Community
lessons for research infrastructure
By Gabriel Hanganu,
Published: 17 May 2010, Reviewed: 14 May 2012
Bài được đưa lên
Internet ngày: 14/05/2012
Lời
người dịch: Chúng ta đã từng làm quen với các khái
niệm hạ tầng điện tử (HTĐT) và hạ tầng nghiên cứu
(HTNC) trong các bài: (1) Nguồn
mở và hạ tầng nghiên cứu; và (2)
Các
bài học về tính bền vững đối với hạ tầng nghiên
cứu. Bài viết này cho chúng ta thấy
các bài học có thể học được từ cộng đồng phát
triển mở cho HTNC. “Một số bài học có liên quan tới
cộng đồng phát triển mở có thể giúp loại bỏ các
rào cản cho sự tham gia của người sử dụng với các
công cụ và dịch vụ HTĐT. Các
nhà nghiên cứu có khả năng hơn để sử dụng các cơ sở
đó nếu họ cảm thấy rằng họ là một phần của một
văn hóa cộng tác và hỗ trợ lẫn nhau, nơi mà sự đóng
góp được khuyến khích và được tưởng thưởng từ
một giai đoạn sớm. Chúng
cũng có khả năng hơn để tham gia với các giải pháp
công nghệ được tùy biến thích nghi để phù hợp với
các nhu cầu thực tế của cộng đồng”.
Bất chấp tính sẵn
sàng của một dải ấn tượng các hệ thống và tài
nguyên trực tuyến cho các nhà nghiên cứu, một Báo
cáo Cam kết tham gia Cộng đồng do JISC cấp vốn đã
nhận diện được một số rào cản cho sự áp dụng của
chúng. Chúng bao gồm sự cạnh tranh cho việc cấp vốn
nghiên cứu, một sự bất lực để chia sẻ các tài
nguyên, và sự thiếu hỗ trợ phát triển các phần mềm
được mở rộng. Hãy xem xét sát hơn vào một số rào
cản đó, và khai thác cách mà kinh nghiệm từ phát triển
mở có thể được sử dụng để làm dịu bớt hoặc
loại bỏ chúng.
Các bài học quan
trọng nhất cho các dự án hạ tầng điện tử:
Taooj một cảm giá
thuộc về và một văn hóa hỗ trợ lẫn nhau
Điều này có thể
được thực hiện bằng việc
tạo thuận lợi cho giao tiếp và việc
nhận thức sự khác biệt (bản
dịch tiếng Việt).
Các rào cản của
người sử dụng ở xa
Hãy chắc chắn bạn
phổ
biến sự thành công, khuyến
khích sự đóng góp
và tạo
các cách thức dễ dàng (bản
dịch tiếng Việt) cho những người đóng góp mới
tiềm tàng.
Tùy biến thích
nghi các công cụ cho các nhu cầu của cộng đồng
Lôi
kéo những người sử dụng của bạn tham gia và luôn
đặt mọi người cao hơn công nghệ (bản
dịch tiếng Việt).
Giới thiệu
Tại Anh, hạ tầng
điện tử (HTĐT) bao gồm sự kết hợp của các hệ
thống, công cụ và dịch vụ được thiết kế để thúc
đẩy các cách thức mới tiến hành nghiên cứu và cải
thiện sự cộng tác liên chủ đề. Bất chấp sự phát
triển của một danh sách khá lớn các dịch vụ và cơ sở
như vậy, các nhà nghiên cứu tại Anh vẫn tiếp tục chỉ
ra một số hạn chế trong việc sử dụng chúng một cách
rộng rãi. Những rào cản chính cho sự sử dụng các tài
nguyên đó dường như có tính xã hội và tổ chức hơn
là công nghệ. Chúng tôi gợi ý rằng việc học một số
bài học từ thực tiễn phát triển nguồn mở có thể
cải thiện hiện trạng.
Chúng tôi tieps cận
chủ đề này theo 3 tài liệu: một
thảo luận chung (bản
dịch tiếng Việt) và 2 đi sâu vào chi tiết hơn đưa
ra những trích dẫn từ các cuộc phỏng vấn gần đây
với các nhà nghiên cứu và các nhà cung cấp dịch vụ
của Anh - một trong các bài học cộng đồng cho hạ tầng
nghiên cứu (HTNC) và tài liệu khác về các bài học về
tính
bền vững cho hạ tầng nghiên cứu (bản
dịch tiếng Việt). Theo điều này, tài liệu đầu
trong 2 tài liệu, chúng tôi nhấn mạnh một số bài học
cộng đồng mà có thể giúp loại bỏ các rào cản để
cam kết tham gia với các hệ thống và dịch vụ HTĐT của
Anh.
Tạo một cảm giác
thuộc về và văn hóa hỗ trợ lẫn nhau
Trong nguồn mở, cũng
như trong ngữ cảnh đổi mới mở rộng lớn hơn, việc
khuyến khích những người sử dụng và các lập trình
viên tham gia với dự án là sống còn cho việc xây dựng
một cộng đống thịnh vượng. Việc xây dựng một sản
phẩm bền vững phần lớn phụ thuộc vào việc tôi rèn
một môi trường trong đó những người sử dụng và
những người phát triển chia sẻ một văn hóa hỗ trợ
lẫn nhau và một cảm giác tuân theo cùng một mục tiêu
chung. Các hiệu ứng của việc gieo hạt các ý tưởng
tương tự trong các cộng đồng nghiên cứu có thể là
đáng kể.
