Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Nguồn mở và hạ tầng nghiên cứu

Open source and research infrastructure
By Gabriel Hanganu, Published: 23 February 2010, Reviewed: 14 February 2012
Bài được đưa lên Internet ngày: 14/02/2012
Lời người dịch: Hạ tầng nghiên cứu cần được xây dựng với những kinh nghiệm từ mô hình phát triển của phần mềm nguồn mở dựa vào cộng đồng và tính bền vững, với những việc có thể cần phải thực hiện như: “Việc nhúng hạ tầng nghiên cứu kỹ thuật đang tồn tại vào trong một 'hạ tầng nhân lực' có thể giúp loại bỏ một số rào cản chính cho việc áp dụng các công cụ và dịch vụ đó cho các nhà nghiên cứu. Một số bài học về tính bền vững và cộng đồng phát triển mở có thể áp dụng được trong lĩnh vực này. Chúng bao gồm việc tạo ra một văn hóa hỗ trợ lẫn nhau, khuyến khích những đóng góp nội bộ và từ bên ngoài, áp dụng công nghệ cho những nhu cầu của cộng đồng, xây dựng một kế hoạch bền vững và không dựa hoàn toàn vào sự cấp vốn liên tục hoặc sự hỗ trợ phát triển từ trung ương”. Bao giờ Việt Nam có được hạ tầng nghiên cứu dựa vào mô hình phát triển của phần mềm nguồn mở nhỉ?
Nước Anh đặc trưng cho một tập hợp ấn tượng các hệ thống và dịch vụ trực tuyến nhằm vào việc giúp đỡ các nhà nghiên cứu phát triển các cách thức mới trong tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, có một vài sự dè dặt trong số các nhà nghiên cứu trong việc áp dụng các công nghệ đó cho tiềm năng đầy đủ của họ. Tài liệu này tranh luận rằng các vấn đề chính là về xã hội và tổ chức hơn là công nghệ, và gợi ý rằng một cách để cải thiện hiện trạng là nắm lấy kho tàng của một số bài học chính từ thực tiễn phát triển nguồn mở. Hai tài liệu so sánh mô tả chi tiết hơn các bài học quan trọng nhất về cộng đồng (bản dịch tiếng Việt) và tính bền vững (bản dịch tiếng Việt) phù hợp cho lĩnh vực hạ tầng nghiên cứu.
Hãy bắt đầu với một tổng quan về những phát hiện chính từ những nghiên cứu và các cuộc phỏng vấn gần đây với các nhà nghiên cứu và các nhà cung cấp dịch vụ trong khu vực hàn lâm.
Nền tảng hạ tầng nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nghiên cứu hàn lâm đã bị thách thức bằng việc mở rộng sự truy cập tới các tài nguyên trực tuyến và tiềm năng ngày một gia tăng đối với sự cộng tác phân tán trong các nhà nghiên cứu. Các thành viên của các cộng đồng nghiên cứu đó, được khung kỹ thuật hỗ trợ mà cho phép truy cập bất kể vị trí địa lý, bây giờ có thể chia sẻ, tổ chức thành liên đoàn và khai thác sức mạnh hợp tác của các cơ sở toàn cầu. Trong ngữ cảnh này, 'Nghiên cứu điện tử' (e-Research) có thể được xác định như là sự nghiên cứu được thực hiện trong các cộng đồng ảo xuyên khắp các khu vực hàn lâm và công nghiệp bằng việc sử dụng các cơ sở và dịch vụ trực tuyến được thiết kế một cách đặc biệt. Mạng này của các công cụ, các tài nguyên và dịch vụ cho phép các nhà nghiên cứu phân tán trên toàn cầu cộng tác trong việc tạo ra các kết quả nghiên cứu được biết tới như là Hạ tầng Điện tử (e-Infrastructure) nghiên cứu, hoặc đơn giản là Hạ tầng Điện tử (HTĐT).
