Software
Patents
By Rowan Wilson,
Published: 13 April 2005, Reviewed: 16 April 2012
Bài được đưa lên
Internet ngày: 16/04/2012
Lời
người dịch: Cuộc chiến
về bằng sáng chế tại châu Âu, kể từ năm 1978 khi Văn
phòng Bằng sáng chế châu Âu ra đời, cho tới nay vẫn
tiếp diễn và vẫn là bất phân thắng bại. Nghị viện
châu Âu vẫn không phê chuẩn được Chỉ thị bằng sáng
chế với nội dung công nhận bằng sáng chế về phần
mềm, mặc dù từ đó tới nay, khoảng 30.000 bằng sáng
chế phần mềm của châu Âu đã được phát hành trong
vòng 20 năm qua theo cách “lách luật”.
Bằng sáng chế là
gì?
Các nhà sáng tạo đệ
đơn xin chính phủ của họ quyền sở hữu các ý tưởng
trong các sáng tạo của họ. Quyền này được biết tới
như là một bằng sáng chế. Không có một bằng sáng chế,
bất kỳ ai khác cũng có thể triển khai sáng chế của
họ. Với một bằng sáng chế, người sáng tạo hưởng
thụ một giai đoạn trong đó họ sở hữu ý tưởng đằng
sau sáng tạo của họ, và có thể ngăn chặn những người
khác không cho sử dụng nó. Họ cũng có thể cho phép
những người khác sử dụng các ý tưởng của họ có
hoặc không có phí.
Để có được một
bằng sáng chế, một nhà sáng tạo phải mô tả sáng tạo
của họ và bằng cách làm thế thể hiện:
- nó là mới
- liên quan tới một bước có tính sáng tạo - nghĩa là không chỉ một sự tiến bộ mà có thể rõ ràng đối với bất kỳ ai đã có tri thức tốt về lĩnh vực đó, và
- nó có thể được sử dụng như một phần của một qui trình công nghiệp - nghĩa là bất kỳ ứng dụng thực tế nào bên ngoài các môi trường thuần túy trong lĩnh vực nghệ thuật hoặc trí tuệ.
Nếu sáng tạo đó
đáp ứng được tất cả các chỉ tiêu đó, thì người
sáng tạo có thể nhận được một bằng sáng chế để
đổi lại một phí thường niên. Như là kết quả của
bằng sáng chế được trao, mô tả của sáng tạo đó
được làm cho công khai. Quyền của bằng sáng chế sẽ
hết hiệu lực dần sau một giai đoạn thời gian nhất
định được chính phủ thiết lập, và có thể được
phép để hết hiệu lực trước đó nếu người sáng tạo
mong muốn dừng trả phí. Một khi một bằng sáng chế đã
hết hiệu lực, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng các ý
tưởng gắn với sáng tạo đó. Cơ quan của các bằng
sáng chế đã hết hiệu lực đưa ra một nguồn có giá
trị cho tất cả những ai muốn làm việc về các giải
pháp đối với các vấn đề công nghệ và công nghiệp.
Những ý kiến mạnh
Các ý kiến mạnh áp
đảo cả 2 bên lý lẽ liên quan tới nhu cầu cho một sự
chấp nhận rộng lớn hơn các bằng sáng chế phần mềm.
Nhiều người sẽ nói với bạn rằng để cho những doanh
nghiệp sáng tạo nhỏ sống sót thì phải là một biện
pháp cho họ để bảo vệ các ý tưởng mà họ đặt vào
phần mềm đổi mới khỏi các đối thủ cạnh tranh vô
lương tâm. Nhiều người khác sẽ nói với bạn rằng
việc cho phép dạng bảo vệ này sẽ làm cho sự phát
triển phần mềm độc quyền giữ lại đối với các tay
chơi lớn của nền công nghiệp, những người có thể sử
dụng các hồ sơ khổng lồ các bằng sáng chế của họ
để bóp nghẹt sự cạnh tranh đối với các doanh nghiệp
nhỏ, đổi mới.