Tạo thuận lợi
cho giao tiếp
Một số nhà nghiên
cứu và nhà cung cấp dịch vụ nói các khó khăn trong việc
tạo một kênh có hiệu quả về giao tiếp giữa các bên
tham gia đóng góp HTNC. Một mặt, các lập trình viên phát
triển phần mềm và các nhà cung cấp dịch vụ thấy khó
để nắm bắt được các câu hỏi nghiên cứu hàn lâm
hoặc các yêu cầu xuất bản. Mặt khác, các nhà nghiên
cứu có thể không đánh giá đầy đủ những thách thức
về công nghệ mà việc triển khai các ứng dụng thể
hiện, hoặc các hệ thống phân tán là gì và làm thế
nào chúng có thể hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu.
Thiếu sự hiểu biết lẫn nhau, khó có khả năng là các
bên sẽ biết những gì được mong đợi từ mỗi bên đối
với nhau.
Như một nhà cung cấp
dịch vụ CNTT đưa ra: 'Nếu bạn mua một chiếc ô tô, bạn
biết đấy, hầu hết mọi người biết bạn có gì và
bạn nên tìm kiếm gì. Nhưng nếu bạn đến với chúng
tôi, “Chúng tôi có thể giúp gì cho bạn” luôn là mù
mờ, vì chúng tôi có thể làm rất nhiều, chúng tôi có
nhiều kinh nghiệm, nhưng bạn biết đấy, nếu nó từng
được viết xuống trong một cuốn sách mỏng thì nó có
thể là một dạng dài hơi, và thường thì họ không hiểu
tất cả những tiếng lóng mà chúng tôi có và tất cả
những điều đó '.
Một cách giải quyết
vấn đề này là bằng việc khuyến khích đối thoại
liên ngành: 'Có một nhu cầu cho nhiều người hơn ngồi
xuống với các nhà khoa học và làm việc với họ về
những ứng dụng đặc thù của họ […] cho những người
hiểu cả 2, những người mà có thể hiểu được các
ứng dụng và cũng hiểu được cách để xúc tác mạng
lưới cho họ'.
Việc loại bỏ các
rào cản có liên quan tới sử dụng tiếng lóng khoa học
hoặc kỹ thuật có thể giúp xây dựng một cảm giác
chia sẻ mục tiêu bao quát chung. Những người trả lời
đã nhấn mạnh nhu cầu để khuyến khích sử dụng ngôn
ngữ tiếng lóng tự do mà được hiểu như nhau đối với
các nhà nghiên cứu, các lập trình viên phần mềm, các
nhà cung cấp dịch vụ và những người sử dụng tiềm
năng khác. 'Một trong những điều là dạng gây chán nản
thường xuyên trong lĩnh vực đó là thuật ngữ được
giả định, nếu bạn biết tôi ngụ ý gì, thì có nhiều
thuật ngữ mà tới từ khoa học máy tính, chúng không bao
giờ được thiết kế cho phần còn lại của chúng ta,
những người thực sự làm khoa học […]'
Sự khác biệt về
tri thức
Một khía cạnh khác
của giao tiếp sai hiện hành trong những người tham gia
đóng góp có liên quan tới khỏng cách thế hệ giữa
những người được xã hội hóa khác nhau về công nghệ.
Các khả năng công nghệ tiến hóa nhanh hơn so với các cơ
quan có khả năng thích nghi. Điều này ngụ ý rằng tỷ
lệ thay đổi công nghệ được các nhà nghiên cứu trải
nghiệm trong các cơ quan đó có ảnh hưởng tới họ khác
nhau, tùy theo các khả năng công nghệ của họ. Hệ quả
là, các nhà quản lý CNTT của các trường đại học
thường thấy khó để thiết lập một nền tảng chung,
mặt bằng chung trong các viện trường của họ:
'Cái gì có trên con
đường chiến lược của chúng ta, cũng có thứ văn hóa
mà các ban của trường đại học có xu hướng được
các viện sỹ hàn lâm lâu năm hơn quản lý, những người
tất cả đều hồi cố về những ngày trước khi các máy
tính chiếm lĩnh thế giới, và vì thế nói với các sinh
viên nghiên cứu của họ và những người chuẩn bị làm
tiến sỹ của họ thực tế đang nói một thứ ngôn ngữ
khác so với việc nói cho các giáo sư'.
Đưa ra mức nhạy cảm
của chỉ dẫn về sử dụng các dịch vụ của HTNC có
thể giúp thúc đẩy một cảm giá thuoocj về một cộng
đồng đang chào đón. Hơn nữa, như một nhà cung cấp
dịch vụ điện toán có sức mạnh cao đã nói, sự khéo
xử và sự nhẫn nại là cần thết để không làm trệch
hướng những người áp dụng sớm:
'Chúng tôi biết rằng
một số người sử dụng [hệ thống X] tồi tệ, nhưng
khi chúng tôi thấy chúng tôi nói cho họ và nói, nhìn kìa,
bạn cần hiểu một chút nhiều hơn cách mà điều này
làm việc […] nếu bạn tái cấu trúc công việc của bạn
như thế này thì bạn sẽ có được lợi ích lớn hơn
nhiều […] Đây là một sức ép giữa việc nếu bạn
muốn đảm bảo rằng những người sử dụng của bạn
đã sử dụng nó tuyệt vời thì bạn có thể muốn nắm
giữ chúng suốt, và họ có thể thấy điều đó là hạn
chế không thể dung thứ và sẽ không sử dụng nó, vì
thế điều đó có thể là sự ngu ngốc'.
