Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

Thu thập bằng chứng về một chính sách bản quyền dựa vào sự thật


Gathering Evidence for a Fact-Based Copyright Policy
Published 12:06, 27 November 12
Bài được đưa lên Internet ngày: 27/11/2012
Lời người dịch: Đã từ lâu vấn đề ăn cắp bản quyền các nội dung trực tuyến là nóng, nhưng chưa bao giờ có được những nghiên cứu dựa vào các con số thực tế, mà hầu hết dựa vào những người vận động hành lang để có chính sách có lợi cho nhóm lợi ích của họ. Bài này nếu sự đổi mới khi có nghiên cứu của Ofcon về việc này. Một số trích dẫn: “Điều này có nghĩa là ý tưởng cơ bản trong tâm của Luật Kinh tế Số đơn giản là sai: cố đe dọa mọi người trong việc trả tiền về nội dung có khả năng là không làm việc được (hoặc sẽ đòi hởi các biện pháp không tương xứng). May thay, nghiên cứu hiện hành cũng chỉ ra một lựa chọn tốt hơn: cho các công ty bản quyền làm nội dung sẵn sàng hơn ở các mức giá hợp lý hơn. Xuất bản phẩm của báo cáo này là quan trọng về nhiều lý do. Trước hết, vì những phát hiện như những điều được nêu ở trên - sự vô nghĩa của việc gửi đi các thư cảnh báo, nhu cầu các chào hàng thương mại tốt hơn, và sự thực mà nhiều người tải về các tư liệu không được phép đi tiếp để trả tiền nhiều hơn nhiều những người không như vậy. Nhưng theo nhiều cách thức khía cạnh chính của nghiên cứu là đơn giản rằng nó tồn tại. Hãy hy vọng nó thể hiện được sự bắt đầu của một kỷ nguyên mới về việc ra chính sách trong lĩnh vực này: một chính sách dựa vào kinh tế, không dựa vào những người vận động hành lang”.
Như tôi đã lưu ý đôi lúc, có lẽ khía cạnh cách mạng nhất của Rà soát lại về bản quyền của Hargreaves trong kỷ nguyên số đơn giản từng là ý tưởng rằng chính sách bản quyền nên được dựa vào bằng chứng. Tất nhiên, sự thật là cho tới bây giờ nó đã được xác định thuần túy bằng sự võ đoán, và vẽ ra trong những con số thống kể giả tạo do những nền công nghiệp bản quyền đặt ra, đang kết tội một cách không ngờ.
Thật hạnh phúc, bằng chứng ngày một nhiều hơn đang trở nên sẵn sàng khắp thế giới, nhưng bản chất tự nhiên chính phủ Anh sẽ ưu tiên dựa vào các quyết định của mình trong nghiên cứu có liên quan trực tiếp tới đất nước này. Vì thế xuất bản gần đây về một “nghiên cứu của người theo dõi”, được Ofcom ủy quyền, là thông tin cực kỳ tốt, vì nó có nghĩa rằng mọi điều cuối cùng bắt đầu xảy ra trong lĩnh vực này.
Đây là nền tảng, được lấy từ giới thiệu của nghiên cứu đó:
Báo cáo này chi tiết hóa những phát hiện chính của một nghiên cứu theo dõi người tiêu dùng phạm vi rộng ở mức độ vi phạm bản quyền trực tuyến, cũng như các hành vi và quan điểm số rộng lớn hơn, trong số những người độ tuổi lớn hơn 12 tại Anh. Nghiên cứu được Ofcom ủy quyền, được Kantar Media thực hiện và được làm cho có khả năng với sự hỗ trợ tài chính từ Văn phòng Sở hữu Trí tuệ (IPO) Anh. Đây là lần đầu tiên trong một loạt các làn sóng nghiên cứu có ý định tạo ra sự kiểm định chuẩn và loạt thời gian phù hợp tới sự truy cập và sử dụng các tư liệu bản quyền trực tuyến.