Tại nước Anh, Hạ tầng Điện tử bao gồm một số các dự án, công cụ và dịch vụ được kết nối lỏng lẻo hoặc tách bạch nhau. Một số là chung về mức độ phạm vi và giải quyết các nhu cầu của các nhà nghiên cứu khác nhau. Những thứ khác hoàn toàn là đặc thù và phục vụ cho các nhóm nhỏ các chuyên gia. Trong cả 2 trường hợp, Hạ tầng Điện tử được thiết kế để thúc đẩy các cách thức mới tiến hành nghiên cứu và cải thiện sự cộng tác liên chủ đề. Điều này là tương tự với vai trò được giao cho Hạ tầng Điện tử ở mức châu Âu. Ví dụ, trong chiến lược nghiên cứu của Ủy ban châu Âu, Hạ tầng Điện tử được xem như một yếu tố chủ chốt của Lĩnh vực Nghiên cứu mới của châu Âu, và một công cụ quan trọng cho sự hợp tác khoa học toàn cầu. Hạ tầng Điện tử có nghĩa để cung cấp một môi trường đổi mới nơi mà các lợi ích đặc thù của các nhà khoa học được đáp ứng và các giải pháp liên chủ đề cho nghiên cứu phân tán được cung cấp.
Nhúng các hạ tầng nhân lực và kỹ thuật
Triển khai kỹ thuật của một Hạ tầng Điện tử (HTĐT) chỉ là một bước hướng tới việc thúc đẩy các cách thức mới tiến hành nghiên cứu. Một bước quan trọng ngang bằng là việc khuyến khích các nhà nghiên cứu sử dụng khung kỹ thuật này cho tiềm năng đầy đủ của mình. Đề cập tới vấn đề này, một số báo cáo lưu ý tới nhu cầu nhúng khung nghiên cứu kỹ thuật vào trong một 'hạt tầng nhân lực'. Trong ngữ cảnh này, 'hạ tầng nhân lực' tham chiếu tới những dàn xếp về xã hội và tổ chức xúc tác cho các công nghệ sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả. Ví dụ, báo cáo AVROSS, chỉ ra rằng sự thông hiểu của HTĐT thường là bị các vấn đề về nhân lực và tổ chức cản trở như thể nó là các vấn đề về kỹ thuật. Tập trung vào nước Anh, nó khuyến cáo sự đổi mới kỹ thuật tiếp tục trong Nghiên cứu Điện tử - NCĐT (e-Research). Cùng lúc, nó gợi ý, khung xã hội có thể cho phép các cộng đồng nghiên cứu khai thác tốt hơn các tài sản kỹ thuật đó nên được cải thiện.
Các báo cáo khác nhấn mạnh các vấn đề tương tự. Ví dụ, những phát hiện của nghiên cứu về Sự cam kết tham gia của các Cộng đồng NCĐT lưu ý nhu cầu chỉnh cho đúng trọng tâm hiện hành vào việc xây dựng các hệ thống công nghệ cao và các công cụ trong chi phí nắm bắt bối cảnh thực tế của việc sử dụng của chúng. Nghiên cứu gợi ý việc tạo ra các trung gian nghiên cứu, hay các 'chìa vặn cận biên', những người có thể hành động như những người tạo thuận lợi giữa các lĩnh vực nghiên cứu, và giữa nhân sự nghiên cứu và kỹ thuật. Điều này là tương tự như vai trò của cộng đồng trong phát triển phần mềm nguồn mở (PMNM), được xem là cơ bản cho mã nguồn phần mềm đang được xây dựng.
Vai trò sống còn mà sự phát triển của cộng đồng có thể đóng trong sự thành công của NCĐT đang bắt đầu được thừa nhận ở phạm vi toàn cầu. Ví dụ, Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ cấp vốn cho một chương trình về 'Các tổ chức Ảo như các Hệ thống Kỹ thuật Xã hội' (Virtual Organizations as Sociotechnical Systems). Ủy ban châu Âu đã có một bộ phận về Các cộng đồng Nghiên cứu Ảo như một phần của chương trình FP7. Tuy nhiên, tại nước Anh, việc xây dựng báo cáo gần đây về sự Cam kết tham gia của các Cộng đồng NCĐT gợi ý rằng các cơ quan cấp vốn của nước Anh cũng nên đưa vào các lời gọi cam kết tham gia của các cộng đồng trong tương lai, tương tự như các chương trình của Mỹ và EU.