Người trung gian và
người môi giới
Đôi khi một bước
chủ động tích cực hơn là cần thiết cho việc xây dựng
cộng đồng. Việc có khả năng là trung gian giữa các
thành viện khác nhau của cộng đồng là quan trọng trong
ngữ cảnh này. Một nhà báo đã mô tả tình huống nơi
mà một đội nghiên cứu có thể cần sự truy cập đặc
biệt tới các cơ sở được Dịch vụ Lưới Quốc gia –
NGS (National Grid Service) cung cấp. Để có được sự truy
cập, họ có thể cần được khuyến cáo từ các nhà
nghiên cứu bạn bè đã biết dịch vụ đó rồi:
'Bạn biết đấy, có
thể khó để thuyết phục NGS trao cho bạn 700 GB […] để
thực sự có dữ liệu ở đó. Nên tôi nghĩ bạn phải
biết đúng người và dạng yêu cầu họ rất nhẹ nhàng,
bạn biết đấy, gửi một thư điện tử như ai đó biết
về những điều đó cho người của NGS, và nói vâng thực
sự điều này là […] một yêu cầu nghiêm túc, và họ
cần lượng dữ liệu này, và thực sự đó thực sự chỉ
là […] tạm thời cho họ nên họ có thể thực sự có
được dữ liệu ở đó'.
Những người trung
gian đó có một vai trò quan trọng trong việc tạo một
cảm giác là một phần của một cộng đồng có tính hỗ
trợ lẫn nhau. Như các tác giả báo cáo gợi ý, vai trò
của họ trong trường hợp này sẽ liên quan tới việc
quản lý những kỳ vọng của các nhà nghiên cứu (bằng
việc nhắc nhở họ rằng NGS không cung cấp lưu trữ dữ
liệu lâu dài). Cùng lúc, họ có thể cần tư vấn cho nhà
cung cấp dịch vụ rằng tài nguyên được yêu cầu là
một phần của yêu cầu nghiên cứu đích thực.
Khuyến khích sự
đóng góp, loại bỏ những rào cản của người sử dụng
Để tạo một môi
trường chào đón và 'muốn quay trở lại' thì điều cơ
bản phải khuyến khích sự đóng góp từ cả bên trong và
bên ngoài dự án và loại bỏ các rào cản có thể ngăn
trở sự tham gia của những người sử dụng trong cộng
đồng. Các dự án nguồn mở thành công làm rõ rằng tất
cả được chào đón để đóng góp theo cách riêng của
họ, từ việc viết mã và làm tài liệu cho tới việc
kiểm thử và đưa ra các ý kiến phản hồi trong các
phiên bản mới. Một thái độ chào đón tương tự đối
với sự đóng góp bên ngoài có khả năng cũng có lợi
cho các cộng đồng HTĐT.
Phổ biến sự
thành công
Báo cáo nhắc tới
tầm quan trọng của việc nhấn mạnh các tình huống nơi
mà sử dụng HTĐT đã cải thiện đáng kể qui trình
nghiên cứu. Các câu chuyện thành công đó có thể tạo
cảm hứng hoặc thúc đẩy các nhà nghiên cứu khác và
cần phải được phổ biến rộng rãi:
'Đã và đang thú vị
[…] khi mọi người bắt đầu đi ra ngoài và chỉ nói
những gì có khả năng làm được, chỉ là sự phấn
khích nhiều bao nhiêu bạn có thể tạo ra, nên tôi nghĩ
có những điều nơi mà bạn có thể chỉ ra rằng mọi
người đã làm thực sự cho khoa học mới bằng việc sử
dụng các công cụ và sử dụng sự ghen ghét đố kỵ
[...] dường như sẽ là làm việc hoàn toàn tốt trong các
khoản có được sự tham gia, và vì thế thực tế là,
chúng ta đang nói rằng các cộng đồng khác chỉ giống
như những điều, giống như các hệ thống mà các cộng
đồng sinh học đang bắt đầu rất quan tâm và tham gia
vào'.
Những khuyến khích
phù hợp có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc
tối đa hóa hiệu ứng của việc phổ biến các câu
chuyện thành công đó. Một số khuyến khích đó, báo cáo
gợi ý, cần tính tới sự Nghiên cứu Đánh giá Bài toán
- RAE (Research Assessment Exercise), khi điều này là yếu tố
động lực quan trọng cho các nhà nghiên cứu và các phòng
ban. Gợi ý này chứng thực một khuyến cáo sớm của báo
cáo Thế kỷ của Chiến lược Nghiên cứu Thông tin
(Century
of Information Research Strategy report): 'Các cơ quan cấp
vốn tạo ra giải thưởng trao và đánh giá các kết quả
đầu ra của họ, bao gồm một yếu tố của sự đóng
góp cho giáo dục trong lĩnh vực nghiên cứu'.
