Tiếp
theo bài kỳ trước, giới thiệu “Những
khái niệm cơ bản liên quan tới tài nguyên giáo dục mở”
(OER) trên Tin học & Đời sống số tháng 10/2012, bài
kỳ này tiếp tục mạch các câu hỏi liên quan tới khía
cạnh pháp lý của bản thân OER và những quan tâm có khả
năng của những người tham gia sáng tạo OER.
1.
LIỆU TÔI CÓ NÊN LO LẮNG VỀ VIỆC 'VỨT BỎ' SỞ HỮU
TRÍ TUỆ CỦA TÔI?
[Chưa
chắc lý do nằm ở sự lo mất các quyền sở hữu trí
tuệ, mà có thể nằm ở sự yếu kém về tri thức chuyên
môn và chất lượng của các tư liệu giáo dục và sự
sợ hãi của các tác giả khi các tư liệu đó được đưa
ra ánh sáng của sự soi xét ngang hàng giữa các đồng
nghiệp và học viên của họ một cách rộng rãi].
Một
lo lắng chính đối với các nhà giáo dục và các nhà
quản lý cao cấp của các viện trường trong giáo dục về
khái niệm OER có liên quan tới việc 'vứt bỏ' sở hữu
trí tuệ, với sự mất mát tiềm tàng lợi lộc thương
mại có thể tới từ đó. Điều này thường được kết
hợp với sự băn khoăn có liên quan tới việc những
người khác sẽ lợi dụng ưu thế một cách không công
bằng về sở hữu trí tuệ, hưởng lợi bằng việc bán
nó, ăn cắp nó (như, truyền nó đi như là tác phẩm của
riêng họ), hoặc khai thác nó. Những lo lắng đó là hoàn
toàn có thể hiểu được.
Trong
một số trường hợp, tất nhiên, khi các nhà giáo dục
đưa ra mối lo lắng này, thì thực sự nó đánh dấu một
mối lo khác - đó là, việc chia sẻ các tư liệu giáo dục
của họ sẽ mở tác phẩm của họ ra cho sự soi xét kỹ
lưỡng của những người đồng cấp của họ (và những
người đồng cấp của họ có thể xem tác phẩm của họ
là có chất lượng kém). Liệu có hay không mối lo đó
được chứng minh, điều quan trọng phải xác định được
động lực thực sự của các mối lo đó của các nhà
giáo dục là gì. Khi mối lo đó là sự mất mát cơ hội
thương mại, thì điều này đòi hỏi một câu trả lời
đặc biệt (liên quan tới những động lực cho việc chia
sẻ). Nhưng khi điều này đang ngụy trang cho một mối lo
về sự soi xét kỹ lưỡng của các đồng nghiệp và học
viên, thì nó cần phải được làm theo cách khác (thường
sẽ có liên quan tới một số chính sách hoặc động lực
quản lý để vượt qua được sự kháng cự để thay
đổi).
Khi
ngày càng có nhiều viện trường hơn trên thế giới, ở
các mức độ khác nhau, đang đòi hỏi các nhà giáo dục
của họ chia sẻ các tư liệu nhiều hơn theo các giấy
phép mở, thì các kinh nghiệm rõ ràng thể hiện rằng
việc mở sở hữu trí tuệ ra cho soi xét kỹ lưỡng ngang
hàng đang có tác động cải thiện chất lượng các tư
liệu dạy và học. Điều này xảy ra cả vì các nhà giáo
dục có xu hướng đầu tư thời gian vào việc cải thiện
các tư liệu của họ trước khi chia sẻ chúng cởi mở
và cả vì những ý kiến phản hồi họ nhận được từ
sự soi xét kỹ lưỡng của các đồng nghiệp và học
viên sẽ giúp cho họ thực hiện những cải tiến tiếp
theo.
Trong
khi một tỷ lệ phần trăm nhỏ các tư liệu dạy và học
có thể - và sẽ tiếp tục - tạo ra doanh số thông qua
bán hàng trực tiếp, thì thực tế từng luôn là tỷ lệ
phần trăm các tư liệu dạy và học có giá trị thương
mại bán lại là tối thiểu; cũng có sự suy giảm tiếp
khi ngày càng nhiều hơn tư liệu giáo dục được làm cho
tự do truy cập được trên Internet. Nhiều nội dung mà
trước đó có khả năng bán được sẽ đánh mất giá
trị kinh tế của nó trong khi nơi để bán các nội dung
giáo dục chung chung có lẽ sẽ trở thành được chuyên
biệt hóa hơn.
