-->
Đã
3 số liên tục, kể từ số tháng 07 tới số tháng
09/2012, Tin học & Đời sống đã giới thiệu với các
bạn độc giả một chuỗi các bài về các giấy
phép mở Creative Commons cho các tư liệu sáng tạo mở,
về cách thức ghi
công - ghi nhận quyền (các) tác giả của các tư liệu
đó, và một chút về cách tìm
kiếm và sử dụng kho tư liệu mở khổng lồ bằng
tiếng nước ngoài trên thế giới theo một cách thức văn
minh và tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt
trong kỷ nguyên thông tin số hiện nay.
Loạt
bài đó đã gợi mở cho chúng ta một cách thức tiếp cận
với mục đích để không chỉ khai thác, sử dụng các
nguồn tài nguyên mở khổng lồ có sẵn và vô tận của
thế giới, mà còn hướng tới việc tạo ra, sản xuất
ra các kho tài nguyên mở tiếng Việt, phục vụ cho những
nhu cầu học tập nghiên cứu của người Việt, dựa vào,
trước hết, nguồn nhân lực khổng lồ của hơn 20 triệu
người Việt đang làm việc trong khu vực giáo dục hiện
nay, với sự trợ giúp của các công cụ CNTT-TT và, tất
nhiên, Internet.
Một
điều trùng hợp ngẫu nhiên xảy ra vừa mới đây đúng
theo cách tiếp cận này, là Hội
nghị
Tài
nguyên Giáo dục Mở - OER (Open
Education Resources)
Thế giới năm 2012 vừa được UNESCO tổ chức tại Paris,
thủ đô nước Pháp, từ 20-22/06/2012.
Bổ
sung thêm vào việc triển lãm các thực tiễn tốt nhất
thế giới trong các chính sách về OER, những sáng kiến
và các chuyên gia kỷ niệm lần thứ 10 diễn đàn UNESCO
2002 khi lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm “OER”, các
quốc gia thành viên của UNESCO đã nhất trí thông qua
Tuyên bố Paris về OER, kêu gọi các Chính phủ hỗ trợ
sự phát triển và sử dụng OER.
Tuyên
bố khuyến cáo các quốc gia thành viên UNESCO, trong đó có
Việt Nam:
- Khuyến khích nâng cao nhận thức và sử dụng OER.
- Tạo thuận lợi cho các môi trường sử dụng CNTT-TT.
- Tăng cường sự phát triển các chiến lược và chính sách về OER.
- Thúc đẩy sự hiểu biết và sử dụng các khung cấp phép mở.
- Hỗ trợ xây dựng năng lực vì sự phát triển bền vững các tư liệu học tập chất lượng.
- Khuyến khích các liên minh chiến lược về OER.
- Thúc đẩy sự phát triển và áp dụng OER trong các ngôn ngữ và ngữ cảnh văn hóa khác nhau.
- Thúc đẩy nghiên cứu về OER.
- Tạo thuận lợi cho việc phát hiện, tìm kiếm sử dụng và chia sẻ OER.
- Thúc đẩy việc cấp phép mở các tư liệu giáo dục được tạo ra từ ngân sách nhà nước.
Để
hưởng ứng lời kêu gọi trên, từ số này trở đi, Tin
học & Đời sống sẽ giới thiệu tới các bạn độc
giả loạt bài về OER và các vấn đề liên quan với mục
đích hướng tới việc xây dựng kho OER tiếng Việt.
Trước
khi đi vào phân tích toàn diện các vấn đề có liên quan
tới việc khai thác các cách thức sử dụng OER có hiệu
quả nhất, chúng ta sẽ đi qua một số câu hỏi thường
gặp với mục đích để làm quen nhanh chóng với OER và
những vấn đề liên quan đó. Bài này đưa ra những câu
hỏi đáp thường gặp liên quan tới những khái niệm cơ
bản xung quanh OER.