Nghiên cứu xuất phát từ một khuyến cáo trong năm 2011 từ Rà soát lại của Hargreaves về Sở hữu Trí tuệ và Tăng trưởng (2011 Hargreaves Review of Intellectual Property and Growth) mà Ofcom nên không chờ đợi cho tới khi các trách nhiệm báo cáo chính thức của nó nổi lên từ Luật Kinh tế Số đã bắt đầu thu thập các dữ liệu độc lập và thiết lập các xu thế trong lĩnh vực này của bản quyền trực tuyến. Chính phủ đã lựa chọn khuyến cáo này và đã giao nhiệm vụ cho Ofcom và IPO làm việc cùng nhau để tiến hành nghiên cứu thu thập bằng chứng cần thiết. Báo cáo này là kết quả của quan hệ đối tác này.
As I noted at the time, perhaps the most revolutionary aspect of the Hargreaves Review of copyright in the digital age was simply the idea that copyright policy should be based on evidence. Of course, the fact that until now it has been determined purely by dogma, and drawing on bogus statistics put out by the copyright industries, is incredibly damning.
Happily, more and more evidence is becoming available around the world, but naturally the UK government will prefer to base its decisions on research that relates directly to this country. So the recent release of a "tracker study", commissioned by Ofcom, is extremely good news, since it means that things are finally beginning to happen in this area.
Here's the background, taken from the study's introduction [.pdf]:
This report details the main findings of a large-scale consumer tracking study into the extent of online copyright infringement, as well as wider digital behaviours and attitudes, among people aged 12+ in the UK. The study was commissioned by Ofcom, undertaken by Kantar Media and made possible by financial support from the UK Intellectual Property Office (IPO). It is the first in a series of research waves intended to generate benchmarks and time series relevant to the access and use of copyright material online.
The research stemmed from a recommendation in the 2011 Hargreaves Review of Intellectual Property and Growth that Ofcom should not wait until its formal reporting duties arising from the Digital Economy Act began to start gathering independent data and establishing trends in the area of online copyright. Government adopted this recommendation and tasked Ofcom and IPO to work together to conduct research to gather the necessary evidence. This report is the result of this partnership.
Như bản thân báo cáo lưu ý, đây chỉ là sự khởi đầu của con đường:
Hy vọng của chúng tôi là đối với nghiên cứu này sẽ là bước hữu dụng đầu tiên trong việc cải thiện và xây dựng cơ sở bằng chứng cần thiết cho chính sách vi phạm bản quyền trực tuyến. Mục tiêu của chúng tôi từng để báo cáo các dữ liệu trung lập và không có sự diễn giải. Ở những nơi chúng tôi đã có những giả thiết về nghiên cứu thì chúng tôi đã lưu ý điều này và tiếp cận của chúng tôi là sẵn sàng để soi xét kỹ lưỡng trong các phụ lục kỹ thuật ở cuối của báo cáo. Cùng với báo cáo chúng tôi cũng đã xuất bản các bảng dữ liệu được soạn sửa và các gói slide cho những ai muốn tự họ phân tích dữ liệu, và các bảng đầy đủ là sẵn sàng theo yêu cầu.
Bình luận mới nhất đó về việc cung cấp các bảng dữ liệu trong cả phiên bản soạn thảo và đầy đủ dựa vào yêu cầu là thú vị và được chào đón: nó đại diện cho một sự chuyển dịch chính trong quan điểm của những người ủy quyền dạng nghiên cứu này, những người đã có xu hướng nắm lấy một quan điểm sở hữu đối với các dữ liệu. Làm cho các dữ liệu đó sẵn sàng cho những người khác để phân tích không chỉ làm gia tăng sự minh bạch của điều tra nghiên cứu, nó còn làm gia tăng độ tin cậy của nó, vì mỗi người mà còn mơ hồ về một phát hiện có thể tự mình kiểm tra nó. Điều này thực sự sẽ trở thành tiêu chuẩn cho tất cả các nghiên cứu, bao gồm bất kỳ công việc nào mà giới công nghiệp cấp tiền mà mong muốn được nắm lấy một cách nghiêm túc.