Khuyến khích sự
đóng góp
Bài học quan trọng
khác từ phát triển nguồn mở là sự đóng góp từ những
người sử dụng bên ngoài và các lập trình viên nên
được khuyến khích và tưởng thưởng. Hầu hết những
người sử dụng dự án nguồn mở mở là thụ động
trong các tương tác của họ với cộng đồng. Tuy nhiên,
khi họ nhận lấy các vai trò tích cực hơn, ví dụ bằng
việc báo cáo các lỗi, giúp những người sử dụng khác
hoặc viết tài liệu, thì các cộng đồng nguồn mở có
khả năng bền vững và quản lý tốt có được các cơ
chế cho việc khuyến khích và tưởng thưởng cho những
nỗ lực của họ. Trong nhiều trường hợp, họ được
chào truy cập bổ sung tới, hoặc kiểm soát đối với,
dự án. Việc giải thích tài liệu rõ ràng cách người
ta có thể chuyển từ người sử dụng thụ động sang
người đóng góp, sau đó sang người đóng góp cao cấp
với các quyền của người đề xuất, và cuối cùng sang
là thành viên ban lãnh đọ ra quyết định, sẽ diễn ra.
Điều này có nghĩa là mỗi người biết những gì phải
làm nếu họ muốn gia tăng vai trò và trách nhiệm của họ
trong dự án.
Các môi trường HTĐT,
bước đầu tiên từ người sử dụng tới người đóng
góp thường có liên quan tới việc đưa ra các ý kiến
phản hồi trong chức năng của sản phẩm đang được
phát triển. Họ có thể, ví dụ, báo cáo về một lỗi
hoặc thông báo một dịch vụ mà điều gì đó không làm
việc như nó đáng phải. Điều mấu chốt ở đây là để
chắc chắn rằng khi những người sử dụng quyết định
nhận lấy điều phiền toái để đưa ra ý kiến phản
hồi như vậy, thì con đường là cởi mở nhất có thể.
Việc thừa nhận những đóng góp ngay lập tức và việc
giải quyết các vấn đề theo một cách thức đúng lúc
là quan trọng ngang bằng cho sự tham gia của những người
sử dụng đó trong tương lai.
'Trong trường hợp
các khảo sát riêng rẽ, đôi khi có trường hợp rằng
tôi đã tải về một tệp và sau đó phát hiện ra có lẽ
có một lỗi bên trong tệp dữ liệu, hoặc thiếu quyền
ưu tiên hoặc một biến đặc biệt, hoặc một biến
thiếu trong tệp dữ liệu mà nó được tham chiếu tới
trong tài liệu, và ngẫu nhiên tôi đã báo cáo rằng dạng
ví dụ đó tới bàn trợ giúp, và chúng thường là, trong
thực tế khá nhiều khi, họ đã có khả năng quay trở
lại và đưa ra giải pháp hoàn toàn nhanh chóng, nên tôi
chúng là một dịch vụ rất hữu ích theo cách đó'.
Tạo ra cách cách
thức vào dễ dàng
Rào cản khác đối
với sự tham gia của người sử dụng có liên quan tới
sự thiếu hoặc tài liệu có cấu trúc tồi. Một nhà
nghiên cứu đã nhắc về những ý định lặp đi lặp lại
của ông để học cách sử dụng một công cụ của HTNC:
'Về cơ bản thì thông qua việc tìm kiếm các bản tin và
tìm kiếm các bài trình chiếu từng nằm rải rác đâu đó
trên các website khác nhau'.
Những người trả
lời khác cũng đã nhắc tới nhu cầu đối với các khả
năng huấn luyện có thể cung cấp cho họ với các kỹ
năng cần thiết cho việc sử dụng dịch vụ: 'Tôi có thể
thấy rằng có những điều mà chúng ta có thể có khả
năng sử dụng trong tương lai, nhưng trước hết chúng ta
sẽ phải làm việc như thế nào, nếu bạn biết tôi ngụ
ý gì? Có những dự án, ví dụ như OGSA-DAI, và OGSA-DAI có
một số tính năng mà tôi cáo thể thấy chúng có thể
hữu dụng nếu chúng ta đã có được các kỹ năng, hoặc
nếu chúng ta có được thời gian để thực sự có khả
năng đi đủ xa trong công nghệ để có khả năng thực sự
ứng dụng được nó một cách phù hợp'.
Một số nhà cung cấp
HTĐT nhận thức được về những vấn đề đó và cố
gắng giải quyết chúng, nhưng họ có quan tâm với các
chi phí tiềm tàng có liên quan. Một trong số họ đã gợi
ý rằng việc cung cấp tài liệu tuyệt vời có thể là
một cách để tránh được chi phí triển khai và cập
nhật các giải pháp huấn luyện:
'Nếu bạn muốn một
lợi ích rộng lớn hơn thì bạn có thể phải làm cho dễ
dàng hơn đối với họ để sử dụng, không chỉ tiếp
tục huấn luyện cho họ, vì bạn không phải chỉ cân
nhắc chi phí huấn luyện, mà còn chi phí đối với họ
không tham gia lâu dài với đồ của riêng họ vì họ đang
được huấn luyện để sử dụng điều này, và tất
nhiên HTĐT sẽ thay đổi một lần nữa và sau đó họ
phải được huấn luyện lại. Vì thế những gì bạn
muốn làm là làm cho nó thật dễ dàng cho họ để sử
dụng mà bạn không cần thiết phải huấn luyện'.