Trong môi trường giáo
dục, và trong khu vực nhà nước nói chung, có một quan
điểm được giữ rộng rãi rằng bằng sáng chế phần
mềm có thể cản trở tính tương hợp và sự truy cập
tới các dữ liệu do nhà nước cấp vốn, cho phép các
nhà cung cấp ứng dụng sở hữu độc quyền giữ các
tiêu chuẩn dữ liệu đóng lại và độc quyền. Mặt khác
của lý lẽ đó, nhiều người chỉ ra rằng các viện
trường giáo dục cao học có thể hưởng lợi lớn từ
khả năng thương mại hóa những đổi mới của họ trong
phần mềm theo cách y hệt như họ hiện đang làm trong
nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác.
Vậy đâu là điều
đúng?
Câu chuyện cho tới
nay
Ngược về năm 1973
Công ước Bằng sáng chế châu Âu đã có ý định tiêu
chuẩn hóa sự đối xử các sáng tạo khắp Cộng đồng
châu Âu (EC). Cũng đưa ra các tiêu chí cho khả năng cấp
bằng sáng chế được nêu ở trên (mới, có tính sáng
tạo, ứng dụng công nghiệp) Công ước đã loại trừ
các dạng sáng tạo nhất định khỏi việc được cấp
bằng sáng chế. Điều 52 của Công ước loại trừ:
- những phát hiện, lý thuyết khoa học và các phương pháp toán học;
- các sáng tạo thẩm mỹ học
- các sơ đồ, qui tắc và phương pháp cho việc thực thi các hành động trí tuệ, việc chơi các trò chơi hoặc kinh doanh, và các chương trình cho máy tính
- các trình diễn thông tin
Cũng như các phát
hiện loại trừ ở trên, các kỹ thuật trị liệu hoặc
phẫu thuật thường được chấp nhận như là không có
khả năng cấp bằng sáng chế. Vào năm 1978, Văn phòng
Bằng sáng chế châu Âu (EPO) đã được thiết lập để
tăng cường sự hợp tác của các nước châu Âu trong bảo
vệ các sáng tạo.
Tất nhiên, qua các
năm kế tiếp, máy tính đã trở nên khắp mọi nơi, và
nền công nghiệp châu Âu đã trở nên lo lắng rằng họ
có thể không bảo vệ đầu tư nghiên cứu của họ nếu
nó được găm vào sự phát triển phần mềm. EPO đã bắt
đầu giải thích những loại trừ của năm 1973 mềm dẻo
hơn trong câu trả lời cho áp lực này từ nền công
nghiệp, và bắt đầu trao các bằng sáng chế cho những
gì từng là các chương trình máy tính cơ bản bằng việc
cho phép các yêu sách cho các qui trình mà các máy tính
được lập trình sử dụng.
Trong khi đó tại
Mỹ
Vị thế của Mỹ về
khả năng trao các bằng sáng chế phần mềm từng luôn là
dễ dãi hơn. Phần mềm từng chưa bao giờ bị loại trừ,
và vì thế đã không bao giờ đòi hỏi trình diễn một
hiệu ứng kỹ thuật vượt ra khỏi hoạt động
tiêu chuẩn của một chương trình phần mềm để định
tính cho sự cân nhắc khả năng trao bằng sáng chế. Tất
cả điều đó đã được yêu cầu cho một chương trình
sẽ được cấp bằng sáng chế là nó tạo ra một kết
quả hữu dụng, cụ thể và hữu hình sờ mó được.
Yêu cầu này ban đầu đã được giải thích ngụ ý rằng
hoạt động của chương trình phải ảnh hưởng tới thế
giới vật lý theo cách nào đó - như ví dụ một chương
trình kiểm soát đối với một máy công nghiệp. Tuy nhiên
ngày càng gia tăng sự giải thích về hữu dụng, cụ
thể và hữu hình sờ mó được đã được kéo ra để
bao gồm các hiệu ứng mà đã được bản địa hóa cho
bản thân máy tính. Phần mềm mà đã sử dụng một
phương pháp tốt hơn về quản lý bộ nhớ hoặc hoàn
thành một giao dịch trơn tru hơn cũng đã được xem xét
để nằm trong phạm vi được cấp bằng sáng chế. Điều
này đã dẫn tới một số lượng lớn cực kỳ các bằng
sáng chế phần mềm đang được trao tại Mỹ. Tới lượt
nó, một số là rởm, đã làm cho các doanh nghiệp làm
phần mềm mà không vi phạm bất kỳ bằng sáng chế nào
quả thực rất khó khăn.