Các bài học từ sự phát triển của nguồn mở
Xây dựng một 'hạ tầng nhân lực', như báo cáo gợi ý, không phải là công việc dễ dàng. Trên thực tế, nó có thể là thách thức hơn nhiều so với việc xây dựng và làm cho sẵn sàng dải các công cụ hạ tầng kỹ thuật hiện hành. Bản chất tự nhiên của con người là phức tạp hơn so với công nghệ và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố hiếm khi được các kỹ sư phần mềm tính tới. Tuy nhiên, các dự án cần không phải bắt đầu từ đầu trong qui trình này, như một số lượng khá kinh nghiệm trong việc xây dựng các cộng đồng xung quanh các hệ thống kỹ thuật đang tồn tại rồi trong lĩnh vực phát triển PMNM. Một số kinh nghiệm này áp dụng cho sự cộng tác dựa trên web nói chung; một số là đặc biệt phù hợp cho việc xây dựng và duy trì phần mềm. 2 phần tiếp sau nhấn mạnh tới làm thế nào các bài họ học được từ sự phát triển mở, đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng cộng đồng và tính bền vững, có thể giúp làm gia tăng sự hiểu biết về HTĐT của các nhà nghiên cứu nước Anh.
Cộng đồng
Trong nguồn mở, việc giúp cho những người sử dụng và các lập trình viên cam kết tham gia với dự án là sống còn cho việc xây dựng một cộng đồng thịnh vượng. Trên thực tế, việc xây dwungj một sản phẩm bền vững phần lớn phụ thuộc vào việc tôi rèn môi trường trong đó những người sử dụng và các lập trình viên chia sẻ một văn hóa hỗ trợ lẫn nhau và ý thức tuân theo mục đích chung. Ví dụ, họ có thể giúp vạch ra các vấn đề xuất phát từ sự thiếu hiểu biết giữa các bên tham gia đóng góp nghiên cứu. Họ cũng có thể giúp các nhà cung cấp dịch vụ xác định đúng mức chỉ dẫn cần thiết của các nhà nghiên cứu để cam kết tham gia với HTĐT, không đặt họ ra khỏi việc nắm giữ tay quá mức.
Để tạo ra một môi trường chào đón và 'muốn quay lại' như vậy, điều cơ bản phải khuyến khích sự đóng góp từ bên ngoài cho dự án. Để tạo thuận lợi cho điều này, các rào cản có thể ngăn trở sự truy cập của những người sử dụng tới cộng đồng phải được dỡ bỏ.
Các dự án nguồn mở thành công làm cho nó rõ ràng rằng tất cả được chào đón để làm cho sự đóng góp của họ theo cách thức của riêng họ. Những người không có các kỹ năng kỹ thuật cũng là quan trọng, vì họ có thể trở thành những người sử dụng trong tương lai. Họ cũng có thể hỗ trợ cho dự án bằng cách làm những nhiệm vụ khác. Chúng có thể bao gồm việc yêu cầu các câu hỏi có người trả lời mà có thể là hữu dụng cho những người mới tới, cho việc kiểm thử và đưa ra ý kiến phản hồi về những phiên bản mới, viết tài liệu và quảng bá sản phẩm cho những người bạn của họ. Trong ngữ cảnh hạ tầng nghiên cứu, những người sử dụng phi kỹ thuật có thể lan truyền các câu chuyện thành công về sử dụng HTĐT, hoặc giúp các nhà cung cấp dịch vụ tinh chỉnh các sản phẩm, tài liệu của họ và huấn luyện trả lời cho những phản hồi của người sử dụng.
Bài học khác mà Nghiên cứu Điện tử (NCĐT) có thể học được từ các cộng đồng nguồn mở là tầm quan trọng của việc áp dụng các công cụ phù hợp với các nhu cầu của cộng đồng. Liệu các công cụ hạ tầng được cung cấp có giúp được cho những người sủ dụng đặt ra các câu hỏi nghiên cứu của họ và triển khai được nghiên cứu theo một cách thức có hiệu quả và nhất quán hay không? Liệu các công cụ có dễ dàng áp dụng được cho các nhu cầu đặc thù của các nhà nghiên cứu hay không? Ví dụ, sự phát triển mở sử dụng các hệ thống kiểm soát phiên bản để đồng bộ hóa tư liệu được những người sử dụng phân tán truy cập. Điều này có thể là hữu dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ hạ tầng quản lý nhiều phiên bản của các nút Lưới (Grid), nó cũng cần được giữ đồng bộ. Thực tiễn phát triển mở hữu dụng khác là sử dụng các định dạng và tiêu chuẩn cho phép các lập trình viên bên ngoài dễ dàng tham gia được với phần mềm. Hơn nữa, điều cơ bản mà bản thân các nhà nghiên cứu có khả năng dễ dàng xây dựng trên các công cụ HTĐT, và các định dạng đầu ra của các công cụ đó là đủ đa dạng để cho phép họ chọn một công cụ phù hợp nhất cho các nhu cầu của họ. Các vấn đề đó được thảo luận chi tiết hơn trong một tài liệu riêng biệt (bản dịch tiếng Việt).