Tùy biến thích
nghi các công cụ cho các nhu cầu của cộng đồng
Bài học khác là
những người tham gia đóng góp của HTĐT có thể học
được từ các cộng đồng nguồn mở là tầm quan trọng
của việc thiết kế hoặc yêu cầu các hệ thống và
dịch vụ phù hợp với các nhu cầu cộng đồng của họ.
Điều đó sẽ giúp cho những người sử dụng hỏi các
câu hỏi nghiên cứu của họ và triển khai nghiên cứu
theo một cách thức hiệu quả và nhất quán. Cùng lúc,
chúng nên là dễ dàng để tùy biến thích nghi cho các nhu
cầu đặc thù của các đội nghiên cứu khác nhau.
Lôi cuốn người
sử dụng
Một trong những khía
cạnh được báo có phát hiện là sự chú ý nhiều hơn
đã có đối với việc phát triển công nghệ HTĐT so với
việc hiểu các khía cạnh xã hội có liên quan với sự
sử dụng của nó. Tác động là toàn bộ qui trình xây
dựng các hệ thống và dịch vụ đó có thể cần phải
được xem xét lại. Thay vì việc xây dựng các công cụ
được nghĩ là sẽ hữu dụng cho các cộng đồng nghiên
cứu, và việc vật lộn sau khi làm cho các nhà nghiên cứu
sử dụng chúng, một tiếp cận dễ nhận thấy hơn có
thể có liên quan tới các nhà nghiên cứu ngày trong qui
trình thiết kế và xây dựng chúng. Điều này có thể
đảm bảo rằng những gì đang được xây dựng hoàn toàn
phù hợp với các nhu cầu của họ.
Một vấn đề với
tiếp cận hiện hành được vài nhà nghiên cứu nghệ
thuật và loài người chú ý có liên quan tới bản thân
hệ biến hóa khoa học điện tử - KHĐT (e-Science), nó có
thể là không phù hợp cho việc hỗ trợ các dạng câu
hỏi thường được hỏi theo các nguyên tắc của chúng:
'Đang có khả năng để làm phù hợp một hệ biến hóa
KHĐT vào trong Nghệ thuật và Loài người là vấn đề
thay vì việc liệu chúng ta có thể sủ dụng được công
nghệ hay không'. Nói cách khác, các công cụ HTĐT có thể
không phải là nguyên tắc có tính tự nhiên, và sử dụng
của chúng trong một số dự án nghiên cứu có thể sửa
đổi các thực tiễn nghiên cứu được thiết lập và
gây tác động tiêu cực cho các kết quả nghiên cứu. Hệ
quả là, sự áp dụng của chúng của các nhà nghiên cứu
tương ứng có thể bị tổn thương.
'Có những rào cản
cơ bản cho việc sử dụng các công nghệ đối với Nghệ
thuật và Loài người, nhưng đó là để làm với nguyên
tắc […] hơn là [với] việc không hiểu công nghệ, không
có khả năng có được công nghệ. Đây là vấn đề của
những gì chúng ta có thể làm với các công nghệ mà
chúng là hữu dụng, là các câu hỏi về phương pháp
luận, và cũng […] về những gì Nghệ thuật và Loài
người, dạng nghiên cứu nào chúng ta đang làm?'
Con người hơn là
công nghệ
Việc
hiểu các mục tiêu của cộng đồng và việc chọn công
nghệ phù hợp là sống còn cho sự thành công của các dự
án nguồn mở. Trong một số môi trường nguồn mở, vấn
đề này đi vượt ra khỏi sự quản lý các công cụ dự
án và ảnh hưởng tới các qui trình đóng góp mã phần
mềm. 'Chăm sóc được cộng đồng và mã nguonf sẽ chăm
sóc được bản thân mình' là cách mà các thành viên của
Quỹ Phần mềm Apache đưa ra để ghi nhớ. Việc có các
qui trình phù hợp sẵn sàng cho việc xây dựng cộng đồng
tạo ra một cách thức bền vững của việc phát triển
bản thân phần mềm đó.
Trong
nhiều trường hợp, việc áp dụng các công nghệ phù hợp
các nhu cầu của cộng đồng có liên quan tới việc sử
dụng các công cụ của dự án. như các hệ thống hỗ
trợ phiên bản, các trình theo dõi lỗi, các danh sách thư,
và nhiều công cụ khác. Các cộng đồng nghiên cứu có
khả năng hưởng lợi bằng việc tuân theo các thực tiễn
phát triển mở giống như thế. Quả thực, hầu hết
các vấn đề được đặt ra từ những người trả lời
cho báo cáo có liên quan tới những khía cạnh thực tiễn
của việc tham gia với công nghệ. Ví dụ một trong số
họ đã nhắc tới những khó khăn trong việc tham gia với
các cấu hình khác nhau của cài đặt NGS, làm nảy sinh ra
nhu cầu biên dịch mã một cách lặp đi lặp lại:
'Nên các vấn đề mà
chúng tôi đã đối mặt từ quan điểm của người sử
dụng, tôi đoán vấn đề lớn nhất, là việc các máy
của các thư viện và các phiên bản của trình biên dịch
đã không được đồng bộ với nhau. nên nó không - các
thư viện MPI và hơn thế - không luôn có khả năng biên
dịch trong một máy, đặc biệt MPI có khả năng thực
thi, và sau đó lấy nó sang các máy NGS khác và chạy nó,
và điều này là một vấn đề đáng keerr vì nó có nghĩa
là […] trong đó bạn sử dụng nhiều máy tính mà bạn
phải đăng nhập vào mỗi lần khi tới lượt và biên
dịch mã của bạn, nó mất thời gian, và nhiều tài
nguyên của lưới hơn bạn có, mất nhiều thời gian hơn'.