Tuy
nhiên, nếu tài nguyên thực sự có tiềm năng sẽ được
khai thác cho lợi lộc thương mại thông qua bán tài nguyên
đó, thì nó sẽ vẫn có khả năng - và được khuyến
khích - đối với một nhà giáo dục (hoặc một viện
trường) để giữ lại bản quyền dạng tất cả các
quyền được lưu giữ đối với tài nguyên đó. Các
chính sách về quyền sở hữu trí tuệ (IPR) và bản quyền
cho giáo dục cần phải là đủ mềm dẻo để cho phép
nhà giáo dục và/hoặc viện trường giữ lại bản quyền
dạng tất cả các quyền được giữ lại cho những tài
nguyên có giá trị thương mại tiềm tàng đó.
Ngày
càng trở nên hiển nhiên rằng, ở phía dạy và học, các
viện trường giáo dục từng đã thành công chắc đúng
là chủ yếu làm như vậy bằng việc hiểu rằng giá trị
giáo dục tiềm tàng thực sự của họ nằm không phải
trong bản thân nội dung (mà ngày càng có sẵn với số
lượng lớn trên trực tuyến), mà trong khả năng của họ
để chỉ dẫn cho các học viên một cách có hiệu quả
thông qua các tài nguyên giáo dục với các đường hướng
dạy và học được thiết kế tốt, đưa ra được sự
hỗ trợ có hiệu quả cho các học viên (bất kể đó là
trong các khóa thực hành, các sách hướng dẫn, các buổi
phụ đạo cá nhân hay trên trực tuyến), và đưa ra đánh
giá tri thức và ý kiến phản hồi có giá trị cho các
học viên trong trình bày của họ (cuối cùng dẫn tới
một số hình thức công nhận). Dù điều này dường như
là phản trực giác, vì thế, khi các mô hình kinh doanh
được thay đổi bằng sự hiện diện của công nghệ
thông tin và truyền thông (CNTT-TT), ngày càng nhiều viện
trường khác sử dụng các tư liệu của họ, thì điều
này sẽ càng phục vụ nhiều hơn để xây dựng uy tín
của viện trường và vì thế lôi cuốn được các học
viên mới.
Đưa
ra điều này, điều quan trọng cho những người nắm giữ
bản quyền các tư liệu giáo dục xem xét thận trọng
những lợi ích thương mại mà họ có thể thấy được
trong việc chia sẻ các tư liệu của họ một cách cởi
mở. Tất nhiên, những lợi ích ban đầu của việc khai
thác OER nên là giáo dục, nhưng vấn đề chia sẻ nội
dung cởi mở cũng có thể được xem như một chiến lược
để bảo vệ bản thân theo một cách thức thương mại.
Những
lợi ích sau có thể sinh ra từ việc chia sẻ nội dung
theo một giấy phép mở:
- Khi các nội dung được số hóa có thể thật dễ dàng được chia sẻ giữa các học viên và viện trường, thì việc chia sẻ nó một cách công khai theo một giấy phép mở là cách an toàn nhất để bảo vệ IPR và bản quyền của tác giả; giấy phép có thể đảm bảo rằng, khi nội dung được chia sẻ, thì nó giữ lại được sự ghi nhận công cho tác giả gốc ban đầu. Việc chia sẻ cởi mở nội dung có thể phát hiện ra sự ăn cắp nhanh chóng hơn, bằng việc làm cho các tư liệu gốc ban đầu đó dễ dàng truy cập hơn. Hơn nữa, việc phát hành các tư liệu theo một giấy phép mở cũng làm giảm động lực đối với những người khác nói dối về nguồn của các tư liệu vì họ có phép để sử dụng chúng.