Ở
dạng đơn giản nhất của nó, khái niệm OER mô tả bất
kỳ tài nguyên giáo dục nào (bao gồm các chương trình
đào tạo, các tư liệu khóa học, các sách giáo khoa, các
video, các ứng dụng đa phương tiện và bất kỳ tư liệu
nào khác được thiết kế để sử dụng trong việc dạy
và học) mà là sẵn sàng cởi mở để các giáo viên và
học viên sử dụng mà không có nhu cầu đi kèm phải trả
phí bản quyền hoặc phí giấy phép.
Khái
niệm OER phần lớn tương tự như với một khái nhiệm
khác: Khóa học Mở - OCW (Open
CourseWare), dù khái niệm sau có thể được sử dụng
để tham chiếu tới một tập con có cấu trúc hơn về
OER. Một OCW được Nhóm OCW (OCW Consortium) định nghĩa như
là một xuất bản phẩm số tự do và mở các tư liệu
giáo dục chất lượng cao mức đại học. Những tư liệu
đó được tổ chức như các khóa học, và thường bao
gồm các tư liệu kế hoạch khóa học và các công cụ
đánh giá cũng như các nội dung theo chủ đề.
OER
đã nổi lên như một khái niệm với tiềm năng lớn để
hỗ trợ cho sự biến đổi giáo dục. Trong khi giá trị
giáo dục của nó nằm trong ý tưởng sử dụng các tài
nguyên như một phương pháp giao tiếp hữu cơ của các
chương trình giảng dạy trong các khóa giáo dục (như học
tập dựa vào tài nguyên), thì sức mạnh làm biến đổi
của nó nằm trong sự dễ dàng truy cập tới các tài
nguyên như vậy, khi được số hóa, có thể được chia
sẻ qua Internet. Điều quan trọng, chỉ có một yếu tố
khác biệt chủ chốt giữa OER và bất kỳ tài nguyên giáo
dục nào khác: giấy phép tạo thuận lợi để tái sử
dụng, tùy biến tiềm tàng, mà không có yêu cầu phải
xin phép trước từ người nắm giữ bản quyền.
OER
không đồng nghĩa với học tập trực tuyến hoặc học
tập điện tử e-learning, dù nhiều người mắc sai lầm
khi sử dụng các khái niệm đó lẫn với nhau.
Nội
dung được cấp phép mở có thể được sản xuất trong
bất kỳ vật mang nào: văn bản trên giấy, video, âm thanh
hoặc đa phương tiện dựa vào máy tính. Nhiều khóa học
e-learning có thể dựa vào OER, nhưng điều này không có
nghĩa là OER nhất thiết là e-learning. Quả thực, nhiều
tài nguyên mở đang được sản xuất ra hiện nay - trong
khi có khả năng chia sẻ trong một định dạng số - thì
chúng cũng có khả năng in ấn ra được. Đưa ra những
thách thức chung về băng thông rộng và sự kết nối tại
một số quốc gia đang phát triển, có thể thấy rằng
một tỷ lệ phần trăm cao các tài nguyên phù hợp cho
giáo dục đại học tại các quốc gia như vậy được
chia sẻ như những tài nguyên in ấn được ra giấy, hơn
là đang được thiết kế để sử dụng trong e-learning.
Dù
sử dụng OER có thể hỗ trợ cho học tập mở / giáo dục
mở (Open Learning/Open Education), thì 2 thứ này không là như
nhau. Làm cho 'giáo dục mở' hoặc 'học tập mở' trở
thành một ưu tiên có những tác động lớn hơn đáng kể
so với chỉ cam kết phát hành các tài nguyên là mở hoặc
sử dụng OER trong các chương trình giáo dục. Nó đòi hỏi
phân tích có hệ thống các hệ thống đánh giá và công
nhận, sự hỗ trợ của học viên, các khung chương trình
giảng dạy, các cơ chế để nhận thức trước việc
học, …, để xác định mức độ ở đó chúng cải
thiện hoặc ngăn trở tính mở.
Học
tập mở là một tiếp cận cho giáo dục, tìm kiếm để
loại bỏ tất cả những rào cản không cần thiết cho
việc học tập, trong khi nhằm tới để cung cấp cho học
viên cơ hội thành công hợp lý trong một hệ thống giáo
dục và huấn luyện được tập trung vào các nhu cầu đặc
thù của họ và được định vị trong nhiều lĩnh vực
học tập. Nó kết hợp vài nguyên tắc chủ chốt:
- Cơ hội học tập nên là suốt đời và nên nhấn mạnh cả vào giáo dục và huấn luyện.
