguồn và giả thiết tôi có nó và đặt nó lên máy chủ của tôi - vâng bạn sẽ hông có bất kỳ sự kiểm soát nào đối với điện toán của bạn nếu bạn cũng làm nó trên máy chủ của tôi. Bất kể tôi là một gã hay ho thế nào và tôi tôn trọng các quyền tự do của bạn thế nào, thì bạn cũng vẫn không kiểm soát được phần mềm được cài đặt lên máy chủ của tôi, hoặc máy chủ của anh ta hoặc máy chủ của chị ta, tôi ngụ ý, về cơ bản cách duy nhất bạn sẽ kiểm soát được điện toán của bạn nếu bạn thực hiện nó với bản sao chương trình của bạn'. Ông thấy kỳ cục rằng những người sử dụng có thể muốn làm việc theo cách này và đưa sự kiểm soát ngược trở lại một cách có hiệu lực cho các lập trình viên. Như ông thấy nó: 'Chúng ta phải từ chối sức ép đó hầu hết là một sức ép PR, nó là điều mà chúng ta đang nói rằng điều cuối cùng là không có các bản sao các phần mềm của riêng chúng ta bao giờ nữa. Tôi không biết vì sao bấy kỳ ai cũng muốn làm điều này. Những ngày đó thật khó để có được một máy tính mà không đủ mạnh để chạy các chương trình đó, vì sao bạn lại không bao giờ nghĩ về việc sử dụng máy chủ của ai đó khác nữa? Điều này thật nực cười, nhưng mọi người vì lý do nào đó lại làm điều đó'.
Lan truyền thông điệp
Liệu ông có là người không tưởng một cách tuyệt vọng? Có thể. Có lẽ là không thực tế để mong đợi thế giới chuyển sang làm việc chỉ với phần mềm tự do. Vâng, thông điệp của Stallman dường như đã làm ra sự tiến bộ nghiêm túc tại một số quốc gia và hàng triệu người sử dụng hệ điều hành GNU/Linux mà ông từng dùng làm công cụ trong việc truyền lại cho thế giới. Và đơn giản bằng việc tiếp tục làm nảy sinh vấn đề về phần mềm tự do (bản dịch tiếng Việt), ông có lẽ làm cho giới công nghiệp máy tính ngẫu nhiên dừng và nghĩ. Stallman chấp nhận nó vẫn còn là khó khăn vất vả, nhưng viện lý, theo một cách đặc trưng, rằng: 'để nhìn vào nó để biết nó là khó khăn thế nào còn hơn là vì sao nó phải chiến thắng là một viễn cảnh phi đạo đức'.
Trong thơ ca của Frost, Con đường Không Đi (The Road Not Taken), người kể chuyện cuối cùng thừa nhận rằng có khả năng là, một ngày nào đó sau này với một tiếng thở dài, ông sẽ nhìn lại và có lẽ luyến tiếc lựa chọn của ông. Người ta có ấn tượng từ cuộc gặp Richard Stallman, rằng, như ông đi dọc suốt các châu lục để trình bày luận thuyết của ông hết hội nghị này tới hội nghị khác, ông đang đi trên con đường dài, dài từ điểm đó.
Richard Stallman’s views on free and open source software are controversial and quite well known, but what are his views on its use in education? Paul Anderson, from Intelligent Content, catches up with him at the University of Manchester on a rare visit to the UK during Summer 2008.
Big ideas
Richard Stallman has taken the road, in the poet Robert Frost’s famous phrase, ‘less travelled by’. As a long-time and passionate advocate of non-proprietary software he set up the Free Software Foundation in 1985, but found himself at a fork in the road thirteen years later, when he refused to join with the emerging, rapidly growing and pragmatic open source community. In Stallman’s view, open source did not fully support and promote what for him was the most important issue with regard to the production and use of software: what it does to our freedom as individuals.
Just to be clear, we’re talking about big ideas here. This is a debate about free as in liberty, rather than free of charge, and Stallman emphasises that these are deeply political questions: ‘Free software means software that respects the users’ freedom. Our society encourages people to judge programs in a shallow way based only on practical convenience – how powerful is it, how reliable, what does it cost, and to ignore the most important questions: what does this program do to my freedom?’
Why is it so important to talk about freedom when discussing software? Stallman argues that because mass computing has developed so quickly there has been little time for a proper debate about the political and human rights issues associated with computer software and its widespread use. He argues that a program is free software if its licence provides the user with four essential freedoms: the freedom to run the program as you wish; the freedom to study how the program works and adapt it to your needs (access to the source code is a precondition for this); the freedom to redistribute copies so you can help your neighbour; the freedom to improve the program and release your improvements to the public, so that the whole community benefits.