- Việc chia sẻ các tư liệu cung cấp các cơ hội cho viện trường đưa ra thị trường các dịch vụ của họ. Các viện trường giáo dục mà thành công về kinh tế trong một môi trường nơi mà nội dung đã và đang được số hóa nhiều và ngày càng dễ dàng để truy cập trên trực tuyến có lẽ đúng đã làm như vậy vì họ hiểu được rằng giá trị giáo dục tiềm tàng thực sự của họ nằm không phải trong bản thân nội dung, mà trong việc đưa ra các dịch vụ có liên quan được các học viên của họ đánh giá. Những thứ đó có thể bao gồm: việc chỉ dẫn có hiệu quả cho các học viên thông qua các tài nguyên giáo dục (thông qua các đường hướng dạy và học được thiết kế tốt); đưa ra sự hỗ trợ có hiệu quả cho các học viên (như các khóa thực hành, các sách hướng dẫn, các buổi phụ đạo cá nhân hoặc trên trực tuyến); và đưa ra sự đánh giá tri thức và ý kiến phản hồi có giá trị cho các học viên về sự trình bày của họ (cuối cùng dẫn tới một số hình thức công nhận). Trong môi trường đó, càng nhiều viện trường khác sử dụng các tư liệu của họ, thì điều này sẽ càng phục vụ nhiều hơn để xây dựng uy tín của viện trường và vì thế lôi cuốn được các học viên mới.
- Đối với cá nhân các nhà giáo dục, những động lực thương mại phù hợp hơn cho việc chia sẻ nội dung cởi mở có lẽ đúng nhất sẽ tuôn chảy khi các viện trường có các chính sách tưởng thưởng cho các hoạt động như vậy một cách phù hợp. Cho tới nay, nhiều chính sách quốc gia và viện trường và khung ngân sách đã có xu hướng, tệ nhất, là cá nhân hóa sự cộng tác và chia sẻ cởi mở tri thức (bằng việc loại bỏ những luồng doanh thu có khả năng khi tri thức được chia sẻ cởi mở) hoặc, tốt nhất, là phớt lờ nó (như nhiều trường đại học làm bằng việc tưởng thưởng cho xuất bản phẩm nghiên cứu hơn là những theo cách thức khác). Vì thế, đối với hầu hết các nhà giáo dục, động lực nằm trong việc thay đổi các chính sách và các khung ngân sách của viện trường và quốc gia sao cho chúng tưởng thưởng cho sự cộng tác và chia sẻ cởi mở tri thức.
- Thậm chí nếu các chính sách và các khung ngân sách của các viện trường và quốc gia không tưởng thưởng cho sự cộng tác và chia sẻ cởi mở tri thức, thì vẫn còn có những động lực cho những nhà giáo chia sẻ cởi mở các tài nguyên của họ. Các giấy phép mở tối đa hóa khả năng chia sẻ nội dung đang diễn ra theo một cách thức minh bạch bảo vệ cho các quyền đạo đức của các tác giả của các nội dung. Hơn nữa, những người mà đang tìm cách rung hàng rào, bảo vệ, và ẩn dấu các nội dung và nghiên cứu giáo dục của họ có lẽ đúng là sẽ đặt ra những hạn chế trong chính sự nghiệp giáo dục của chính họ. Họ cũng sẽ ngày càng bị loại trừ khỏi các cơ hội để cải thiện thực tiễn dạy học và tri thức đặc thù theo lĩnh vực của họ qua việc chia sẻ và cộng tác với các mạng của các nhà giáo dục đang gia tăng trên khắp thế giới. Những người chia sẻ các tư liệu cởi mở đã có được rồi các cơ hội đáng kể để xây dựng uy tín của riêng họ thông qua các phương tiện trực tuyến (dù, tất nhiên, với mức độ mà ở đó họ quản lý điều này sẽ vẫn phụ thuộc vào chất lượng của những gì họ đang chia sẻ).
2.
OER CÓ THỰC SỰ LÀ TỰ DO?
Vấn
đề về quyền tự do và định nghĩa của nó từng được
tranh luận rộng rãi khi nói về các giấy phép mở, có
khả năng đáng kể nhất trong môi trường phần mềm tự
do nguồn mở (PMTDNM). Những định nghĩa của PMTDNM chỉ
ra 4 quyền tự do (http://www.gnu.org/philosophy/free-sw.html):
- Tự do chạy chương trình, vì bất kỳ mục đích gì (tự do 0).
- Tự do nghiên cứu cách mà chương trình làm việc, và áp dụng nó cho các nhu cầu của bạn (tự do 1).
