Business
and sustainability models around free and open source software
Pete Cooper, Published:
27 May 2009, Reviewed: 11 June 2012
Bài được đưa lên
Internet ngày: 11/06/2012
Lời
người dịch: Bài viết đưa ra nhiều vấn đề liên quan
tới thế giới PMTDNM, từ các loại giấy phép khác nhau
của PMTDNM, tới các mô hình kinh doanh bền vững, tới
việc thương mại hóa PMTDNM, tới việc tạo ra một Quỹ
(Foundation) để quản lý mã và giảm nhẹ các vấn đề
hành chính liên quan và rồi ở phần kết luật, nêu: “các
doanh nghiệp phần mềm lớn và thành công đang ngày càng
nhìn vào dạng các mô hình 'đổi mới mở' hướng
vào cộng đồng (bản
dịch tiếng Việt) phản chiếu các thực tiễn truyền
thống của sự tự do và cộng tác của giới hàn lâm”.
Báo cáo từ hội
thảo của OSS Watch về các Mô hình Kinh doanh và Bền vững
tại Đại học Oxford, 12/01/2009 của Pete Cooper.
Tôi
may mắn được tham dự một sự kiện của OSS Watch gần
đây. Hội thảo, các Mô hình kinh doanh và bền vững xung
quanh phần mềm tự do nguồn mở, đã được tổ chức
tại tổng hành dinh Oxford, nơi đặt chỗ của OSS Watch,
sâu trong tòa nhà như mê lộ các Dịch vụ Điện toán của
Đại học Oxforsd. Các suy nghĩ ban đầu của tôi, thậm
chí trước sự kiện, hầu hết là các câu hỏi:
- Làm thế nào có thể OSS Watch, trước hết có liên quan trong giáo dục cao học và đại học (HE/FE), tiếp cận chủ đề về các mô hình kinh doanh thương mại và vẫn còn là có thẩm quyền cơ chứ?
- Liện quan điểm không bảo vệ của OSS Watch có bị gắn vào, đặc biệt trong các khía cạnh kinh doanh và thương mại của hội thảo?
- Làm thế nào thứ gì đó có thể là sẵn sàng tự do một cách cơ bản không có chi phí lại có thể bền vững được? Sau tất cả, các mô hình kinh doanh thương mại, ít nhất theo nghĩa truyền thống, phần lớn dựa vào việc bán và/hoặc buôn bán một sản phẩm và/hoặc dịch vụ vì tiền và/hoặc các dịch vụ để đổi lại.
Hội
thảo ở dạng của 4 bài trình bày và một phiên thảo
luận, được mô tả trong báo cáo sau đây và được đề
cập tới trong một blog
sống động. Tất cả các diễn giả cũng đã phát
hành các slide của họ cho tự do tải về, theo một giấy
phép Creative Common Attribution - ShareAlike 2.0, trừ phi được
chỉ định khác. Các slide là có sẵn từ trang web của
hội thảo, được kết nối tới ở trên.
Những
điều cơ bản về PMTDNM
Ross
Gardler đã mở đầu hội thảo với một tổng quan về
phần mềm tự do nguồn mở (PMTDNM). Ông đã bắt đầu
bằng việc đề cập tới một số về lịch sử đằng
sau 2 tổ chức PMTDNM, Quỹ Phần
mềm Tự do – FSF (Free Software Foundation) và Sáng
kiến Nguồn Mở - OSI (Open Source Initiative), và đã đi
tiếp để mô tả các dạng giấy
phép PMTDNM chính: giấy phép dễ dãi cho phép đưa
PMTDNM vào trong các dự án không phải là PMTDNM và hầu
hết phù hợp cho các kịch bản nơi mà sự hấp thu rộng
rãi nhất được yêu cầu. General
Public License (LGPL) are examples of partial copyleft licences.
Các
ví dụ của các giấy phép dễ dãi bao gồm Giấy phép
Phần mềm Apache (Apache
Software License) và giấy phép BSD
được sửa đổi. Một giấy phép copyleft khác với
một giấy phép dễ dãi theo đó các tác phẩm phái sinh,
khi chúng được phân phối, phải kế thừa giấy phép y
hệt như dự án cha của chúng, và các tác phẩm được
cấp phép copyleft không thể kết hợp được vào trong các
dự án không phải là PMTDNM. Một giấy phép copyleft là
phù hợp cho các tình huống nơi mà tình trạng của PMTDNM
sẽ được thừa nhận và/hoặc được tăng cường theo
pháp lý. Giấy phép Công cộng chung GNU – GPL (GNU
General Public License) là giấy phép copyleft nổi tiếng
nhất.