Vicom và IBM
Trong năm 1987 một
công ty là Vicom đã đệ đơn xin một bằng sáng chế với
EPO về một quai trình toán học thể hiện trong một
chương trình máy tính xử lý các ảnh số. Ban đầu yêu
sách của họ đã bị từ chối, khi Công ước Bằng sáng
chế của châu Âu đã không cho phép chương trình phần
mềm của họ là một sáng chế ở 2 khía cạnh riêng biệt
- nó từng là một chương trình phần mềm và nó từng là
một phương pháp toán học trọn vẹn. Tuy nhiên, về lời
thỉnh cầu, EPO đã cho phép yêu sách đó. Lý do của họ
rằng:
- dù các phương pháp toán học không thể được cấp bằng sáng chế, thì những biểu hiện kỹ thuật của chúng có thể là
- phần mềm triển khai một biểu hiện kỹ thuật của một phương pháp toán học (hoặc quả thực bất kỳ phần mềm nào) nên được bảo vệ nếu nó thực hiện một sự đóng góp kỹ thuật cho sự phát triển chung mức cao nhất trong lĩnh vực nghiệp vụ nó đang hiện diện.
Đơn giản, EPO đã
thấy rằng thực tế là một triển khai của một sáng
tạo có thể là trng phần mềm hơn là trong phần cứng
phải không được không cho phép nó được bảo luật
bằng sáng chế bảo vệ. Nếu nó làm điều gì đó mới
và hữu dụng (làm một đóng góp kỹ thuật) mà chỉ một
mình nó là yếu tố quyết định. Trích ra đây sự phán
xử:
Nói chung, một sáng
tạo có thể có khả năng được cấp bằng sáng chế phù
hợp với các tiêu chí về khả năng được cấp bằng
sáng chế theo qui ước không nên bị loại trừ khỏi sự
bảo vệ của chỉ yếu tố rằng đối với sự triển
khai của nó thì các biện pháp kỹ thuật hiện đại ở
dạng của một chương trình máy tính sẽ được sử
dụng. Điều quyết định là sự đóng góp kỹ thuật nào
sáng tạo đó được định nghĩa trong yêu sách khi được
cân nhắc như một tổng thể thực hiện được cho nghệ
thuật được biết.
Quyết định này đã
làm cho có khả năng đối với một yêu sách bằng sáng
chế được phát biểu thận trọng tạo thành những gì
là một bằng sáng chế phần mềm một cách có hiệu lực.
bằng sáng chế đã được trao cho hệ thống máy tính
khi được lập trình thay vì chỉ là một chương
trình. Vì thế việc một cá nhân sản xuất một mẩu
phần mềm có thể vi phạm bằng sáng chế khi nó chạy
trên một máy tính từng không vi phạm về mặt kỹ thuật
bằng sáng chế đó. Cuối cùng vào năm 1998 EPO đã rà
soát lại tiếp cận này (để trả lời cho một yêu cầu
bằng sáng chế của IBM) và đã công bố rằng trong tương
lai bản thân phần mềm có thể được cấp bằng sáng
chế miễn là nó thể hiện được một hiệu ứng kỹ
thuật.
Sự phân kỳ
Vào
cuối những năm 90, EPO đã mở con đường cho phần mềm
nhận tình trạng được cấp bằng sáng chế. Trong 20 năm
qua, EPO đã trao hơn 30.000 bằng sáng chế cho những sáng
tạo về phần mềm mà thỏa mãn các tiêu chí của họ về
sản xuấ ra một sự đóng góp kỹ thuật. Bất chấp thực
tế này đã có ít kiện tụng tại các Tòa án châu Âu
ủng hộ các bằng sáng chế đó, và không hoàn toàn rõ
ràng vì sao điều này lại như vậy. Đúng là chính sách
về khả năng cấp bằng sáng chế của phần mềm đã
phân kỳ xuyên khắp EU, với các chế dộ bằng sáng chế
quốc gia nắm lấy sự chú ý nhiều hơn hoặc ít hơn sự
giải thích lại Công ước 1973 mà EPO đã tham gia vào.
Điều này tới lượt nó đã dẫn tới sự không chắc
chắn về sự tráng kiện và khả năng ép thi hành rộng
khắp EU của các bằng sáng chế bao gồm phần mềm mà
được EPO và các văn phòng bằng sáng chế các quốc gia
trao. Rõ ràng có lẽ ưu tiên hơn đối với tình trạng sẽ
được làm rõ.