Phân tích chính được thấy trong tài liệu 94 trang. Một trong những vấn đề chính là làm thế nào đo đếm được “nội dung bất hợp pháp”. Đây là những gì báo cáo này đã quyết định làm:
Về mục đích của toàn bộ các tính toán bất hợp pháp, chúng tôi đã làm một giả thiết qua đó tất cả các nội dung mà các cá nhân yêu sách phải trả tiền là hợp pháp (bao gồm cả các đĩa vật lý). Chúng tôi nhận thức rằng điều này là một giả thiết không tuyệt hảo để làm, vì một số người sẽ phải trả tiền để truy cập tới các nội dung trực tuyến một cách không hợp pháp. Điều này có thể liên quan tới sự trả tiền giao dịch trực tiếp cho một mẩu nội dung, hoặc trả tiền cho băng thông rộng, đặt chỗ, các dịch vụ ban đầu hoặc cơ chế thành viên của một cộng đồng chia sẻ tệp. Một cách tương đương, có khả năng là một tỷ lệ các nội dung được trả tiền một cách vật lý bị ăn cắp hoặc bị sao chép trộm.
As the report itself notes, this is just the beginning of the journey:
Our hope is for this study to be a useful first step in improving and building the necessary evidence base for online copyright infringement policy. Our aim has been to report the data neutrally and without interpretation. Where we have made assumptions about the research we have noted this and our approach is available to scrutinise in the technical appendix at the end of this report. Alongside the report we have also published edited data tables and slide packs for those who wish to analyse the data themselves, and full tables are available on request.
That last comment about providing the data tables in both an edited and full version upon request is interesting and welcome: it represents a major shift in the attitude of those commissioning this kind of research, who have tended to take a rather proprietorial attitude to the data. Making that data available for others to analyse not only increases the transparency of the investigation, it increases its credibility, since anyone who is dubious about a finding can check it for themselves. This should really become the norm for all such research, including any industry-funded work that wishes to be taken seriously.
The main analysis is found in a separate 94-page document [.pdf]. One of the key issues is how to measure "illegal content". Here's what the report decided to do:
For the purpose of overall legality calculations we have made an assumption throughout that all content that individuals claim to have paid for is legal (including physical discs). We acknowledge that this is an imperfect assumption to make, since some people will have paid to access online content illegally. This can involve direct transactional payment for a piece of content, or a payment in respect of bandwidth, hosting, premium services or membership of a file-sharing community. Equally, it is possible that a proportion of physical paid-for content is pirated or bootlegged.
Nevertheless we have revised the questionnaire for the second wave of this research to accommodate consumption of infringing content via unlicensed, paid-for sites. We will publish a full report relating to this in the next wave. However, provisional data from this second wave suggests that paid-for illegal content does not make a significant difference to the overall number of infringers within the total online population.
That's an interesting point: it means that paid-for sites offering unauthorised copies probably aren't a huge problem in the overall scale of things, despite exaggerated claims to the contrary by the US authorities in their desperate attempt to paint Megaupload in the worst light.
Here are a couple of key results about accessing content and sharing:
Tuy nhiên chúng tôi đã rà soát lại bảng câu hỏi cho đợt thứ 2 của nghiên cứu này để dàn xếp giả thiết về việc vi phạm nội dung thông qua các site không được cấp phép, có trả tiền. Chúng tôi sẽ xuất bản một báo cáo đầy đủ có liên quan tới điều này trong làn sóng tiếp sau. Tuy nhiên, các dữ liệu cung cấp từ làn sóng thứ 2 này gợi ý rằng các nội dung bất hợp pháp phải trả tiền không làm ra một sự khác biệt đáng kể nào đối với tổng số những người vi phạm trong tổng dân số trực tuyến.