Việc cấp phép
copyleft một phần là một bản 'lai' của các giấy phép
copyleft và dễ dãi. Những sự tương tự giữa việc cấp
phép copyleft và một phần copyleft bao gồm sự kế thừa
của giấy phép cho các tác phẩm phái sinh; tuy nhiên, tác
phẩm được cấp phép copyleft một phần có thể được
kết hợp trong các sản phẩm không phải là PMTDNM, theo
cách tương tự tới tác phẩm được điều hành bằng
một giấy phép dễ dãi. Giấy phép Công cộng Mozilla –
MPL (Mozilla
Public License) và giấy phép Công cộng Chung Ít hơn GNU
– LGPL (GNU Lesser
General Public License) là các ví dụ về các giấy phép
copyleft một phần.
Ross
sau đó đã chuyển qua chủ đề về quyền sở hữu bản
quyền, một trong những vấn đề quan trọng nhất phải
giải quyết khi thiết lập một dự án PMTDNM, và đã mô
tả 2 mô hình ban đầu đang được sử dụng: quyền
sở hữu tập trung và tổng hợp.
Trong trường hợp quyền sở hữu tập trung, bản quyền
được người chủ dự án sở hữu, và những người
đóng góp chỉ định bản quyền của tác phẩm của họ
cho người chủ sở hữu dự án. Quyền sở hữu tổng hợp
có (những) người chủ sở hữu của dự án giữ lại
bản quyền tác phẩm của họ, với những người đóng
góp chỉ cấp phép mã của họ cho người chủ sở hữu
dự án, thay vì chỉ định bản quyền của họ. Mô hình
thứ 3, quyền sở hữu phân
tán, là chung trong thế giới
hàn lâm. Mô hình này tương tự như quyền sở hữu tổng
hợp, ngoại trừ là những người đóng góp không cấp
phép những đóng góp của họ cho người chủ sở hữu dự
án; thay vào đó, họ đặt chúng theo cùng y hệt giấy
phép như được dự án sử dụng, cho phép những đóng
góp đó được kết hợp. Tuy nhiên, điều này có nghĩa
là, người chủ sở hữu dự án sau đó không thể tái
cấp phép cho dự án mà không có việc đảm bảo có thỏa
thuận của từng người đóng góp; mô hình quyền sở hữu
tổng hợp cho phép điều này, và vì thế được ưa thích
hơn.
Cuối
cùng, Ross đã nói về tầm quan trọng của việc ghi lại
và truy xuất thông tinn về quyền sở hữu một cách chính
xác. Trong kết luận, ông đã nhấn mạnh rằng PMTDNM không
đơn giản chỉ là một tập hợp các điều khoản cấp
phép phần mềm mà còn là một phương pháp luận cho sự
phát triển phần mềm, và rằng các cộng đồng phát
triển cộng tác được xúc tác bằng việc cấp phép là
quan trọng như bản thân việc cấp phép đó.
Các mô hình kinh
doanh và bền vững của PMTDNM
Tiếp theo là Rowan
Wilson, người như là một Chuyên gia Nghiên cứu tại OSS
Watch, tập trung vào các khía cạnh pháp lý của PMTDNM. Bài
nói chuyện của ông đã bắt đầu với câu hỏi gây
bực mình về việc liệu giấy phép PMTDNM có tạo thành
một hợp đồng giữa lập trình viên và người sử dụng
hay không. Trong khi nhiều người viện lý rằng nó phải
là, để có bất kỳ hiệu ứng nào, thì các cộng đồng
PMTDNM theo truyền thống đã có xu hướng hạ thấp các
khía cạnh hợp đồng tiềm tàng của các giấy phép, thay
vào đó viện lý rằng chúng đại diện cho sự trao đơn
phương theo những hoàn cảnh đặc biệt (ví dụ, một sự
trao quyền để sao chép, miễn là người sao chép giữ lại
các thông tin ghi công). Ông sau đó đã đưa ra các ví dụ
về những thách thức pháp lý không thành công đối với
các giấy phép của PMTDNM, nổi bật là các vụ Wallace
vs FSF và Jacobsen
vs Katzer, đã chỉ ra rằng một người cấp phép PMTDNM
tại Mỹ là không được tin cậy vào luật hợp đồng để
ép tuân thủ các điều kiện trong giấy phép PMTDNM của
họ.
Chuyển sang khai thác
PMTDNM, Rowan đã giải thích rằng theo truyền thống thì
các viện trường nghiên cứu của nước Anh đã dựa vào
các bằng sáng chế phần mềm cho việc khai thác IP phần
mềm của họ, nhưng đã cảnh báo chống lại điều này,
khi tất cả các giấy phép PMTDNM, hoặc rõ ràng hoặc ẩn
ý, trao các quyền cho các bằng sáng chế mà phần mềm cụ
thể hóa cho bất kỳ ai trên thế giới về cơ bản không
có chi phí nào. Ông cũng chỉ ra rằng việc âm thầm nhúng
PMTDNM vào trong phần mềm của riêng bạn có thể là một
sự cám dỗ nhưng nó thường kết thúc với sự phí tổn
và sự công khai tồi.