Stallman asserts that if you have all four freedoms then the program is free software because the social 
system of the program’s distribution and use is an ethical system, respecting the users’ freedom and respecting social solidarity. However, if one of these freedoms is missing or is insufficient, then, he argues: ‘the program is proprietary software. User-subjugating software. It keeps the users divided and helpless. Divided because everyone is forbidden to share it with anyone else and helpless because the users don’t have the source code so that they can’t change it, they can’t even check, independently, what it is doing to them’.
His beef with the open source community is not that the user doesn’t have sufficient access to the source code, nor that the open source development methodology doesn’t produce good and useful programs. His issue is that he believes the open source community fails to take these core issues of liberty, social solidarity and freedom, sufficiently seriously. He says: ‘Open source is the campaign to forget about freedom and forget about judging the rightness or wrongness of software distribution practices and judge them only in terms of practical convenience’. Indeed, the fact that the very word ‘free’ has been dropped from the conversation is a crucial indication to Stallman of the direction of travel: ‘In 1998 they coined a different term so that they could get away from all the ideas associated with the term free software including the idea that this is an ethical imperative for respecting users’ freedom’. In other words, if you don’t talk about freedom, you won’t lead other people to think about it.
These debates may seem to the outsider like the arcane discussions of medieval theologians, but they are important for two main reasons. First of all, this is still a live issue within the software development community, where the controversy still rages about the best way to develop and distribute software. Secondly, the software products from the two camps are actually being used by millions of people—the leading example being GNU/Linux.
Academic freedom
These are well known issues, particularly within the software and legal communities, but less well known perhaps are Stallman’s views on the issue’s implications for education.
What then of his views on how free software is used, and developed, within the education community? As you perhaps might expect it is a message of no compromise. Stallman draws inspiration from a long line of radicals who have fought for our freedoms, and, indeed, he quotes the American slave abolitionist, Frederick Douglass, on his personal website: ‘Those who profess to favor freedom, yet depreciate agitation, are men who want crops without plowing up the ground.’
In essence this is his message to the education system and he argues that: ‘If you are a student in school [or university] or a teacher or member of staff it is your responsibility to organise and pressure for a move to free software and above all stand up for the awareness [that] proprietary software is wrong’. Schools, universities, colleges and all levels of education should set an example and not make use of proprietary software nor be teaching young people to use such products. He maintains that since education’s primary role is social then it follows that: ‘Their mission is to educate the next generation to be good citizens of a strong, independent, capable, co-operative and free society and this means teaching them to use Free Software not proprietary software’.
There are also many practical reasons for rejecting proprietary software, the most obvious and perhaps superficial being to save money on licence fees. In addition, the use of free software – whose code can be perused at leisure – also directly encourages, he argues, the young programmers of tomorrow. But most of all it is an ethical argument: ‘If a school wants to start respecting freedom and teaching people how to live in a free society they have to do more than just say: “We’ll do it when it’s cheaper”. They have to say we will stand for freedom. We will replace all non-free software and we will not get any more’.
But surely it is impractical for a large and complex organisation like a school or university to stop using proprietary software? It is often the case that staff argue that the students actively want to use proprietary software, since it helps them to learn about the software being used in business and so improves their long-term employability. Surely the power of the market has dictated what education should be doing? Stallman argues that this is a poor reason for schools and colleges to promote non-free software: ‘It is not the power of the market. It is a mistake to call that the power of a market. It is a matter of luring people into a situation of permanent disadvantage’. He goes on to say: ‘the fact that society is already partly in a trap is no reason to push further into it’. Stallman argues that it may be difficult, but that: ‘If you want freedom you gotta accept that sometimes there are inconveniences to defend it. People who will not ever accept an inconvenience in order to defend their freedom will lose it.’
Although there has been some adoption of free and open source solutions within the education community in the UK, it is not yet on the scale that proponents would like. OSS Watch’s biennial survey of Higher and Further Education 1 from 2008 found that whilst roughly half of UK HE/FE institutions had a policy for considering free or open source software in absolute terms, universities and colleges were still heavily reliant on proprietary solutions. Stallman reacts to this by arguing that policy is not enough: ‘That is just a first step. No wonder [there is low take-up] because the policy they have is not a policy to support freedom, it is just a policy to maybe support freedom’. But, he argues it can be done. He cites the example of institutions in countries such as Peru, India and Brazil, where schools and universities are moving entirely to the use of free software.
Institutions as producers of software
The other hugely significant role that universities and colleges (especially those that are research-led) have in this debate is that they are also the producers of software. Traditionally, there has been strong support from university computer scientists and other researchers for the ideas of free software and, indeed, Stallman himself formulated his ideas whilst working at MIT. However, it seems that this has changed over the years and, in addition, there is considerable pressure from government for universities to realise a return on investment through a variety of what are called ‘third stream’ activities. As a result, university intellectual property (IP) and commercialisation offices have taken an increasing interest in the code that research projects produce.