Trong năm 2002, EC đã
phác thảo một Chỉ thị châu Âu về Khả năng trao bằng
sáng chế đối với các Sáng tạo được Máy tính Triển
khai (Directive on the Patentability of Computer-Implemented
Inventions). Điều này đã có ý định để tiêu chuẩn hóa
cách mà các chính phủ quốc gia làm việc với các bằng
sáng chế phần mềm, bằng việc ép họ xây dựng các
tính năng nhất định trong các chế độ bằng sáng chế
của họ. Nó cũng đã có ý định hài hòa hóa các chính
sách về bằng sáng chế của cá nhà nước châu Âu với
các yêu cầu của hiệp định TRIPS của Tổ chức Thương
mại Thế giới, bản thân nó đã được hỗ trợ để
tạo ra một sự đồng ý toàn cầu về các mà các quyền
sở hữu trí tuệ nên được ép tuân thủ.
Vậy điều đó đã
ổn chưa...?
Không may Chỉ thị đó
đã không làm bất kỳ điều gì ngoài để hài hòa. Đối
với những người mới bắt đầu, nhiều người đã cảm
thấy rằng những giải thích lại đối với những loại
trừ của EPC năm 1973 không bao giờ nên xảy ra cả, và đã
không đồng ý với ý định của Chỉ thị làm cho những
giải thích lại đó thành chính thức. Nhiều người đã
sợ rằng Chỉ thị có thể bắt đầu một qui trình có
thể dẫn tới một kiểu Mỹ đối với sự xem xét các
bằng sáng chế, dễ dàng với các bằng sáng chế phần
mềm có thể giành được và ít phạm vi cho việc tranh
đấu với các bằng sáng chế tồi.
Trong
tâm của nhiều trong số hầu hết sự phản đối mạnh
mẽ đối với các bằng sáng chế phần mềm là lòng tin
rằng phần mềm máy tính không chỉ là một miền khác
của lĩnh vực kỹ thuật, giống như việc khai thác hoặc
làm mũ hoặc nông nghiệp. Phần mềm, lòng tin đó viện
lý, là một sự mã hóa các qui trình toán học, và như
vậy xứng đáng chỗ của nó cùng với các thuật toán và
các phương pháp toán học nằm trong sự loại trừ của
Công ước Bằng sáng chế của châu Âu. Việc cho phép các
bằng sáng chế sẽ được trao, những người phản đối
tin tưởng, có thể là hầu như y hệt như việc cho phép
quyền sở hữu của các thủ tục toán học. Một số nhà
phê bình các bằng sáng chế phần mềm đã đề xuất
rằng lĩnh vực phần mềm nên được nghĩ về tương tự
như các lĩnh vực toán học và logic học - một sự trừu
tượng của các vấn đề của thế giới thực, không
phải một chủng loại khác biệt của chúng.
Ngoài lý lẽ hình
thức logic đối với ứng xử đặc biệc của phần mềm,
cũng còn có nhiều quan ngại thực tế nữa. Có một cơ
quan lớn thực tiễn chung trên thế giới phát triển phần
mềm, và kinh nghiệm của Mỹ đã chỉ ra rằng có thể là
khó cho các nhà chức trách trao bằng sáng chế để phán
xét đúng tính mới lạ đối với nền tảng chung khổng
lồ về tri thức này. Các thành viên
của cộng đồng nguồn mở đặc biệt có xu hướng cảm
thấy rằng các bằng sáng chế phần mềm sẽ cho phép một
sự đóng lại dần dần những cái chung này, và vì thế
một sự hạn chế ngặt nghèo khả năng của thế giới
nguồn mở sản sinh ra các phần mềm không vi phạm.
Những người đề
xướng Chỉ thị đã vẫn giữ sự nhất quán về sự
đóng góp kỹ thuật đang được thể hiện trong một bằng
sáng chế trong tương lai sẽ lọc ra tất cả các ứng
viên không xứng đáng hoặc không mới lạ. Họ cũng chỉ
ra rằng việc tiêu chuẩn hóa luật bằng sáng chế xuyên
khắp châu Âu là một mục tiêu quan trọng và cấp thiết,
và rằng thực tế mà nói cách duy nhất mục tiên này có
thể đạt được là để tiêu chuẩn hóa về thứ gì đó
gần với tình trạng ban đầu. Bất kỳ thứ gì khác là
rõ ràng để kết thúc việc vô hiệu hóa các bằng sáng
chế đã được trao, và điều này, còn gây tranh cãi, là
không mong muốn từ cả quan điểm đạo đức và tính
quan liêu.