Mô
hình đầu mà Rowan đã trình bày từng là việc xây dựng
của một cộng đồng hàn lâm
xung quanh một giải pháp phần mềm đặc biệt, giải
thích rằng 'việc sở hữu' một công cụ là nổi lên
trong một lĩnh vực vấn đề đặc biệt có thể có lợi
cho uy tín của viện trường và các nhà nghiên cứu hàn
lâm theo yêu cầu, và khích lệ việc cấp vốn và quan hệ
đối tác công nghiệp. Việc thiết lập một thực thể
pháp lý riêng rẽ hoặc quỹ
cũng có thể giúp nhiều với sự khai thác thành công một
dự án PMTDNM. Cũng như một mô hình kinh danh làm việc
được, điều này cho phép sự quyên góp và một tiếp
cận đơn giản hơn về thuế. Việc tạo ra một cơ quan
riêng rẽ mà giả thiết trách nhiệm pháp lý cho một dự
án cũng giúp quản lý các rủi ro pháp lý cho dự án và
những người có liên quan với nó: điều này cách li dự
án khỏi các hành động pháp lý chống lại những người
tham gia của nó, và cũng cách li những người tham gia khỏi
các hành động pháp lý chống lại dự án. Có lẽ thậm
chí hữu dụng hơn là một vài tổ chức
ô dù của PMTDNM
đang tồn tại mà bao gồm một số các dự án, cho phép
các tài nguyên hành chính được gộp lại. Cuối cùng,
các quỹ nguồn cộng đồng,
dù chỉ có liên quan tiếp xúc với PMTDNM, đưa ra con đường
khác cho giá trị gia tăng từ phần mềm, trong đó sự
nhập vào cộng đồng phát triển được khẳng định
trong việc tiến hành một cam kết được xác định về
các tài nguyên.
Tiếp theo là sự
tư vấn. chi phí thấp vốn dĩ của mua sắm PMTDNM, cùng
với tài liệu thường lơ thơ của nó, có thể dẫn tới
nhu cầu tư vấn và sự phát triển phần mềm được đặt
hàng có liên quan. Việc gia tăng sự chấp nhận phần mềm
như một dịch vụ, hoặc điện toán đám mây, cũng
có thể là một dạng dòng doanh thu. Cung các các dịch vụ
đó bằng việc sử dụng một số phần mềm được cấp
phép copyleft không phá võ bất kỳ các điều kiện nào
của giấy phép, khi mà phần mềm không được phân phối
theo nghĩa truyền thống. Các dịch vụ quảng cáo
và/hoặc tham chiếu cũng là nguồn doanh thu có khả
năng khác.
Rowan
sau đó đã đề cập tới các kỹ thuật khai thác PMTDNM
truyền thống hơn - cung cấp sự hỗ trợ có trả tiền,
bán các trình bổ sung (add-ons) sở hữu độc quyền và
việc cấp phép đôi. Trong khi 2 cái đầu là các mô hình
được hiểu tốt rồi, thì việc cấp phép đôi thường
bị hiểu sai. Điều này có liên quan tới việc phát hành
phần mềm của bạn theo một giấy phép copyleft mạnh như
GNU GPL, và cũng làm cho sẵn sàng một phiên bản theo một
giấy phép lựa chọn thay thế, cho phép những người sử
dụng mà không muốn bị ràng buộc vào GNU GPL sẽ trả
tiền cho phiên bản không phải copyleft đó. Thông thường,
họ có thể làm điều này vì họ muốn sản xuất một
sản phẩm dựa vào mã đó nhưng không bị giới hạn bằng
một giấy phép copyleft.
Tóm
tăt lại, Rowan đã nhấn mạnh rằng PMTDNM và phần mềm
thương mại không đối đầu hoặc không phải là các
khái niệm loại trừ lẫn nhau. Quan điểm này được sinh
ra bởi thực tế là các thành phần và mã của PMTDNM đang
ngày càng được chấp nhận như một phần của phần mềm
thương mại và được dự
đoán của Gartner ủng hộ rằng PMTDNM sẽ tạo thành
một phần khoảng 80% các lời chào phần mềm thương mại
vào năm 2012.
Thương mại hóa
PMTDNM - một phép nghịch hợp?
Phiên buổi chiều đã
bắt đầu với diễn giả khách ở Đại học Oxford, TS.
Rhys
Newman, người đã gắn cùng một số khía cạnh của
các phiên buổi sáng, và đã chỉ ra cách mà PMTDNM được
sinh ra trong giới hàn lâm có thể giàn được sự quan tâm
của giới công nghiệp rộng lớn và lôi cuốn việc cấp
vốn đầu tư rủi ro.