Một cơ chế phù hợp
cho việc giữ các phiên bản phần mềm khác nhau được
đồng bộ và sống còn. Theo khía cạnh này, kinh nghiệm
phát triển mở của các đội phân tán làm việc trong các
phiên bản tuần tự đến sau của mã phần mềm có thể
là hữu dụng. Các giải pháp tương tự có thể được
nghĩ ra cho việc hợp lý hóa qui trình đồng bộ hóa các
nút NGS, ví dụ thế. Chìa khóa là khả năng phối hợp
mọi người và các qui trình ảnh hưởng tới hiệu năng
của các nút đó, hơn là sự cần thiết thiết kế lại
bản thân công nghệ.
Vấn đề khác được
nhắc tới trong mối quan hệ với NGS có liên quan tới mức
độ ở đó phần mềm HTNC cho phép những người sử dụng
phát triển các ứng dụng hoặc mở rộng trên đỉnh của
các phần mềm đang tồn tại.
'[…] những gì tôi
muốn làm là xây dựng các ứng dụng sử dụng NGS ở bên
dưới, và NGS có dạng giao diện sai tại thời điểm này,
vì thế là khó cho tôi để xây dựng các ứng dụng đó
[…] có lẽ là hữu dụng nếu giao diện đó là một dịch
vụ, tại thời điểm này nó là một sự đăng nhập, tôi
phải đăng nhập vào hệ thống và gõ các lệnh của
riêng tôi'.
Kết luận
Một
số bài học có liên quan tới cộng đồng phát triển mở
có thể giúp loại bỏ các rào cản cho sự tham gia của
người sử dụng với các công cụ và dịch vụ HTĐT. Các
nhà nghiên cứu có khả năng hơn để sử dụng các cơ sở
đó nếu họ cảm thấy rằng họ là một phần của một
văn hóa cộng tác và hỗ trợ lẫn nhau, nơi mà sự đóng
góp được khuyến khích và được tưởng thưởng từ
một giai đoạn sớm. Chúng cũng có khả năng hơn để
tham gia với các giải pháp công nghệ được tùy biến
thích nghi để phù hợp với các nhu cầu thực tế của
cộng đồng.
Một số vấn đề đó
cũng đã và đang được nhấn mạnh trong một nghiên cứu
mà OSS Watch được ủy quyền, nghiên cứu mức độ nhận
thức, thái độ đối với và sự hiểu biết của phát
triển mở với các cộng đồng đổi mới của JISC
(bản
dịch tiếng Việt).
Despite
the availability of an impressive range of online systems and
resources for researchers, a JISC-funded Community
Engagement Report has identified a number of barriers to their
adoption. These include competition for research funding, an
inability to share resources, and a lack of extended software
development support. Let’s take a closer look at some of these
barriers, and explore how experience from open development could be
used to alleviate or remove them.
The
most important lessons for e-Infrastructure projects:
Create
a sense of belonging and a culture of mutual support
This
can be done by facilitating
communication and acknowledging
difference.
Remove
user barriers
Make
sure you disseminate
success, encourage
contribution and create
easy ways in for new potential contributors.
Adapt
tools to community needs
Involve
your users and always put people
over technology.
In
the UK, e-Infrastructure consists of a combination of systems, tools
and services designed to foster new ways of conducting research and
improve cross-subject collaboration. In spite of the development of
an extremely well-populated list of such services and facilities,
researchers in the UK continue to show some reserve in using them
extensively. The main barriers to the use of these resources appear
to be social and organisational rather than technological. We suggest
that learning some lessons from open source development practice
could improve the current situation.
We
approach this topic in three documents: a general
discussion and two more detailed insights providing quotes from
recent interviews with UK researchers and service providers - one on
community lessons for research infrastructure and the other on
sustainability
lessons for research infrastructure. In this, the first of these
two documents, we highlight a number of community lessons that could
help to remove barriers to engagement with UK e-Infrastructure
systems and services.
In
open source, as well as the wider open innovation context,
encouraging users and developers to engage with the project is
crucial for building a thriving community. Building a sustainable
product largely depends on forging an environment in which users and
developers share a culture of mutual support and a sense of following
a common goal. The effects of seeding similar ideas in research
communities could be substantial.
A
number of researchers and service providers report difficulties in
creating an effective channel of communication between research
infrastructure stakeholders. On the one hand, software developers and
service providers find it difficult to grasp academic research
questions or publication requirements. On the other hand, researchers
may not fully appreciate the technical challenges that implementing
applications present, or what distributed systems are and how they
can support research activities. In the absence of mutual
understanding, it is unlikely that these parties will know what to
expect from each other.
As
one IT service provider put it: ‘If you buy a car, you know, most
people know what you get and what you should look for. But if you
come to us, “What can we do for you” is always vague, because we
can do quite a lot, we’ve got a lot of expertise, but you know, if
it was written down in a brochure it would be kind of a long-winded
one, and often they don’t understand all the jargon that we have
and all that sort of thing.’