Đó là một điểm thú vị: nó có nghĩa là các site phải trả tiền chào các bản sao không có ủy quyền có lẽ sẽ không là một vấn đề lớn trong toàn bộ phạm vi của sự việc, bất chấp những yêu sách quá đáng đối với sự ngược lại của các nhà chức trách Mỹ trong ý định tuyệt vọng của họ để tô vẽ Megaupload một cách tồi tệ nhất.
Đây là một vài kết quả chính về việc truy cập nội dung và chia sẻ:
66% những người sử dụng Internet độ tuổi >12 nói đã từng tải về hoặc truy cập nội dung trực tuyến (sử dụng) xuyên khắp 6 dạng nội dung được đánh giá, với 56% đã làm thế trong 3 tháng vừa qua. Việc chia sẻ không bổ sung thêm vào tỷ lệ này, nghĩa là nếu ai đó chia sẻ các tệp, thì họ thường cũng sử dụng chúng.
nhưng
Việc chia sẻ nội dung (tích cực) từng được chỉ ra là một hoạt động thích hợp nói chung - chỉ 11% những người sử dụng Internet nói đã làm điều này, giảm tới 8% trong 3 tháng qua. Âm nhạc từng là dạng nội dung được chia sẻ nhiều nhất (5% trong 3 tháng qua, so với 1-2% đối với các dạng nội dung khác).
Điều đó thực sự là một tỷ lệ rất nhỏ. Bây giờ, một sào huyệt chính là những con số đó là hoàn toàn được tự báo cáo: điều đó có nghĩa là những người trả lời đã được hỏi có hiệu quả để đổ tội cho chính họ. Tôi chắc chắn điều đó đã dẫn tới việc không báo cáo đủ, có thể bằng một nhân tố đáng kể. Nhưng thậm chí tính tới điều đó, thì dường như là việc chia sẻ không có quyền không phải là một vấn đề khổng lồ - chúng tôi không nói về đa số lớn những người sử dụng tham gia trong đó, ví dụ thế.
Báo cáo có điều này để nói về các mẫu trả tiền của những người được phỏng vấn:
Những người mà đã tải về hoặc truy cập nội dung trong 3 tháng qua từ bất kỳ dạng được báo cáo này đề cập tới, đa số lớn (87%) đã sử dụng ít nhất vài nội dung một cách tự do. Điều này san bằng tới gần một nửa của dân số Internet >12 tuổi (49%).
Sixty-six per cent of internet users aged 12+ claim to have ever downloaded or streamed/accessed content online (i.e. consumed) across the six content types evaluated, with 56% having done so in the past three months. Sharing doesn’t add to this proportion, meaning that if someone shares files, they generally also consume them.
but
Sharing content (actively) was shown to be a niche activity in general - just 11% of internet users claimed to have done this, dropping to 8% in the past 3 months. Music was the most commonly shared content type (5% in the past 3 months, compared to 1-2% for the other content types).
That's really a very small proportion. Now, a major caveat is that these figures are entirely self-reported: that means respondents were effectively asked to incriminate themselves. I'm sure that has led to underreporting, maybe by a significant factor. But even taking that into account, it seems that unauthorised sharing is not a huge problem - we're not talking about the vast majority of users engaging in it, for example.
The report has this to say about the payment patterns of those interviewed:
Of those who downloaded or accessed content during the past three months from any of the types covered by this report, the great majority (87%) consumed at least some of it for free. This equates to nearly half of the 12+ internet population (49%).
That's not really surprising, since much content online is intended to be consumed without payment (think of YouTube.) The question then becomes how much of that free stuff was unauthorised. Here's what the research found:
Across all the content types covered in this report, 29% of those who claimed to have consumed content online during the past three months indicated they had consumed at least one item illegally. This equates to 16% of all internet users aged 12+. Furthermore, 8% of those who consumed content in the past three months did so exclusively illegally (4% of all internet users).