Rhys
là bộ óc đằng sau 2 dự án đã giành giải thưởng,
Nereus và JPC,
các ứng dụng Java làm việc cùng nhau cho những người
trung gian cho thời gian CPU giữa các nhà tài trợ và những
người sử dụng. Bài trình bày của ông đã tập trung
vào con đường đã đi qua đối với từng trong số các
dự án, từ khái niệm cho tới sự phân phối. Như một
phần của qui trình nghiên cứu, Rhys đã tính giá trị
thời gian CPU rỗi rãi với giá 100 tỷ USD mỗi năm, mà
nó, cân nhắc yêu cầu toàn cầu ngày một gia tăng đối
với thời gian tính toán, đã thể hiện một cơ hội kinh
doanh khổng lồ. Tuy nhiên, không có cơ sở cài đặt rộng
lớn của JPC/Nereus, những người sử dụng và những
người sử dụng tiềm năng có thể không bị thuyết phục
về giá trị của dự án - và không có những người sử
dụng ganh đua về thời gian CPU trong các máy tính được
JPC/Nereus xúc tác, các nhà tài trợ có thể không bị
thuyết phục để tham gia vào dự án. Vì thế, dường
như là câu trả lời là để phân phối phần mềm máy
trạm không lấy lại gì cả, để xây dựng một kho những
người sử dụng; không được nói liệu một mô hình
phân phối có giới hạn hơn, có trả tiền đã từng bao
giờ được cân nhắc tới chưa. Như Rhys đã thừa nhận,
làm như vậy đã không nhất thiết mở nguồn, mà đơn
giản là mọi người có khả năng tải về phần mềm máy
trạm một cách tự do. Theo quan điểm của ông, việc mở
nguồn bổ sung vào một yếu tố marketing: ông tin tưởng
rằng dạng những người 'hiểu biết kỹ thuật' có khả
năng sẽ có quan tâm trong việc quản lý phần mềm có thể
chỉ ra thiện chí nhiều hơn và sự quan tâm nó là nguồn
mở. Lý do chính khác của ông là, nếu phần mềm là
nguồn mở, thì các nhà đầu tư tiềm năng có thể ủy
thác cho các phân tích phần mềm một cách độc lập nếu
họ chọn làm như thế.
Ông từng tùy tiện
lưu ý, dù, về bất kỳ vai trò nào đối với những đóng
góp mã bên ngoài có thể có khả năng chơi trong dự án.
Mục tiêu chính đơn giản là để đảm bảo sự phân
phối rộng rãi nhất của phần mềm, khi doanh số để
cấp vốn cho dự án tiếp tục có thể cuối cùng phụ
thuộc vào sự tồn tại của kho người sử dụng. Một
khi những người sử dụng đã bị thuyết phục và trung
thành với lý do, thì sự đầu tư có thể được tìm
thấy. Tuân theo sự đầu tư thành công, sản phẩm có thể
sẽ thân thiện hơn với các tập đoàn và các tổ chức
có thể có thiện chí hơn để thử nó.
Một trong những thách
thức lớn nhất của Rhys là việc thuyết phục Đại học
mà về cơ bản 'trao đi' phần mềm có thể mang về thứ
gì đó để đổi lại. Lý lẽ của ông không phải là
'việc bỏ nó đi' có thể mang gì đó ngược trở về, mà
việc không phát hành như nguồn mở có thể đảm bảo
rằng không có tiền nào có thể bao giờ đó sẽ
tới. Đơn vị chuyển giao công nghệ của Đại học
Oxford, ISIS Innovation,
từng mở cho khái niệm này và đã phê chuẩn sự phát
hành. JPC và Nereus đã được tung ra vào năm 2007 và 2008
một cách tương ứng, cả 2 đều theo giấy phép GPLv2, và
công nghệ đằng sau phần mềm từng được cấp phép
thương mại vào tháng 12/2008.
Kết
luận, Rhys đã thể hiện quan điểm rằng tương lai của
phần mềm là tất cả về việc lấy tiền dòng xuôi: có
các khách hàng đi tới các lập trình viên, muốn trả
tiền cho giá trị mà họ có thể đã thấy rồi, tránh
những khuyến khích ăn cắp vốn dĩ với các bản sao số
có lấy tiền. Ông đã khuyên các đại biểu 'yêu cầu
không phải là liệu có mở nguồn, mà hỏi liệu có KHÔNG
mở nguồn' và để xem sự phát triển của điện toán
đám mây, nói rằng nó 'sẽ trở thành tiêu chuẩn'.
Quản lý một quỹ
có chứa mã của bạn
David
Wood, từ Symbian Ltd, đã trình bày cuối cùng, đã mô
tả thông tin về Quỹ Symbian (Symbian
Foundation), một tay chơi chính trong thị trường điện
thoại thông minh. Tập trung trước hết vào phía kinh doanh
vận hành, ông đã mô tả như là các cơ hội di động
'khổng lồ' sẵn sàng cho Symbian. Tuy nhiên, có những thách
thức phải vượt qua, bao gồm cả những hạn chế vật
lý của kích cỡ màn hình và vòng đời của pin, cùng với
những vấn đề tương tác với người sử dụng như sự
phức tạp của các ứng dụng và chức năng không được
làm để truy cập dễ dàng. Việc đáp ứng được các
thách thức đó đòi hỏi đầu vào của nhiều lập trình
viên, cùng với thiện chí ôm lấy một cộng đồng nguồn
mở và một hệ sinh thái phù hợp.