Việc vận động hành
lang mạnh mẽ của những người chống đối sự tự do
của chế độ bằng sáng chế phần mềm tại châu Âu đã
làm cho Chỉ thị liên tục bị Nghị viện châu Âu từ
chối. Ủy ban các Bộ trưởng tiếp tục thúc đẩy sự
áp dụng nó. Lịch sử của các cuộc chiến đó là phức
tạp và có liên quan. Để tóm tắt, những năm đã qua và
nhiều việc vận động hành lang được tập trung từ cả
2 phía của cuộc tranh cãi đã tạo ra sự khóa cứng và
không có sự thay đổi thực tế nào đối với diễn tả
của Chỉ thị. Các nhóm chống bằng sáng chế đã tự
chỉ ra cho họ là cực kỳ hiệu quả trong việc vận động
ý kiến và ngăn chặn sự đối lập được cấp vốn
tốt. Vẫn còn được nhìn thấy nếu, thực tế, học có
thể giữ sự vận động hành lang của những người ủng
hộ bằng sáng chế tới một trận vĩnh viễn không bao
giờ dứt.
Những diễn biến
tiếp tục
Vào tháng 03/2008, phần
mềm Symbian, một nhà lập trình hệ điều hành điện
thoại di động, đã xoay xở để lật lại một quyết
định của nước Anh từ chối một bằng sáng chế cho
một sáng tạo phần mềm. Văn phòng Sở hữu Trí tuệ đã
đánh giá khả năng có thể cấp bằng sáng chế của phần
mềm bằng việc sử dụng một cuộc kiểm thử 4 bước
(xuất xứ từ phán quyết trong vụ kiện đệ trình giữa
Telco và Macrossan) được thiết kế để thiết lập nếu
một mẩu phần mềm đã có một 'hiệu ứng kỹ thuật'
có khả năng nhận ra được bên ngoài máy tính dựa vào
đó nó chạy. Nếu một nỗ lực như vậy là hiện diện,
thì theo sự kiểm thử, phần mềm có thể được xem như
là hợp pháp để bảo vệ bằng sáng chế. Đơn xin của
Symbian đã 'thất bại' trong cuộc kiểm thử và đã bị
từ chối trên cơ sở đó. Tiếp tục kháng án, Symbian đã
củng cố rằng - ít nhất tại nước Anh - phần mềm có
thể hưởng sự bảo vệ bằng sáng chế thậm chí nếu
các hiệu ứng của nó hoàn toàn bị giới hạn cho việc
cải thiện hoạt động của máy tính nó chạy trên đó.
Điều này đã mở ra một cách có hiệu quả dải phần
mềm có khả năng được cấp bằng sáng chế tại nước
Anh.
Các bằng sáng chế
và cách mà chúng tác động tới sự phát triển nguồn mở
là một chủ đề quan trọng mà phải được cân nhắc
khi áp dụng một giấy phép nguồn mở. Các chi tiết về
những tương tác giữa các bằng sáng chế và các giấy
phép phần mềm nguồn mở có thể thấy trong lưu
ý ngắn gọn về các bằng sáng chế của bạn và phần
mềm tự do nguồn mở (bản
dịch tiếng Việt).
What
is a patent?
Inventors
can apply to their government for the right to own the ideas in their
inventions. This right is known as a patent. Without a patent, anyone
else can implement their invention. With a patent, the inventor
enjoys a period during which they own the idea behind their
invention, and can prevent others from employing it. They can also
allow others to use their ideas for a fee or at no cost.
To
get a patent, an inventor must describe their invention and in doing
so demonstrate that
- it is new
- involves an inventive step - meaning that it is not merely a progression that would be obvious to anyone who had good knowledge of the field, and
- it can be used as part of an industrial process - meaning any practical application outside the spheres of purely intellectual or artistic endeavour.