- Tự do phân phối lại các bản sao sao cho bạn có thể giúp được người hàng xóm của bạn (tự do 2).
- Tự do cải tiến chương trình, và phát hành các cải tiến của bạn cho công chúng, sao cho toàn bộ cộng đồng hưởng lợi (tự do 3).
Những
cân nhắc tương tự áp dụng khi xem xét các giấy phép
cho OER. Tuy nhiên, có chiều đặc thù khác của 'tự do'
OER mà đảm bảo cho thảo luận rõ ràng, và đó là lưu ý
về chi phí. Nhiều người khởi xướng OER viện lý rằng
lợi ích chủ chốt của nội dung mở là vì nó là 'tự
do' (như, nó không lấy bất kỳ chi phí nào để tải về
- đặt sang bên các chi phí băng thông, tất nhiên - và sử
dụng). Điều này là đúng theo nghĩa đen: theo định
nghĩa, nội dung mở có thể được chia sẻ với những
người khác mà không phải hỏi xin phép và không phải
trả các phí giấy phép. Tuy nhiên, những khẳng định đơn
giản hóa rằng OER là tự do - và mở rộng ra rằng sử
dụng OER sẽ cắt giảm các chi phí phân phối giáo dục -
là che đi một số cân nhắc quan trọng về chi phí.
Các
viện trường giáo dục mà nghiêm túc về dạy và học sẽ
cần đảm bảo rằng việc họ tiêu tốn nhân lực và
những chi phí khác có liên quan phản ánh một nỗ lực
bền vững để đầu tư trong việc tạo ra các môi trường
dạy và học có hiệu quả hơn cho các học viên của họ.
Điều này sẽ đòi hỏi sự đầu tư, trong số những
điều khác, những thứ sau đây:
- Phát triển và cải tiến chương trình giảng dạy.
- Thiết kế khóa học và chương trình liên tục.
- Lên kế hoạch cho các phiên liên lạc với các học viên.
- Phát triển và mua sắm các tư liệu dạy và học có chất lượng.
- Thiết kế các hoạt động đánh giá có hiệu quả.
Nhiều
viện trường giáo dục còn chưa tiến hành các đầu tư
như vậy theo một cách thức có kế hoạch và có chủ
tâm, mà điều đó là một phần cơ bản của chức năng
cốt lõi của họ.
Như
vậy, cách mà điều này có liên quan tới OER là thế nào?
Khi các viện trường giáo dục ra các quyết định chiến
lược để gia tăng các mức đầu tư của họ, thì cách
có hiệu quả nhất về chi phí để làm điều này là ôm
lấy các môi trường cấp phép mở và khai thác OER đang
tồn tại.
Vì
thế, cam kết với OER ngụ ý đầu tư gia tăng trong việc
dạy và học, mà những hứa hẹn để gia tăng hiệu quả
và năng suất của các đầu tư đó bằng việc cung cấp
các cách thức mới để phát triển các chương trình, các
khóa học và tư liệu tốt hơn. Điều quan trọng, điều
này ngụ ý một tiếp cận hướng nhu cầu đối với
OER, nơi mà lý do cơ bản ban đầu cho việc ôm lấy các
môi trường cấp phép mở không phải là để đưa ra một
vốn trí tuệ của riêng một viện trường, mà là để
lôi cuốn sự giàu có đang gia tăng của OER cởi mở có
sẵn để cải thiện chất lượng dạy và học của riêng
viện trường đó.