Nhìn
lại, David đã mô tả con đường của Symbian hướng tới
việc ôm lấy nguồn mở. Một bước chính từng là áp
dụng môi trường phát triển được tích hợp - IDE
(Integrated Development Environment) Eclipse,
cuối cùng nó đã dẫn tới sự tạo ra họ các IDE Carbide
vào năm 2005. Symbian bây giờ là một thành viên của Quỹ
Eclipse (Eclipse Foundation)
và đã đóng góp thời gian và phần mềm của các lập
trình viên vào một số dự án.
Symbian Ltd đã phát
hành hệ điều hành Symbian như PMNM theo quyền sở hữu
của Quỹ Symbian. Nó đã chọn giấy phép Eclipse
Public License (EPL) để bao trùm phát tán nguồn mở cuối
cùng cho mã của nó, để giảm sự phân mảnh phần mềm
- sự phân mảnh ở đây tham chiếu tới số lượng lớn
các hệ điều hành khác nhau trong thị trường thiết bị
di động. David đã nói ra những vấn đề có liên quan tới
tình trạng hỗn loạn này và đã giải thích cách mà sự
dịch chuyển của Symbian trong nguồn mở có thể giúp
được.
Trước
hết, ông đã chỉ ra rằng sự phân mảnh có thể có
những hậu quả khó chịu cực kỳ, thậm chí dù nó cũng
có thể đôi khi dường như có lợi. 'Khả năng rẽ nhánh'
(thực tế của việc sản xuất các phiên bản phần mềm
song song khác nhau) là, theo nhận thực của công chúng, hầu
hết thường có liên quan tới PMTDNM, thậm chí sản xuất
bên trong dự án đóng cho tới bây giờ như Symbian, các
nhà sản xuất thiết bị khác nhau có thể thường sản
xuất các bản 'rẽ nhánh' nội bộ mã của nền tảng đó
để làm việc với các vấn đề của riêng họ và không
đóng góp chúng trở ngược lại cho dự án trung ương.
Trong khi điều này đã giúp họ giải quyết các vấn đề
ngắn hạn một cách nhanh chóng, về lâu dài nó sản xuất
ra các phiên bản mới của hệ điều hành mà đã giải
quyết được các nhu cầu của tất cả các nhà sản xuất
thiết bị khó khăn hơn. Nói chung, việc cấp phép PMTDNM
làm cho dạng này của sự phân mảnh dễ dàng hơn. Ở mức
độ nào đó, sử dụng các giấy phép 'copyleft' có thể
giúp giảm nhẹ chống lại rủi ro này.
Nền tảng của Quỹ
Symbian hiện đang đi qua giai đoạn chứng minh, cuối cùng
nhằm vào một phát hành tuân thủ đầy đủ EPL vào tháng
06/2010. Trong lúc chờ đợi, Quỹ đang vận hành như một
dự án 'nguồn cộng đồng', với một giấy phép chỉ mở
rộng cho các thành viên của dự án, những người trả
phí để tham gia vào Quỹ.
Trong
phần kết luận, David nhắc lại các nguyên tắc được
đưa ra trong các phiên trước, nhấn mạnh tầm quan trọng
của chế độ người tài lãnh đạo trong một dự án
PMTDNM, vượt qua và trên cả những đóng góp tài chính,
và nhấn mạnh rằng sự minh bạch sẽ mở rộng các qui
trình của dự án cũng như mã.
Thảo luận phiên
chuyên đề
David Wood cùng với
Rhys Newman, Rowan Wilson và Steve
Lee, một chuyên gia về khả năng truy cập trong PMTDNM,
có trong một thảo luận phiên chuyên đề. Một đại biểu
đã hỏi một câu cũ quen thuộc: 'Liệu
mã nguồn mở có là một rủi ro về an ninh?' Câu trả lời
của Rhys đã nêu đặc trưng phát hành nguồn mở như một
tuyên bố về sự tin cậy của các tác giả trong an inh mã
của họ, trong khi Steve đã chỉ ra rằng nhiều dự án
PMTDNM là tích cực và lanh lẹ trong việc đáp trả của
chúng đối với các vấn đề, nên có thể được sửa
nhanh chóng. David đã trả lời với một câu chuyện cười
về một vấn đề an ninh gần đây của Symbian, và tự
hỏi to liệu đi trên con đường PMTDNM nghĩa là nhiều hơn
hay ít hơn các sự cố như vậy hay không. Một đại biểu
đã trả lời cho câu hỏi đó bằng việc nêu ví dụ về
sử dụng của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ một Linux được
tùy biến thích nghi như là nền tảng điện toán an ninh
của họ.