One
way of addressing this issue is by encouraging cross-specialist
dialogue: ‘There is a need for more people to sit down with
scientists and work with them on their specific applications […]
people that understand both, people that can understand the
applications and also understand how to grid-enable them.’
Removing
the barriers associated with the use of technical or scientific
jargon could help to build a sense of sharing a common overarching
goal. Respondents emphasised the need to encourage the use of
jargon-free language that is understood equally by researchers,
software developers, service providers and other potential users.
‘One of the things that’s sort of continually frustrating in the
field is the assumed terminology, if you know what I mean, there’s
a lot of terminology that’s come over from computing science, which
was never designed for the rest of us who actually do the science
[…]’
Another
aspect of the current mis-communication among stakeholders concerns
the generational gap between users who are differently socialised in
terms of technology. Technical possibilities evolve faster than
institutions are able to adapt. This means that the rate of
technological change experienced by researchers in these institutions
affects them differently, according to their technological
capabilities. Consequently, university IT managers often find it
difficult to establish a common, level ground within their
institutions:
‘What
gets in the way of our strategy, there’s also the cultural thing
that the committees of the university tend to be run by the more
senior academics who all date back to the days before computers took
over the world, and so talking to their research students and their
junior post-docs is practically speaking a different language
compared with speaking to the professors.’
Providing
a sensible level of guidance on using research infrastructure
services can help to foster a sense of belonging to a welcoming
community. In addition, as one high-powered computing service
provider said, tact and patience are needed in order not to drive
away early adopters:
‘We
know that some people use [system X] badly, but when we find out we
talk to them and say, look, you need to understand a little bit more
how this works […] if you restructure your work like this you’ll
get a much bigger benefit […] It’s a tension between if you
wanted to guarantee that your users used it perfectly you’d have to
hand-hold them all the time, and they would find that
unbearably restrictive and wouldn’t
use it, so that would be stupid.’
Sometimes
a more proactive step is needed for building community. Being able to
mediate between different community members is important in this
respect. One respondent described a situation where a research team
may need special access to the facilities provided by the National
Grid Service (NGS). In order to gain access, they would need to be
recommended by fellow researchers already known to the service:
‘You
know, it can be hard to persuade the NGS to give you a 700 gigabyte
[…] to actually get the data there. So I think you have to know the
right people and sort of ask them very nicely to sort of, you know,
send an email as someone who knows about these things to the NGS
people, and say yes actually this is […] a serious request, and
they do need this amount of data, and actually it’s really only […]
temporarily for them so they can actually get the data on there.’
These
intermediaries have an important role in creating a sense of being
part of a mutually supportive community. As the report authors
suggest, their role in this case will involve managing the
researchers’ expectations (by reminding them that the NGS does not
provide long-term storage for data). At the same time, they would
need to advise the service provider that the requested resource is
part of a genuine research requirement.
In
order to create a welcoming and ‘want to come back’ environment
it is essential to encourage contribution from both inside and
outside the project and remove any barriers that could prevent users’
involvement in the community. Successful open source projects make it
clear that all are welcome to contribute in their own way, from
writing code and documentation to testing and giving feedback on new
releases. A similar welcoming attitude to external contribution is
likely to benefit e-Infrastructure communities too.
The
report mentions the importance of highlighting situations where the
use of e-Infrastructure has significantly improved the research
process. These success stories may inspire or motivate other
researchers and need to be widely disseminated:
‘It’s
been interesting […] when people start going out and about and just
saying what it is possible to do, just how much excitement you can
generate, so I think having stuff where you can show that people have
done really new science using those tools and using jealousy […] it
seems to be working quite well in terms of getting engagement, and so
the fact that, you know, we’re saying that other communities just
like things, like the systems biology communities are beginning to be
very keen to play and join in.’
Appropriate
incentives can play an important role in maximising the effect of
disseminating these success stories. Some of these incentives, the
report suggests, need to take the Research Assessment Exercise (RAE)
into account, as this is an important motivational factor for
researchers and departments. This suggestion endorses an earlier
recommendation by the Century
of Information Research Strategy report: ‘The funding bodies
should make the award of grants and the evaluation of their outputs
include a significant element of contribution to education in the
domain of the research.’
Another
important lesson from open source development is that contribution
from external users and developers should be encouraged and rewarded.
Most open source project users are passive in terms of their
interactions with the community. However, when they take on more
active roles, for example by reporting bugs, helping other users or
writing documentation, sustainable and well-run open source
communities have in place mechanisms for encouraging and rewarding
their efforts. In many instances, they are offered additional access
to, or control over, the project. Clear documentation explaining how
one can move from passive user to contributor, then to senior
contributor with commit rights, and eventually to decision-making
board member, will be in place. This means that everyone knows what
to do if they want to increase their role and responsibility in the
project.
In
e-Infrastructure environments, the first step from user to
contributor often involves providing feedback on the functionality of
the product being developed. They may, for example, report a bug or
notify a service that something is not working as it should. The key
thing here is to make sure that, when users decide to take the
trouble to provide such feedback, the path is as straightforward as
possible. Acknowledging contributions immediately and addressing
issues in a timely manner are equally important for the future
engagement of these users.
‘In
the case of individual surveys, there is sometimes the case that I
have downloaded a file and then found out perhaps an error within the
data file, or lack of priority on a particular variable, or a
variable missing within the data file that’s referred to in the
documentation, and occasionally I have reported that sort of example
to the help desk, and they’ve usually been, well in fact pretty
much every time, they’ve been able to get back and come up with the
solution quite rapidly, so I find them a very helpful service in that
respect.’