Việc
nắm lấy một tiếp cận theo nhu cầu có thể được
chứng minh cho những cải tiến chất lượng có thể tuôn
chảy từ đó. Hơn nữa, tiếp cận này đối với sự
phát triển các tư liệu là có hiệu quả về chi phí. Ưu
thế xa hơn là, như một sự rõ ràng của sản phẩm, nó
sẽ thường dẫn tới những chỉ dẫn bắt đầu để
chia sẻ tỷ lệ phần trăm đang gia tăng các tư liệu giáo
dục của riêng họ trên trực tuyến, được phát hành
theo một giấy phép mở. Hầu hết các viện trường và
các nhà giáo dục theo bản năng đang bồn chồn lo lắng
về điều này, nhưng bằng chứng là hiện giờ đang bắt
đầu nổi lên những viện trường mà chia sẻ các tư
liệu của họ trên trực tuyến đang lôi cuốn được sự
quan tâm gia tăng từ các học viên trong việc ghi danh vào
các chương trình của họ. Điều này tới lượt nó mang
lại những lợi ích thương mại tiềm tàng, vì việc chia
sẻ các tư liệu trên trực tuyến làm gia tăng 'tính trực
quan' của một viện trường trên Internet, trong khi cũng
cung cấp cho các học viên nhiều cơ hội hơn để đầu
tư cho chất lượng kinh nghiệm giáo dục mà họ sẽ nhận
được ở đó. Khi những học viên tại cả các quốc gia
đã phát triển và đang phát triển đang dựa ngày một
nhiều vào việc sử dụng Internet để nghiên cứu các lựa
chọn giáo dục của họ, thì việc chia sẻ OER có thể
tốt khi trở thành công cụ marketing ngày càng quan trọng
cho các viện trường.
Quan
trọng nhất, việc khai thác OER đòi hỏi các viện trường
phải đầu tư – vào sự phát triển chương trình, khóa
học và các tư liệu. Các chi phí sẽ bao gồm thời gian
của mọi người trong việc phát triển chương trình giảng
dạy và các tư liệu, việc tùy biến thích nghi các OER
hiện đang có, làm việc với việc cấp phép bản quyền
và .v.v. Các chi phí bao gồm các chi phí có liên quan, như
hạ tầng CNTT-TT (cho các mục đích chia sẻ nội dung và
ghi công các tác giả), băng thông, tổ chức các hội thảo
và các cuộc họp về phát triển nội dung, .v.v.
Tuy
nhiên, những chi phí đó là một chức năng của việc đầu
tư vào các môi trường dạy và học tốt hơn, chứ không
phải là một chức năng của việc đầu tư vào OER. Tất
cả các chính phủ và các viện trường giáo dục trong
tất cả các khu vực giáo dục, bất chấp chế độ phân
phối ban đầu của họ, cần phải tiến hành thực hiện
các đầu tư đó trên cơ sở liên tục nếu họ là nghiêm
túc về việc cải thiện chất lượng dạy và học. Bên
trong khung về việc đầu tư vào thiết kế và phát triển
các tư liệu, dù, hầu hết tiếp cận có hiệu quả về
chi phí là để khai thác OER. Điều này là vì:
- Nó hạn chế sự cần thiết của nỗ lực đúp bản bằng việc xây dựng trên những gì đã tồn tại ở đâu đó rồi.
- Nó loại bỏ các chi phí thương thảo và làm sáng tỏ về bản quyền; và
- Qua thời gian, nó có thể lôi kéo các cộng đồng thực tế mở trong việc cải thiện và đảm bảo chất lượng liên tục.
Trong
khi có khả năng là một điều xứng đáng, nếu khát vọng
hơi một chút duy tâm để làm cho tất cả các nội dung
giáo dục sẵn sàng miễn phí, thì những quyết định
theo nguyên tắc để loại trừ các nội dung thương mại
khỏi sự cân nhắc trong các môi trường dạy và học có
lẽ là không phù hợp. Một quan điểm như vậy bỏ qua
thực tế rằng có nhiều tư liệu giáo dục chất lượng
cao có sẵn để mua và rằng, trong những hoàn cảnh nhất
định, việc sử dụng chúng có thể có khả năng kham
được hơn so với những ý định sản xuất nội dung đó
một cách cởi mở. Vì thế, cách có hiệu quả nhất về
chi phí để phát triển và mua sắm các tài nguyên để sử
dụng trong việc dạy và học là để khai thác tất cả
các lựa chọn có sẵn, hơn là việc loại trừ một số
về nguyên tắc.