If
the invention meets all these criteria, then the inventor can receive
a patent in exchange for a yearly fee. As a result of the patent
being granted, the description of the invention is made public. The
patent right will lapse after a certain period set by the government,
and can be allowed to lapse before that if the inventor wishes to
stop paying the fees. Once a patent has lapsed, anyone can employ the
ideas that are embodied by the invention. The body of lapsed patents
provides a valuable resource for all who wish to work on
technological and industrial solutions to problems.
Strong
opinions dominate both sides of the argument concerning the need for
a wider acceptance of software patents. Many people will tell you
that in order for small innovative businesses to survive there must
be a means for them to protect the ideas they put into innovative
software from unscrupulous competitors. Many other people will tell
you that allowing this kind of protection will make
software development the exclusive preserve of the industry’s big
players who can use their vast portfolios of patents to stifle
competition from small, innovative businesses.
In
the sphere of education, and in the public sector in general, there
is a widely-held view that software patents may hinder
interoperability and access to publicly-funded data, allowing
proprietary application vendors to keep data standards closed and
exclusive. On the other side of the argument many point out that
higher education institutions could benefit greatly from the ability
to capitalise on their innovations in software in the same way as
they currently do in many other areas of endeavour.
So
what’s the truth of the matter?
Back
in 1973 the European Patent Convention attempted to standardise the
treatment of inventions across the European Community. As well as
setting out the criteria for patentability mentioned above (novelty,
inventiveness, industrial application) the Convention excluded
certain types of invention from being patentable. Article 52 of the
Convention excludes:
- discoveries, scientific theories and mathematical methods;
- aesthetic creations;
- schemes, rules and methods for performing mental acts, playing games or doing business, and programs for computers;
- presentations of information
As
well as the above exclusions diagnostic, therapeutic or surgical
techniques are generally accepted as being not patentable. In 1978,
the European Patent Office (EPO) was set up to strengthen the
cooperation of the countries of Europe in the protection of
inventions.
Of
course, over the ensuing years, computers became ubiquitous, and
European industry became nervous that they could not protect their
research investment if it was ploughed into software development. The
EPO started to interpret the 1973 exclusions more flexibly in
response to this pressure from industry, and started granting patents
for what were essentially computer programs by allowing claims for
processes that employed programmed computers.
The
American position on the patentability of software has always been
more permissive. Software was never excluded, and it was therefore
never required to demonstrate a technical
effect beyond the
standard operation of a software program in order to qualify for
consideration for patentability. All that was required for a program
to be patentable was that it produced a useful,
concrete and tangible result.
This requirement was originally interpreted to mean that the
operation of the program must affect the physical world in some way -
like for example a control program for an industrial machine.
Increasingly however the interpretation of useful,
concrete and tangible
was stretched to include effects that were localised to the computer
itself. Software that employed a better method of memory management
or completed a transaction more smoothly was considered to fall
within the scope of patentability. This has led to an extremely large
number of software patents being granted in the US. This in turn,
some would argue, has made the business of creating software which
does not infringe any patents very hard indeed.
In
1987 a company called Vicom applied for a patent with the EPO on a
mathematical process embodied in a computer program that processed
digitised images. Initially their claim was rejected, as the European
Patent Convention disallowed their software program from being an
invention on two separate grounds - it was a software program and it
was integrally a mathematical method. On appeal, however, the
European Patent Office allowed the claim. Their reasoning was that
- although mathematical methods cannot be patented, technical embodiments of them can be
- software that implements a technical embodiment of a mathematical method (or indeed any software) should be protected if it makes a technical contribution to the state of the art in the area of endeavour it inhabits.
Put
simply, the EPO found that the fact that an implementation of an
invention may be in software rather than in hardware ought not to
disallow it from being protected by patent law. If it does something
new and useful (makes a technical
contribution) that
alone should be the deciding factor. To quote the judgement:
Generally
speaking, an invention which would be patentable in accordance with
conventional patentability criteria should not be excluded from
protection by the mere fact that for its implementation modern
technical means in the form of a computer program are used. Decisive
is what technical contribution the invention as defined in the claim
when considered as a whole makes to the known art.
This
decision made it possible for a carefully-phrased patent claim to
result in what is effectively a software patent. The patent was
granted for the computer
system when programmed
rather than just the program. Thus an individual producing a piece of
software that would infringe the patent if it were to be run on a
computer was not technically violating the patent. Finally in 1998
the EPO revised this approach (in response to a patent appeal brought
by IBM) and announced that in future software itself could be
patented as long as it displayed a technical
effect.