Stallman detests the use of the term intellectual property and is similarly unhappy with the concept of protecting the university or college’s intellectual property: ‘Stopping people from sharing a program or a song, is not protecting – that’s absolutely wrong, because that makes a claim, an implicit claim, that for more people to run the program or more people to hear the song, destroys it or damages it, and that is false’.
His advice to computer programmers and researchers working with software code through university research projects is characteristically trenchant: ‘Here is what every person developing software in a university must do when necessary. When the program is just vaguely starting to work, go to the administration [management] and say “If I can release this as free software, then I’ll finish it. Otherwise, I’ll just write a paper about it”.’ And, again, as is the case with schools, staff should be protesting and getting organised, perhaps through their Union: ‘Use whatever ethical means are available because the universities shouldn’t be developing proprietary software. It is better if they develop none at all, because [by doing so] they are betraying their mission to contribute to human knowledge’.
He is equally trenchant when discussing the government’s role in asking universities to develop through attracting commercial funding and through developing and commercializing their work using non-free licences. He says: ‘So, people have to reject that. People have to say the government is wrong, and university administrators who go along with it are wrong and it is better to reduce the size of the university, reduce its activity, than start going into something that is wrong. This takes courage, not that much courage, not like facing possible death, but it takes moral courage to say these are wrong… Allowing the university to be turned into the tool of business is allowing it to be corrupted’.
Web 2.0 and Software as a Service
There is also a new issue that is also affecting the discussions about software use in education: Web 2.0 and the emerging concept of Software as a Service (SaaS). A growing number of educational institutions, particularly schools – as the Guardian made clear in a recent article (Dodson, 2008) – are making use of web-based office packages such as Google Apps Education Edition (an educational bundle that includes the well known GoogleDocs). These provide many of the features, such as word processing and spreadsheets, that have been traditionally provided by licensed, shrink-wrapped software packages, but through the browser window instead of the desktop. The software itself mainly runs on a remote server.
How has the Free Software Foundation responded to this new challenge? Stallman says it is definitely an issue that they are aware of but points out that: ‘Somehow people think that if the proprietary software is installed on your machine by the browser and you don’t notice it then that makes it ok, but I don’t think it makes it ok’.
He argues that there are two ways of looking at this emerging development. The first is to maintain the focus on whether the code that is involved is free, in the terms that the FSF defines, and to only work with services that can be truly classed as free in this respect. This means, for example, that the software source code that runs the service on the remote servers must be made available to the users. In order to address this issue the FSF has contributed to the creation of a new licence, the Affero General Public License v3, which stipulates that the code is made available in this manner to those using the remote service. However, as Stallman points out: ‘Google is not using it…the programs that Google installed [on its servers] are not under that licence’.
Secondly, Stallman widens the argument out to look at the overall concept of user control: ‘One problem that we see increasingly is that people do their computing on someone else’s server and if you do that you don’t control your computing. The interesting thing is that is equally true of the Web whether the software on that server is free or not.’ The issue is therefore one of where the software actually runs and whether the user has control of that process. He argues that: ‘you still would have no control over your computing if you do it with Google’s server, but this is not because Google is particularly bad. Suppose Google published all that source code and suppose I got it and put it on my server – well you wouldn’t have any control over your computing if you did it on my server either. No matter how nice a guy I am and how much I respect your freedom, you don’t control the software installed on my server, or his server or her server, I mean, basically the only way you are going to control your computing is if you do it with your copy of the program.’ He finds it odd that users would want to work in this manner and in effect hand back control to the developers. As he sees it: ‘We have to just reject the pressure, almost a PR pressure, which is that we are being told that the latest thing is to not have our own copies of the software anymore. I don’t know why anyone would want to do this. These days it is hard to get a computer that isn’t powerful enough to run these programs, why would you ever think of using someone else’s server? It is ridiculous, but somehow people do it’.
Spreading the message
Is he hopelessly utopian? Maybe. Perhaps it is impractical to expect the world to move to working only with free software. Yet, Stallman’s message does seem to have made serious headway in some countries and millions make use of the GNU/Linux operating system that he has been instrumental in bequeathing to the world. And simply by continuing to raise the free software issue he perhaps causes the computer industry to occasionally stop and think. Stallman admits it is still a hard slog, but argues, characteristically, that: ‘to look at it in terms of how hard it is rather than why it must be won is an amoral perspective’.
In Frost’s poem, The Road Not Taken, the narrator eventually admits that it is likely that, at some later date and with a sigh, he will look back and perhaps regret his choice. One gets the impression from meeting Richard Stallman, that, as he criss-crosses the continents making his case at conference after conference, he is a long, long way from that point.
Dịch: Lê Trung Nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.