Các
nội dung OER và thương mại có thể vì thế được sử
dụng cùng nhau trong các khóa học và các chương trình, dù
những người phát triển khóa học cần phải thận trọng
không tạo ra những xung đột về cấp phép bằng việc
tích hợp các tư liệu với các điều kiện cấp phép
khác nhau khi thiết kế các tư liệu dạy và học. Điều
này vì thế dường như là một thực tiễn đáng giá, tuy
nhiên, trong quá trình thiết kế và phát triển các khóa
học và chương trình giáo dục, hãy cân nhắc tất cả
các khả năng khi phát triển và mua sắm các nội dung. Tất
yếu, vì hậu quả của việc số hóa các nội dung và sự
tăng trưởng của các nội dung có sẵn cởi mở trên trực
tuyến, các mô hình kinh doanh xuất bản giáo dục sẽ dịch
chuyển và pha trộn các nội dung mở và các nội dung
thương mại sẽ tiếp tục thay đổi.
4.
TÔI CÓ THỂ THAY ĐỔI OER BAO NHIÊU CHO CÁC MỤC ĐÍCH CỦA
TÔI?
Trong
hầu hết các trường hợp, một người sử dụng có phạm
vi rộng khổng lồ để áp dụng OER cho phù hợp các nhu
cầu theo ngữ cảnh ở những nơi mà giấy phép cho phép
sự tùy biến thích nghi đó. Tuy nhiên, nếu giấy phép hạn
chế sự tùy biến thích nghi (ví dụ giấy phép Creative
Commons với hạn chế 'Không phái sinh'), thì những người
khác có thể không sửa đổi được tài nguyên đó theo
bất kỳ cách gì. Nó sẽ phải được sử dụng 'như nó
có'. Quyền này không thường được giữ lại trong OER.
Đa
số lớn OER được xuất bản chào đón những người sử
dụng tùy biến thích nghi tài nguyên gốc ban đầu. Những
cách thức chung theo đó OER có thể được thay đổi bao
gồm những thứ sau:
- Pha trộn: Một số OER được pha trộn cùng nhau và nội dung bổ sung thêm được đưa vào để cùng tạo ra một tài nguyên mới. Điều này là phổ biến khi những người thiết kế khóa học cần phát triển các tư liệu và tài nguyên để khớp với chương trình giảng dạy hoặc chương trình bản địa địa phương. Một mối quan tâm chung là hiếm khi tìm được OER đang tồn tại mà phù hợp tuyệt vời được 'như nó có'.
- Tùy biến thích nghi: Điều này xảy ra khi một OER được sử dụng và nhiều sự tùy biến thích nghi được phát triển để phù hợp cho nhiều ngữ cảnh. Có thể sẽ là ngôn ngữ được dịch sang các ngôn ngữ khác mà sự tùy biến thích nghi thường đòi hỏi các trường hợp điển hình / các ví dụ bản địa sẽ được bổ sung thêm vào để làm cho các tư liệu phù hợp cho các học viên trong một ngữ cảnh đặc thù.
- Trích xuất tài sản: Cũng có khả năng trích xuất chỉ một số tài sản của một tài nguyên hoặc qui trình và sử dụng chúng trong một ngữ cảnh hoàn toàn khác. Điều này là đặc biệt đúng đối với các yếu tố phương tiện như các ảnh chụp, các hình minh họa, và các đồ thị, khi mà những người phát triển thường thiếu các kỹ năng hoặc các tài nguyên để phát triển các phiên bản của riêng họ đối với những công cụ trực quan được sử dụng phổ biến.
TÓM LƯỢC
Bài
viết đề cập tới những khía cạnh pháp lý mà các tác
giả của các OER thường gặp phải, phân tích những lợi
thế và thách thức của OER đối với các tác giả và
các cơ sở giáo dục, khẳng định OER vừa không đồng
nghĩa với việc loại bỏ các tư liệu giáo dục có tiềm
năng thương mại, vừa không đồng nghĩa với việc chỉ
nhằm mục đích cắt giảm chi phí đầu tư cho giáo dục,
mà là một nỗ lực bền vững để đầu tư vào việc
tạo ra các môi trường dạy và học có hiệu quả hơn
cho các học viên thông qua việc đầu tư liên tục và có
hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng các tư liệu giáo
dục, vì thế cũng nâng cao được uy tín của việc dạy
và học để thu hút được ngày càng nhiều các học viên
hơn nữa.
Bài
kỳ sau: Cách thức để khai thác OER có chất lượng
Lê
Trung Nghĩa
Dựa
theo: Chỉ dẫn cơ
bản về các
Tài nguyên Giáo dục Mở (OER)
Bài
đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng
11/2012, trang 60-63.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.