Cuộc
thảo luận sống động tiếp tục, khi hội thảo đi tới
lúc kết thúc. Trong số những câu hỏi còn lại là liệu
các nhà đầu tư rủi ro có cần được giáo dục về
đánh giá của họ về khả năng khai thác phần mềm, tập
trung đặc biệt vào tiêu dùng mà chỉ một bằng sáng chế
phần mềm cũng có thể đảm bảo rằng phần mềm đó
được khai thác có lợi nhuận hay không.
Kết luận
Phán
quyết: về tổng thể, một hội thảo vững chắc với
nhiều đồ ăn cho suy nghĩ. Trong khi khu vực giáo dục
thường nghĩ sẽ bị cách li khỏi tính nghiêm ngặt của
thế giới kinh doanh, thì các trình bày của OSS Watch và
những người khách của họ dường như chỉ ra khác.
Chuyến đi của Ross và Rowan qua các mô hình kinh doanh và
bền vững phù hợp của PMTDNM đã chỉ ra rằng có một
phổ các cơ hội sẵn sàng cho các tác giả phần mềm hàn
lâm, trải từ sự tạo ra các cộng đồng hàn lâm mới
cho tới sự tạo ra [các thực thể mới] và thương mại
hóa đầy đủ. OSS Watch có thể giúp nhận diện đâu là
nơi mà các mô hình khai thác có liên quan tới PMTDNM là
phù hợp, và đâu là nơi mà chúng có thể không phù hợp.
Rhys Newman đã minh họa một con đường hợp lý cho một
mẩu phần mềm từ công cụ hàn lâm tới tập trung vào
lợi ích thương mại. David
Wood đã chỉ ra cho chúng ta rằng, từ phía khác của hàng
rào, các doanh nghiệp phần mềm lớn và thành công đang
ngày càng nhìn vào dạng các mô hình 'đổi mới mở'
hướng
vào cộng đồng
(bản
dịch tiếng Việt)
phản chiếu các thực tiễn truyền thống của sự tự do
và cộng tác của giới hàn lâm.
A
report from the OSS Watch Business and Sustainability Models workshop
at the University of Oxford, 12 January 2009, by Pete Cooper.
I
was fortunate enough to attend a sold-out OSS Watch event recently.
The workshop, Business
and Sustainability Models Around Free and Open Source Software,
was held at OSS Watch’s central Oxford headquarters, deep in the
maze-like Oxford University Computing Services building. My first
thoughts, even before the event, were mostly questions:
- How would OSS Watch, primarily involved in HE and FE, approach the subject of commercial business models and still be authoritative?
- Would the non-advocacy stance taken by OSS Watch be adhered to, especially on the business and commercial aspects of the workshop?
- How can something that’s essentially freely available at no cost be sustainable? After all, commercial business models, at least in the traditional sense, largely rely on selling and/or trading a product and/or service for money and/or services in return.
The
workshop took the form of four presentations and a panel discussion,
described in the following report and covered in a live
blog. All presenters have also released their slides for free
download, under a Creative Commons Attribution-ShareAlike 2.0
licence, unless otherwise indicated. The slides are available from
the workshop’s web page, linked to above.
Ross
Gardler opened the workshop with an overview of FOSS. He began by
covering some of the history behind the two key FOSS organisations,
the Free Software Foundation (FSF)
and the Open Source Initiative,
and went on to describe the main types of FOSS
licence: a permissive
licence allows
inclusion of FOSS in non-FOSS projects and is most suited to
scenarios where the widest uptake is required. Examples of permissive
licences include the Apache
Software License and Modified
BSD. A copyleft
licence differs from a
permissive licence in that derivative works, should they be
distributed, must inherit the same licence as their parent project,
and copyleft-licensed works cannot be incorporated into non-FOSS
products. A copyleft licence is suitable for situations where FOSS
status is to be recognised and/or legally enforced. The GNU
General Public License is the best-known copyleft licence.
Partial
copyleft licensing is a
‘hybrid’ of copyleft and permissive licenses. The similarities
between copyleft and partial copyleft licensing include the
inheritance of licence for distributed derivative works; however,
partial copyleft-licensed work can be incorporated into non-FOSS
products, in a similar way to work governed by a permissive licence.
The Mozilla
Public License and GNU
Lesser General Public License (LGPL)
are examples of partial copyleft licences.
Ross
then turned to the subject of copyright ownership, one of the most
important issues to address when setting up a FOSS project, and
described the two primary models in use: centralised
and aggregated
ownership. In the case
of centralised ownership, copyright is owned by the project owner,
and contributors assign copyright of their work to the project owner.
Aggregated ownership has the project owner(s) retaining copyright of
their work, with contributors only licensing their code to the
project owner, rather than assigning their copyright. A third model,
distributed ownership,
is common in the academic world. This model is similar to aggregated
ownership, except that contributors do not license their
contributions to the project owner; rather, they place them under the
same licence as used by the project, allowing them to be
incorporated. This means, however, that the project owner cannot then
re-licence the project without securing the agreement of every
contributor; the aggregated ownership model does allow this, and is
therefore preferred.