Tính bền vững
Khía cạnh chủ chốt của việc xây dựng các cộng đồng là việc khuyến khích sự cộng tác từ những ngày đầu của việc phát triển phần mềm. Theo châm ngôn nổi tiếng của nguồn mở 'phát hành sớm, phát hành thường xuyên', các lập trình viên xử trí để cho phép sự truy cập tự do tới mã nguồn từ ngày đầu tiên, bất chấp bản chất tự nhiên tạm thời của nó, và khuyến khích tất cả cùng đóng góp. Thái độ này là rất quan trọng, vì nó lôi cuốn sự phản hồi chính từ sớm và giúp xây dựng lòng tin trong dự án. Trong ngữ cảnh của HTĐT, việc thúc đẩy sự cộng tác từ một giai đoạn sớm có thể giúp thay thế văn hóa cạnh tranh vì cấp vốn, được Bài tập Đánh giá Nghiên cứu (Research Assessment Exercise) nhắc tới, với một văn hóa viết chung các đề xuất cấp vốn. Việc thúc đẩy một môi trường như vậy có thể khuyến khích các nhà nghiên cứu tự yêu cầu họ những gì họ có thể và không thể cộng tác. Ví dụ, nếu họ không phải lúc nào cũng có khả năng chia sẻ dữ liệu, thì họ có thể ít nhất cân nhắc việc chia sẻ các tài nguyên như vậy như sức mạnh của phần cứng hoặc tính toán.
Tính năng khác đóng góp cho thành công của một dự án nguồn mở là việc lên kế hoạch cho tính bền vững ngay từ đầu. Một khi các phiên bản sớm của dự án là sẵn sàng và những người sử dụng tiềm năng bắt đầu thể hiện sự quan tâm, thì điều sống còn là những thành viên mới có khả năng giúp bằng phần mềm hoặc các nhiệm vụ quản trị được mang tới sẵn sàng. Dù dường như không có khả năng là mọi người sẽ chỉ bắt đầu đóng góp trực tuyến mà không có gặp gỡ bất kỳ thành viên nào của đội, thì bằng chứng mạnh mẽ từ sự phát triển nguồn mở chỉ ra rằng các dự án minh bạch, thân thiện, được giải thích tốt và được quản lý tốt sẽ lôi cuốn cả những người sử dụng và các lập trình viên. Việc phác họa một kế hoạch bền vững và làm cho nó được bất kỳ ai cũng biết cũng mở rộng những cơ hội lôi cuốn những người đóng góp bên ngoài. Một kế hoạch chỉ ra rằng độ dự án đã cân nhắc những lựa chọn khác nhau và đã xác định một tập hợp các dòng doanh số tiềm năng sẽ truyền cảm hứng cho lòng tin có thể có thật của dự án tới thành công. Điều này cũng sẽ lôi cuốn các thành viên mới.
Đối với các nhà cung cấp dịch vụ HTĐT, điều này là một điểm quan trọng. Một kế hoạch bền vững được nghĩ thấu đáo có cân nhắc tới các con đường khác nhau cho sự phát triển tiếp - bao gồm cả khả năng sự cấp vốn trung ương sẽ hết - sẽ làm cho các nhà nghiên cứu nhiều khả năng hơn sẽ đầu tư thời gian và nỗ lực trong các dịch vụ đó.
Với ít sự phụ thuộc hơn vào cấp vốn liên tục, nó gửi đi một tín hiệu mạnh cho tất cả các bên tham gia đóng góp rằng thậm chí trong trường hợp suy thoái về tài chính, thì dịch vụ đó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại và những đóng góp của mọi người vẫn giữ là an toàn.
Việc tránh dựa vào sự hỗ trợ của các lập trình viên được cung cấp từ trung ương cũng là điều mấu chốt cho tính bền vững. Sự hỗ trợ ngắn hạn của các lập trình viên có rủi ro làm mờ đi nhu cầu xây dựng một môi trường cuốn hút cho những người đóng góp mới. Khi sự hỗ trợ của các lập trình viên bị rút đi, dự án không có một cơ chế thực hiện cho việc thúc đẩy và thu hút những đóng góp của các lập trình viên bên ngoài. Vì thế, hữu dụng khi có thể trong ngắn hạn để giúp các nhà nghiên cứu tạo ra các đội có thể sản xuất các sản phẩm tự tồn tại bền vững. Một phân tích chi tiết hơn về các vấn đề đó được cung cấp trong một tài liệu riêng rẽ.