Again, that's a very small (self-reported) number. And the corollary of that is that 12% of all Internet users accessed both legal and illegal copies, rather more significant. Moreover, it turns out that this particular group actually spends far more than people who only buy illegal or legal copies. Here are the figures for the main categories of content:
Điều đó không thực sự gây ngạc nhiên, vì nhiều nội dung trực tuyến có ý định được sử dụng mà không có trả tiền (hãy nghĩ về YouTube). Câu hỏi sau đó là bao nhiêu đồ tự do là không được ủy quyền.
Đây là những gì nghiên cứu đã thấy:
Xuyên qua tất cả các dạng nội dung được đề xập trong báo cáo này, 29% những người từng nói đã sử dụng nội dung trực tuyến trong 3 tháng qua đã chỉ rằng họ đã sử dụng ít nhất 1 khoản không hợp pháp. Điều này ngang với 16% tất cả những người sử dụng Internet độ tuổi >12. Hơn nữa, 8% những người đã sử dụng nội dung trong 3 tháng qua đã làm thế hoàn toàn bất hợp pháp (4% tất cả những người sử dụng Internet).
Một lần nữa, đó là một con số rất nhỏ (tự báo cáo). Và kết quả tất yếu của điều đó là 12% của tất cả những người sử dụng Internet đã truy cập các bản sao hợp pháp và không hợp pháp, hơn là rất đáng kể. Hơn nữa, hóa ra là nhóm đặc biệt này thực sự bỏ ra nhiều hơn nhiều so với những người chỉ mua các bản sao hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
Đây là các con số về các chủng loại chính các nội dung:
Về 3 nhóm 'hợp pháp' được thảo luận trước đó, những người đã truy cập pha trộn cả hợp pháp và không hợp pháp âm nhạc đã bỏ ra nhiều nhất vào âm nhạc (£77.24), với ít nhất ‘100% bất hợp pháp’ (£13.80). Những người nói tất cả âm nhạc của họ có được hợp pháp là trong khoảng giá trị £43.31.
Như với âm nhạc, những người đã truy cập một sự pha trộn các phim hợp pháp và không hợp pháp trực tuyến đã nói bỏ ra hầu hết vào chủng loại này như là tổng thể (£56.11), với ‘100% bất hợp pháp’ nhóm bỏ ra ít nhất (£28.25). Điều này so sánh với £35.57 đối với ‘100% nhóm hợp pháp’.
Những người đã truy cập một sự pha trộn các chương trình TV trực tuyến hợp pháp và bất hợp pháp đã bỏ ra nhiều nhất vào chủng loại đó như là tổng thể (£25.69 49), với 100% bất hợp pháp bỏ ra ít nhất (£3.51). Nhóm hợp pháp 100% nằm giữa với £8.28.
Đó là sự phát hiện đáng lưu ý, đặc biệt đưa ra sự ổn định của nó xuyên khắp các dạng khác nhau của nội dung. Nhưng điều này không hề là chưa từng thấy. Trong thực tế có một cơ sở nghiên cứu gia tăng gợi ý mọi người mà tải về các bản sao không được phép - “ăn cắp” - bỏ ra nhiều hơn những người mà chỉ mua các phiên bản được phép. Thật quyến rũ để thấy nghiên cứu của riêng Ofcom khẳng định phát hiện quan trọng đó.
In terms of the three ‘legality’ groups discussed earlier, those who accessed a mix of legal and illegal music spent the most on music (£77.24), with ‘100% illegal’ (£13.80) the least. Those who claimed all their music was obtained legally were between these values, at £43.31.
As with music, those who accessed a mixture of legal and illegal films online claimed to spend the most on the category as a whole (£56.11), with the ‘100% illegal’ group spending the least (£28.25). This compared to £35.57 for the ‘100% legal group’.
Those who accessed a mixture of legal and illegal online TV programmes spent the most on the category as a whole (£25.69 49), with 100% illegal spending the least (£3.51). The 100% legal group sat in between with £8.28.