By
the late 90s, then, the European Patent Office had opened the way to
software receiving patentable status. In the last twenty years the
EPO has granted over 30,000 patents to software inventions that
satisfy their criterion of producing a technical contribution.
Despite this fact there has been little litigation in the European
Courts in support of these patents, and it is not entirely clear why
this is. It is true that policy on the patentability of software has
diverged across the European Union, with national patent regimes
taking greater or lesser notice of the reinterpretations of the 1973
Convention that the EPO has engaged in. This in turn has led to
uncertainty about the robustness and EU-wide enforceability of
patents that include software granted by the EPO and by national
patent offices. Clearly it would be preferable for the situation to
be clarified.
In
2002, the European Commission drafted a European Directive on the
Patentability of Computer-Implemented Inventions. This was intended
to standardize how national governments dealt with software patents,
by forcing them to build certain features into their patent regimes.
It was also intended to harmonize European states’ patent policies
with the requirements of the World Trade Organisation’s TRIPS
agreement, which itself was supposed to create a worldwide accord on
how intellectual property rights should be enforced.
Unfortunately
the Directive did anything but harmonize. For starters, many people
felt that the reinterpretations of the 1973 EPC exclusions should
never have happened, and resented the Directive’s attempt to make
these reinterpretations official. Many feared that the Directive
would begin a process that would lead to a US-style of patent
examination, with easily obtainable software patents and little scope
for contesting bad patents.
At
the heart of much of the most robust opposition to software patents
is the belief that computer software is not just another area of
technical endeavour, like mining or hat-making or agriculture.
Software, this belief argues, is a codification of mathematical
processes, and as such deserves its place alongside algorithms and
mathematical methods in the European Patent Convention’s
exclusions. Allowing software patents to be granted, opponents
believe, would be almost the same as allowing the ownership of
mathematical procedures. Some critics of software patents have
proposed that the domain of software should be thought of as similar
to the domains of mathematics and logic - an abstraction of
real-world problems, not a distinct category of them.
Besides
this typological argument for the special treatment of software,
there are also many practical concerns. There is a large body of
common practice in the world of software development, and the US
experience has shown that it can be difficult for patent-granting
authorities to correctly judge novelty against this vast common
background of know-how. Members of the open source community
particularly tend to feel that software patents will allow a gradual
enclosure of this commons, and thus a severe limiting of the ability
of the open source world to produce non-infringing software.
Proponents
of the Directive maintained that the insistence on a technical
contribution being present in a prospective patent should filter out
all undeserving or non-novel candidates. They also point out that
standardising patent law across Europe is an important and urgent
aim, and that practically speaking the only way this aim can be
achieved is to standardise on something close to the status quo.
Anything else is certain to end up invalidating patents that have
already been granted, and this, it is argued, is undesirable from
both an ethical and a bureaucratic standpoint.
Strong
lobbying by those who oppose liberalisation of the software patent
regime in Europe has resulted in the Directive being repeatedly
rejected by the European Parliament. The Council of Ministers
continues to promote its adoption. The history of these battles is
complex and involved. To summarise, years have passed and much
concentrated lobbying by both sides of the debate has resulted in
deadlock and no real change to the wording of the Directive. The
anti-patent groups have shown themselves to be extremely effective in
mobilising opinion and tackling well-funded opposition. It remains to
be seen if, realistically, they can hold the pro-patent lobby to a
draw in perpetuity.
In
March 2008 Symbian software, a mobile phone operating system
developer, managed to overturn a UK decision to refuse a patent for a
software invention. The Intellectual Property Office had been
assessing software patentability using a four step test (derived from
the judgement in the Aerotel v Telco and Macrossan’s Application
case) designed to establish if a piece of software had an
identifiable ‘technical effect’ outside the computer upon which
it runs. If such an effect was present, according to the test, the
software could be considered as eligible for patent protection.
Symbian’s application had ‘failed’ the test and had been
rejected on that basis. In succeeding in their appeal, Symbian
established that - within the UK at least - software could enjoy
patent protection even if its effects were entirely limited to
improving the operation of the computer it runs on. This has
effectively widened the range of software patentable in the UK.
Patents
and how they affect open source development is an important topic
that must be considered when adopting an open source licence. Details
about the interactions between patents and open source software
licences can be found in the Free
and open source software and your patents briefing note.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.