Finally,
Ross talked about the importance of recording and retrieving
ownership information accurately. In conclusion, he stressed that
FOSS is not simply a set of software licensing terms but also a
methodology for software development, and that the collaborative
development communities enabled by the licensing are as important as
the licensing itself.
Next
up was Rowan
Wilson who, as a Research Officer at OSS Watch, focuses on the
legal aspects of FOSS. His talk
began with the vexed question of whether a FOSS licence constitutes a
contract between the developer and the user. While many argue that it
must, in order to have any effect, traditionally FOSS communities
have tended to downplay the potential contractual aspects of the
licences, instead arguing that they represent unilateral grants under
specific circumstances (for example, a grant of the right to copy,
provided that the copier preserves attribution information). He then
gave examples of unsuccessful legal challenges to FOSS licences,
notably Wallace vs
FSF and Jacobsen
vs Katzer, which showed that a FOSS licensor in the US is not
reliant on contract law to enforce the conditions in their FOSS
licence.
Moving
on to the exploitation of FOSS, Rowan explained that traditionally UK
research institutions have relied upon software patents for
exploiting their software IP, but warned against this, as all FOSS
licences, either explicitly or implicitly, grant rights to patents
that the software embodies to anyone in the world at essentially no
cost. He also pointed out that silently engulfing FOSS within your
own software can be a temptation but that it frequently ends in
expense and bad publicity.
The
first model Rowan presented was the building of an academic
community around a
particular software solution, explaining that ‘owning’ a tool
that is prominent in a particular problem domain can benefit the
reputation of the institution and academics in question, and foster
funding and industrial partnerships. Establishing a separate legal
entity or foundation
can also help greatly with successful exploitation of a FOSS project.
As well as being a workable business model, this allows donations and
a simpler approach to tax. Creating a separate body that assumes
legal responsibility for a project also helps manage legal risks to
the project and those associated with it: this insulates the project
from legal actions against its participants, and also insulates
participants from legal actions against the project. Perhaps even
more useful are the several FOSS umbrella
organisations in
existence that contain a number of projects, allowing administrative
resources to be pooled. Finally, community
source foundations,
although only tangentially related to FOSS, provide another route to
added value from software, wherein admission to the development
community is predicated on making a defined commitment of resources.
Next
up was consultancy.
The inherent low cost of acquisition of FOSS, along with its often
sparse documentation, can drive demand for consultancy and associated
bespoke software development. The increasing acceptance of software
as a service, or cloud
computing, can also be
a form of revenue stream. Provision of these services using some
copyleft-licensed software does not break any licence conditions, as
the software is not distributed in the traditional sense. Advertising
and/or referral services
are yet another possible source of income.
Rowan
then covered the more traditional FOSS exploitation techniques -
provision of paid support, selling proprietary add-ons and dual
licensing. While the first two are well-understood models, dual
licensing is often misunderstood. This involves releasing your
software under a strong copyleft licence such as the GNU GPL, and
also making available a version under an alternative licence,
allowing users who do not wish to be bound by the GNU GPL to pay for
the non-copyleft version. Generally, they would do this because they
wish to produce a product based on the code but not confined by a
copyleft licence.
Summing
up, Rowan emphasised
that FOSS and commercial software are not antagonistic or mutually
exclusive concepts. This view is borne out by the fact that FOSS
components and code are being increasingly accepted as part of
commercial software and echoed by Gartner’s
prediction that FOSS will form part of 80 per cent of commercial
software offerings by 2012.
The
afternoon session kicked off with Oxford University-based guest
speaker, Dr
Rhys Newman, who tied together a number of aspects of the morning
sessions, and showed how FOSS generated in academia can gain wide
industry interest and attract venture capital funding.
Rhys
is the brains behind two award-winning projects, Nereus
and JPC, Java
applications that work together to broker CPU time between donors and
users. His presentation focussed on the journey undergone by each of
the projects, from concept to delivery. As part of the research
process, Rhys had calculated the value of idle CPU time at $100
billion per year, which, considering the increasing global
requirement for computing time, represented a massive business
opportunity. However, without a large install base of JPC/Nereus,
users and potential users would not be convinced of project value -
and without users vying for CPU time on JPC/Nereus-enabled computers,
donors would not be convinced about joining the project. It seems,
therefore, that the answer was to distribute the client software for
nothing, in order to build up a user base; it was not stated whether
a more limited, paid-for distribution model was ever considered. As
Rhys acknowledged, doing so did not necessitate open sourcing, but
simply that people be able to download the client for free. In his
view, open sourcing adds a marketing element: he believes that
the sort of ‘technically aware’
people likely to be interested in running the software would show
more goodwill and interest were it open source. His other main reason
is that, were the software open source, potential investors could
commission independent analyses of the software if they chose to do
so.
He
was notably dismissive, though, of any role external code
contributions would be likely to play in the project. The main goal
was simply to ensure the software’s widest distribution, as revenue
to fund the project further would ultimately depend on the existence
of the user base. Once users had been persuaded and were loyal to the
cause, investment would be sought. Following successful investment,
the product would be more corporate friendly and organisations would
be more willing to trial it.