Kết luận
Việc nhúng hạ tầng nghiên cứu kỹ thuật đang tồn tại vào trong một 'hạ tầng nhân lực' có thể giúp loại bỏ một số rào cản chính cho việc áp dụng các công cụ và dịch vụ đó cho các nhà nghiên cứu. Một số bài học về tính bền vững và cộng đồng phát triển mở có thể áp dụng được trong lĩnh vực này. Chúng bao gồm việc tạo ra một văn hóa hỗ trợ lẫn nhau, khuyến khích những đóng góp nội bộ và từ bên ngoài, áp dụng công nghệ cho những nhu cầu của cộng đồng, xây dựng một kế hoạch bền vững và không dựa hoàn toàn vào sự cấp vốn liên tục hoặc sự hỗ trợ phát triển từ trung ương.
The UK features an impressive set of online systems and services aimed at helping researchers develop new ways of conducting research. However, there is some reserve among researchers in adopting these technologies to their full potential. This document argues that the main issues are social and organisational rather than technological, and suggests that one way to improve the current situation is to take stock of some key lessons from open source development practice. Two companion documents describe in more detail the most important community and sustainability lessons relevant for the research infrastructure field.
Let’s start with an overview of the main findings from recent studies and interviews with researchers and service providers in the academic sector.
Research infrastructure background
In recent years, academic research has been challenged by expanding access to online resources and the increased potential for distributed collaboration among researchers. Members of these research communities, supported by a technical framework that allows access regardless of geographic location, can now share, federate and exploit the collective power of global facilities. In this context, ‘e-Research’ can be defined as research performed in virtual communities across the academic and industrial sectors using specially designed online facilities and services. This network of tools, resources and services that allow globally distributed researchers to collaborate on producing research outputs is known as research e-Infrastructure, or simply e-Infrastructure.
In the UK, e-Infrastructure consists of a number of loosely connected or separate projects, tools and services. Some are general in scope and address the needs of various researchers. Others are quite specific and serve small groups of specialists. In both cases, e-Infrastructure is designed to foster new ways of conducting research and improving cross-subject collaboration. This is similar to the role assigned to e-Infrastructure at a European level. In the European Commission’s research strategy, for example, e-Infrastructure is seen as a key element of the new European Research Area, and an important tool for global scientific cooperation. e-Infrastructure is meant to provide an innovation space where the specific interests of scientists are met and cross-subject solutions for distributed research are provided.
Embedding human and technical infrastructures
The technical deployment of a complex e-Infrastructure is only one step towards fostering new ways of conducting research. An equally important step is encouraging researchers to use this technical framework to its full potential. Addressing this issue, a number of reports mention the need to embed the technical research framework in a ‘human infrastructure’. In this context, ‘human infrastructure’ refers to the social and organisational arrangements enabling technologies to be used effectively. The AVROSS report, for example, states that uptake of e-Infrastructure is as often hindered by human and organisational issues as it is by technical ones. Focusing on the UK, it recommends continued technical innovation in e-Research. At the same time, it suggests, the social framework that would allow research communities to better exploit these technical assets should be improved.
Other reports highlight similar issues. For example, the findings of the e-Research Community Engagement study mention the need to correct the current focus on building hi-tech systems and tools at the cost of grasping the real context of their use. The study suggests creating research intermediaries, or ‘boundary spanners’, who can act as facilitators between research domains, and between research and technical staff. This is similar to the role of community in open source software development, considered essential for the software code that is being built.
The vital role community development can play in the success of e-Research is beginning to be acknowledged on a global scale. For instance, the US National Science Foundation funds a program on ‘Virtual Organizations as Sociotechnical Systems’. The European Commission had a strand on Virtual Research Communities as part of the FP7 programme. In the UK, however, building communities around products and processes related to e-Research is not yet seen as a priority. A recent e-Research Community Engagement report suggests that UK funding bodies should also include future community engagement calls, similar to the EU and US programs.
Lessons from open source development
Building a ‘human infrastructure’, as these reports suggest, is not an easy job. In fact, it can be more challenging than building and making available the current array of technical infrastructure tools. Human nature is more complex than technology and affected by a host of factors rarely taken into account by software engineers. However, projects need not start from scratch in this process, as a fair amount of experience in building communities around technical systems already exists in the area of open source software development. Some of this experience applies to web-based collaboration in general; some is particularly relevant to building and maintaining software. The next two sections highlight how lessons learned from open development, particularly in the areas of community building and sustainability, could help to increase the uptake of e-Infrastructure by UK researchers.