That's a remarkable finding, especially given its consistency across different types of content. But it's not unprecedented. In fact there's a growing body of research that suggests people who download unauthorised copies - "pirates" - spend more than those who only buy authorised versions. It's fascinating to see Ofcom's own research confirm that important finding.
What this probably means is that many people are downloading free copies not to avoid paying, but to find out what is worth paying for. In other words, it's really just a kind of marketing. To be sure, some people don't go on to buy anything, and they are free riders who take advantage of the availability of material. But the Ofcom research shows that most people who access stuff for free go on to spend money, in part because they doubtless recognise that if artists don't receive compensation for their work, the latter will ultimately be unable to create.
The new research also has some important results about why people don't always go on to buy works, but simply access unauthorised versions:
The free aspect (54%) was the main motivation for illegal downloading, with convenience (48%) and speed (44%) also cited highly.
Clearly, some people simply want things for free, but it's worth noting that convenience is a key issue for nearly half of respondents. That suggests that if it were easier to buy stuff than it was to download unauthorised versions, people might switch. That's confirmed by the current report:
The most-stated aspects that would encourage those who currently infringe to stop were: if legalservices were cheaper (39%) and if everything was available legally (32%).
Điều này có thể có nghĩa là nhiều người đang tải về các bản sao tự do không phải để tránh trả tiền, mà để tìm ra những gì đáng trả tiền. Nói cách khác, thực sự chỉ là một dạng marketing. Chắc chắn, một số người không tiếp tục mua gì cả, và họ là những người cưỡi ngựa xem hoa và lạm dụng sự sẵn sàng của tư liệu. Nhưng nghiên cứu của Ofcom chỉ ra rằng hầu hết những người truy cập đồ tự do tiếp tục bỏ tiền ra, một phần vì họ không còn hồ nghi nữa khi nhận thức được rằng nếu các nghệ sĩ không nhận được sự bù đắp cho tác phẩm của họ, thì sau này cuối cùng sẽ không có khả năng tạo ra nữa.
Nghiên cứu mới này cũng có một số kết quả quan trọng về vì sao mọi người không luôn đi tiếp để mua các tác phẩm, mà đơn giản truy cập các phiên bản không có quyền:
Khía cạnh tự do (54%) từng là động lực chính cho việc tải về bất hợp pháp, với sự thuận tiện (48%) và tốc độ (44%) cũng được trích dẫn là cao.
Rõ ràng, một số người đơn giản muốn mọi thứ là tự do, nhưng đáng lưu ý rằng sự thuận tiện là một vấn đề chính cho gần một nửa những người trả lời. Điều đó gợi ý rằng nếu dễ dàng hơn để mua đồ so với để tải về các phiên bản không được phép, thì mọi người có thể chuyển. Điều đó được báo cáo hiện hành khẳng định:
Những khía cạnh được nói nhiều nhất là điều đó có thể khuyến khích những người hiện đang vi phạm để dừng lại là: nếu các dịch vụ pháp lý là rẻ hơn (39%) và nếu mọi thứ là sẵn sàng một cách hợp pháp (32%).
Đây là một kêu ca chung, được chứng minh. Quá thường xuyên, mọi người không có khả năng tìm các nội dung mà họ cần tìm - nhiều chương trình TV mới chịu điều này ở mức độ lớn – hoặc, nếu chung là, giá thực sự quá cao. Làm cho nội dung sẵn sàng và ở các giá phải chăng có thể rõ ràng có một tác động khổng lồ lên các bản tải về không có quyền.
Có một số đồ thị hữu dụng được đưa vào trong báo cáo minh họa cho khía cạnh này. Chúng chỉ ra “thiện chí để trả tiền” cho các nội cung như một hàm của giá. Bản chất tự nhiên, các giá thấp hơn có nghĩa là nhiều người hơn có thiện chí trả tiền, và các đồ thị đó chỉ mọi người nhạy cảm thế nào với việc định giá, và các giá cao dẫn tới hầu như thiện chí bằng 0 như thế nào để trả tiền. Một lần nữa, thực sự tuyệt vời để công việc này đã và đang được thực hiện cho Ofcom, và đặc biệt là các nền công nghiệp bản quyền đã không ủy quyền nghiên cứu sống còn như thế này cho chính bản thân họ, vì nó có thể đã tránh được một số quyết định định gái điên khùng mà đã đóng một vai trò chính trong việc dẫn dắt những người tiêu dùng tiềm năng tới các bản tải về không được phép.