Another
barrier to user engagement concerns a lack of or poorly structured
documentation. One researcher mentioned his repeated attempts to
learn how to use a research infrastructure tool: ‘Essentially it
was through searching for handouts and searching for presentations
that were scattered about over various websites.’
Other
respondents also mentioned the need for training opportunities that
would provide them with the necessary skills for using the service:
‘I can see that there are things there which we probably
could be able to use in the future,
but first we’d have to work out how, if you know what I mean? There
are projects, for example like OGSA-DAI, and OGSA-DAI has some
features which I can see they would be useful if we had skills, or if
we had the time to actually be able to get far enough into the
technology to be able to actually utilize it properly.’
Some
e-Infrastructure providers are aware of these issues and try to
address them, but they are concerned with the potential costs
involved. One of them suggested that providing excellent
documentation could be a way of avoiding the cost of deploying and
updating training solutions:
‘If
you want a wider benefit then you would have to make it easier for
them to use, not just keep on training them, because you have to not
just consider the cost of training, but also the cost of them not
being engaged for a long time with their own stuff because they’re
being trained to use this, and of course e-infrastructure will change
again and then they have to be re-trained. So what you want to do is
make it so easy for them to use that you don’t need training.’
Another
lesson that e-Infrastructure stakeholders can learn from open source
communities is the importance of designing or requesting systems and
services that fit their community needs. These should help users ask
their research questions and carry out research in an efficient and
consistent manner. At the same time, they should be easy to adapt to
the specific needs of the various research teams.
One
of the main aspects revealed by the report is that more attention has
been paid to developing e-Infrastructure technology than to
understanding the social aspects associated with its use. The
implication is that the entire process of building these systems and
services may need to be reconsidered. Instead of building tools
thought to be useful to the research communities, and struggling
afterwards to make researchers use them, a more sensible approach
would be to involve researchers in the very process of designing and
building them. This would ensure that what is being built fully suits
their needs.
One
problem with the current approach flagged by several arts and
humanities researchers concerned the e-Science paradigm itself, which
may be inappropriate for supporting the types of questions usually
asked in their disciplines: ‘Being able to fit an e-Science
paradigm into Arts and Humanities is the problem rather than whether
we can use the technology.’ In other words, e-Infrastructure tools
may not be discipline-neutral, and their use in some research
projects may modify the established research practices and negatively
influence the research results. Consequently, their adoption by the
respective researchers may be compromised.
‘There
are fundamental barriers to using these technologies for the Arts and
Humanities, but that’s to do with the discipline […] rather than
[with] not understanding the technology, not being able to get the
technology. It’s a matter of what can we do with these technologies
which are useful, which are methodological questions, and also […]
about what is Arts and Humanities, what kind of research are we
doing?’
Understanding
the aims of the community and choosing technology accordingly is
crucial for the success of open source projects. In some open source
environments, this issue goes beyond the management of project tools
and affects the very processes of contributing software code. ‘Look
after the community and the code will look after itself’ is how
members of The Apache Software Foundation memorably put it. Having
appropriate processes in place for building the community creates a
sustainable way of developing the software itself.
In
many cases, adopting technologies that fit the needs of the community
involves using project tools, such as version support systems, bug
trackers, mailing lists, and so on. Research communities are likely
to benefit by following open development practices like these.
Indeed, most issues flagged by the report respondents concerned
practical aspects of engaging with technology. For instance, one of
them mentioned difficulties in engaging with different configurations
of the NGS nodes, which resulted in the need to compile code
repeatedly:
‘So
the problems we faced from the user’s point of view, I guess the
biggest problem, is that the machines in terms of libraries and
compiler versions aren’t kept in sync. So it’s not – MPI
libraries and so on – it’s not always possible to compile on one
machine, especially MPI executable, and then take it to another of
the NGS machines and run it, and this is a significant problem
because it means that […] where you use multiple machines you have
to log into each one in turn and compile your code, which takes time,
and the more grid resources you have, the more time that takes.’
A
proper mechanism for keeping different software versions in sync is
crucial. In this respect, the open development experience of
distributed teams working on subsequent versions of software code can
be useful. Similar solutions could be devised for streamlining the
process of synchronising the NGS nodes, for example. The key is the
ability to coordinate people and processes that affect the
performance of these nodes, rather than necessarily re-designing the
technology itself.
Another
issue mentioned in relation to the NGS concerns the degree to which
research infrastructure software allows users to develop applications
or extensions on top of existing ones.
’[…]
what I would like to do is build applications that use the NGS
underneath, and the NGS has the wrong kind of interface at the
moment, so it’s difficult for me to build those applications […]
it’d be useful if the interface was a service, at the moment it’s
a log-on, I have to log on to the system and type my own commands.’
Conclusion
A
number of open development community-related lessons could help to
remove barriers to user engagement with e-Infrastructure tools and
services. Researchers are more likely to use these facilities if they
feel that they are part of a culture of mutual support and
collaboration, where contribution is encouraged and rewarded from an
early stage. They are also more likely to engage with technological
solutions that are adapted to fit the real needs of the community.
Some
of these issues have also been highlighted in an OSS
Watch-commissioned study that investigated the level of awareness,
attitudes to and understanding of open development within JISC
Innovation communities.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.