Community
In open source, helping users and developers to engage with the project is crucial for building a thriving community. In fact, building a sustainable product largely depends on forging an environment in which users and developers share a culture of mutual support and a sense of following a common goal. The effects of seeding similar ideas in research infrastructure communities could be substantial. For instance, they could help sort out problems stemming from a lack of understanding between research stakeholders. They could also help service providers to identify the right level of guidance needed by researchers to engage with e-Infrastructure, without putting them off by excessive hand-holding.
To create such a welcoming and ‘want to come back’ environment, it is essential to encourage contribution from outside the project. To facilitate this, barriers that could prevent users’ access to the community should be removed. Successful open source projects make it clear that all are welcome to make their contribution in their own way. Those who do not have technical skills are also important, as they may become future users. They can also support the project by doing other tasks. These could include simply asking questions that get answers that may be useful to newcomers, to testing and giving feedback on new releases, writing documentation and promoting the product to their friends. In the research infrastructure context, non-technical users can spread success stories about the use of e-Infrastructure, or help service providers refine their products, documentation and training in response to user feedback.
Another lesson that e-Research can learn from open source communities is the importance of adapting tools to fit community needs. Do the provided infrastructure tools help users ask their research questions and carry out research in an efficient and consistent manner? Are these tools easy to adapt to the specific needs of the researchers? For instance, open development uses version control systems to synchronise material accessed by distributed users. This could be useful to infrastructure service providers who manage multiple versions of Grid nodes, which also need to be kept in sync. Another useful open development practice is the use of formats and standards that allow external developers to easily engage with the software. Also, it is essential that the researchers themselves are able to easily build on e-Infrastructure tools, and the output formats of these tools are diverse enough to allow them to choose one that best suits their needs. These issues are discussed in more detail in a separate document.
Sustainability
A key aspect of building open source communities is encouraging collaboration from the earliest days of developing the software. In line with the famous open source dictum ‘release early, release often’, developers are supposed to allow free access to the code from day one, despite its tentative nature, and to encourage all to contribute. This attitude is very important, as it attracts key early feedback and helps build confidence in the project. In the e-Infrastructure context, fostering collaboration from an early stage could help replace the culture of competing for funding, prompted by the Research Assessment Exercise, with a culture of jointly writing funding proposals. Promoting such an environment may encourage researchers to ask themselves what they can and cannot collaborate upon. For instance, if they are not always able to share data, they could at least consider sharing such resources as hardware or computing power.
Another feature that contributes to the success of an open source project is planning for sustainability from the beginning. Once the early versions of the project are available and potential users start showing an interest, it is critical that new members able to help with software or administrative tasks are brought on board. Although it may seem unlikely that people will just start contributing online without having met any of the team members, strong evidence from open source development shows that transparent, friendly, well-explained and well-managed projects attract both users and developers. Drafting a sustainability plan and making it known to everybody also expands the chances of attracting external contributions. A plan that shows that the project team has considered various options and identified a set of potential revenue streams will inspire confidence in the project’s likelihood to succeed. This will also attract new members.
For e-Infrastructure service providers, this is an important point. A well-thought-out sustainability plan that considers various paths for further development - including the possibility that central funding will dry up - will make researchers more likely to invest time and effort in these services. By being less dependent on continuation funding, one sends a strong signal to all stakeholders that even in the event of a financial downturn, the service will continue to exist and people’s contributions will remain safe.
Avoiding reliance on centrally provided developer support is also key to sustainability. Short-term developer support runs the risk of obscuring the need to build an environment attractive to new contributors. When developer support is withdrawn, the project does not have a mechanism in place for encouraging and absorbing external developer contributions. So, useful as it may be in the short term to help researchers produce project outputs, this support model provides little benefit in the long term, as it fails to create teams that can produce self-sustainable products. A more detailed analysis of these issues is provided in a separate document.
Conclusion
Embedding the existing technical research infrastructure in a ‘human infrastructure’ could help remove some of the main barriers to adopting these tools and services by researchers. A number of open development community and sustainability lessons could be applied in this area. These include creating a culture of mutual support, encouraging internal and external contributions, adapting technology to community needs, building a sustainability plan, and not relying entirely on continuation funding or central development support.
Dịch: Lê Trung Nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.