Có một phát hiện quan trọng khác về các cách thức để khuyến khích tải về hợp pháp hơn:
Về mối đe dọa của một bức thư từ ISP của họ, điều này dường như có ít hiệu ứng được biết trước về hành vi so với các yếu tố được nhắc tới ở trên [giá và tính sẵn sàng]; 22% đã chỉ ra rằng một bức thư treo sự truy cập Internet của họ có thể đặt họ ra ngoài, chiếm 16% cho một bức thư thông báo cho họ tài khoản của họ đã được sử dụng để vi phạm, và 14% về việc hạn chế tốc độ Internet.
Điều này có nghĩa là ý tưởng cơ bản trong tâm của Luật Kinh tế Số đơn giản là sai: cố đe dọa mọi người trong việc trả tiền về nội dung có khả năng là không làm việc được (hoặc sẽ đòi hởi các biện pháp không tương xứng). May thay, nghiên cứu hiện hành cũng chỉ ra một lựa chọn tốt hơn: cho các công ty bản quyền làm nội dung sẵn sàng hơn ở các mức giá hợp lý hơn.
Xuất bản phẩm của báo cáo này là quan trọng về nhiều lý do. Trước hết, vì những phát hiện như những điều được nêu ở trên - sự vô nghĩa của việc gửi đi các thư cảnh báo, nhu cầu các chào hàng thương mại tốt hơn, và sự thực mà nhiều người tải về các tư liệu không được phép đi tiếp để trả tiền nhiều hơn nhiều những người không như vậy. Nhưng theo nhiều cách thức khía cạnh chính của nghiên cứu là đơn giản rằng nó tồn tại. Hãy hy vọng nó thể hiện được sự bắt đầu của một kỷ nguyên mới về việc ra chính sách trong lĩnh vực này: một chính sách dựa vào kinh tế, không dựa vào những người vận động hành lang.
This is a common, and justified complaint. Too often, people are unable to find content that they are looking for - many new TV shows suffer from this to a great degree - or, if they are, the prices are really exorbitant. Making content available and at fair prices would clearly have a huge impact on unauthorised downloads.
There are some useful graphs included in the report that fill out this aspect. They show "willingness to pay" for content as a function of price. Naturally, lower prices mean more people are willing to pay, and these graphs show how sensitive people are to pricing, and how high prices lead to almost zero willingness to pay. Again, it's really great to have this work being done for Ofcom, and extraordinary that the copyright industries haven't commissioned crucial research like this themselves, since it would have avoided some of their crazy pricing decisions that have played a major part in driving potential customers to unauthorised downloads instead.
There is one other important finding regarding ways to encourage more legal downloads:
Regarding the threat of a letter from their ISP, this appeared to have less of an anticipated effect on behaviour than the factors mentioned above [price and availability]; 22% indicated that a letter suspending their internet access would put them off, falling to 16% for a letter informing them their account had been used to infringe, and 14% for the restricting of internet speed.
This means that the basic idea at the heart of the Digital Economy Act is simply wrong: trying to frighten people into paying for content is unlikely to work (or will require disproportionate measures). Fortunately, the current research also indicates a better alternative: for copyright companies to make more content available at more reasonable prices.
The publication of this report is important for many reasons. First, because of findings like those mentioned above - the pointlessness of sending warning letters, the need for better commercial offerings, and the fact that many of those who download unauthorised material go on to spend far more than those who don't. But in many ways the key aspect of the research is simply that it exists. Let's hope it represents the start of a new era of policy making in this area: one based on economics, not lobbynomics.
Dịch: Lê Trung Nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.