One
of Rhys’s biggest challenges was persuading the University that
essentially ‘giving away’ the software would bring back something
in return. His argument was not that ‘giving it away’ might bring
something back, but that not
releasing as open source would ensure that no
money would ever
come in. The technology transfer unit of Oxford University, ISIS
Innovation, was open to this concept and approved the release.
JPC and Nereus were launched in 2007 and 2008 respectively, both
under GPL v2 licences, and the technology behind the software was
licensed commercially in December 2008.
Concluding,
Rhys expressed the view that the future of software is all about
downstream charging: having customers coming to developers, wanting
to pay for value they can already see, avoids the inherent piracy
incentives with chargeable digital copies. He advised delegates to
‘ask not whether to open source, ask whether NOT to open source’
and to watch the development of cloud computing, stating that it
‘will become the standard’.
David
Wood, of Symbian Ltd, delivered the final presentation, which
described the formation of the Symbian
Foundation, a major player in the smartphone market.
Concentrating at first on the business side of the operation, he
described as ‘huge’ the mobile opportunities available to
Symbian. However, there are challenges to overcome, including the
physical limitations of screen size and battery life, along with such
user-interaction issues as complexity of applications and
functionality not made easily accessible. Meeting these challenges
requires the input of many developers, along with a willingness to
embrace an appropriate open source community and ecosystem.
Looking
back, David described Symbian’s journey towards embracing open
source. A key step was the adoption of the Eclipse
integrated development environment (IDE), which ultimately led to the
creation of the Carbide
family of IDEs in 2005. Symbian is now a member of the Eclipse
Foundation and has contributed developer time and software to a
number of projects.
Symbian
Ltd released the Symbian operating system as open source software
under the ownership of the Symbian Foundation. It selected the
Eclipse
Public License (EPL) to cover the eventual open source
distribution of its code, in order to reduce software fragmentation -
fragmentation here referring to the large number of differing
operating systems within the mobile device market. David spelled out
the problems associated with this chaotic situation and explained how
Symbian’s move into open source might help.
Firstly,
he pointed out that fragmentation can have extremely unpleasant
consequences, even though it may also sometimes seem beneficial.
‘Forkability’ (the practice of producing differing parallel
versions of software) is, in the public perception, most commonly
associated with FOSS, yet even within an up-to-now closed project
like Symbian, different device manufacturers would often produce
internal ‘forks’ of the platform code to deal with their own
problems and not contribute these back to the central project. While
this helped them solve short-term issues quickly, in the long run it
made producing new versions of the operating system that addressed
the needs of all device manufacturers more difficult. In general,
FOSS licensing makes this kind of fragmentation easier. To an extent,
the use of ‘copyleft’ licences can help to mitigate against this
risk.
The
Symbian Foundation platform is currently going through a proving
time, ultimately aiming for a fully EPL-compliant release in June
2010. In the interim, the Foundation is operating as a ‘community
source’ project, with a licence that extends only to project
members who pay a fee to join the Foundation.
In
conclusion, David reiterated the principles outlined in the previous
sessions, stressing the importance of meritocracy in a FOSS project,
over and above financial contributions, and emphasising that
transparency should extend to project processes as well as code.
David
Wood was joined by Rhys Newman, Rowan Wilson and Steve
Lee, an expert in accessibility within FOSS, for a panel
discussion. One delegate asked an old favourite: ‘Is open source
code a security risk?’ Rhys’s reply characterised open source
release as a statement of confidence by the authors in the security
of their code, while Steve pointed out that many FOSS projects are
active and agile in their response to issues, so can be fixed
quickly. David replied with an anecdote about a recent Symbian
security issue, and wondered aloud if going the FOSS route would mean
more or fewer such incidents. A delegate responded to the question by
citing the example of the US National Security Agency’s use of an
adapted Linux as their secure computing platform.
Lively
discussion continued, as the workshop drew to a close. Among the
remaining questions was whether venture capitalists needed to be
educated on their assessment of software exploitability,
concentrating particularly on the assumption that only a software
patent could guarantee that software was profitably exploitable.
The
verdict: overall, a solid workshop with plenty of food for thought.
While the education sector is often thought to be isolated from the
rigours of the world of business, OSS Watch’s presentations and
those of their guests seemed to indicate otherwise. Ross and Rowan’s
tour through the relevant FOSS business and sustainability models
showed that there is a spectrum of opportunities available to
academic software authors, ranging from creation of new academic
communities to full spin-out and commercialisation. OSS Watch can
help to identify where FOSS-related exploitation models are
appropriate, and where they may not be. Rhys Newman exemplified a
reasoned path for a piece of software from academic tool to focus of
commercial interest. David Wood showed us that, from the other side
of the fence, large and successful software businesses are
increasingly looking to the kind of community-focused
‘open innovation’ models that mirror traditional practices of
academic freedom and collaboration.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.