- Qui trình học tập nên tập trung vào các học viên, xây dựng trên kinh nghiệm và khuyến khích suy nghĩ độc lập và tới hạn.
- Cung cấp việc học tập nên là mềm dẻo sao cho những học viên có thể ngày càng có khả năng lựa chọn được, ở đâu, khi nào, những gì và làm thế nào họ sẽ học, cũng như nhịp độ ở đó họ sẽ học.
- Các năng lực học được chứng minh trước đó, kinh nghiệm có trước đó nên được thừa nhận sao cho các học viên không nhất thiết bị ngăn cấm khỏi các cơ hội giáo dục chỉ vì thiếu các phẩm chất phù hợp;
- Các học viên nên có khả năng tích lũy sự công nhận từ các ngữ cảnh học tập khác nhau;
- Các nhà cung cấp nên tạo ra những điều kiện cho một cơ hội công bằng về thành công của những học viên.
Tất
cả danh sách này miêu tả, trong khi sử dụng có hiệu quả
OER có thể đưa ra sự thể hiện thực tế cho một số
các nguyên tắc đó, thì 2 khái niệm là khác biệt nhau về
cả phạm vi và ý nghĩa.
Đã
có sự nhấn mạnh đáng kể được đặt ra trong các thảo
luận về OER về chất lượng của OER. Điều này làm cho
khái niệm về học tập dựa vào tài nguyên
(Resource-Based
Learning)
được đặc biệt quan tâm. Bất chấp điều đó, những
tranh luận về OER từng thường tạo ra ít tham chiếu tới
khái niệm học tập dựa vào tài nguyên cho tới gần đây.
Điều này có thể vì sự nhấn mạnh trong hầu hết thảo
luận OER trên toàn cầu từng là về việc chia sẻ và cấp
phép cho các tư liệu đang tồn tại, một tỷ lệ đáng
kể của nó đã đưa vào việc chia sẻ một cách đơn
giản những lưu ý bài giảng và các trình chiếu
PowerPoint được sử dụng trong các bài giảng theo lối
tiếp xúc mặt đối mặt.
Lưu
ý về học tập dựa vào các tài nguyên, về cơ bản, có
ý nghĩa gì? Nó có nghĩa là việc dịch chuyển khỏi lưu
ý truyền thống về 'giáo viên nói' khi truyền đạt
chương trình giảng dạy; một tỷ lệ đáng kể những
thay đổi của giao tiếp giữa các học viên và giáo viên
không phải là tiếp xúc mặt đối mặt, mà là diễn ra
thông qua sử dụng các phương tiện khác khi cần thiết.
Điều quan trọng, tiếp xúc mặt đối mặt diễn ra thường
không liên quan tới các dạng hỗ trợ khác cho học viên,
ví dụ, các sách chỉ dẫn, thảo luận ngang hàng theo nhóm
hoặc công việc thực tế.
Học
tập dựa vào tài nguyên không đồng nghĩa với giáo
dục từ xa (Distance
Education). Thay vào đó, học tập dựa vào tài
nguyên đưa ra một cơ sở cho việc biến đổi văn hóa
dạy học khắp tất cả các hệ thống giáo dục để xúc
tác cho các hệ thống đó đưa ra giáo dục chất lượng
tốt hơn tới được số lượng học viên nhiều hơn đáng
kể. Nhiều khóa học và chương trình ở tất cả các mức
độ giáo dục bây giờ kết hợp sử dụng tăng cường
các tài nguyên được thiết kế để dạy học, khi các
giáo viên đã học được những hạn chế của các chiến
lược dựa vào bài giảng để truyền đạt thông tin tới
các học viên.
Để
tóm tắt:
- Không có mối quan hệ trực tiếp giữa OER và học tập dựa vào tài nguyên.
- Nhiều OER có sẵn trên trực tuyến không hoàn toàn được thiết kế như một phần của chiến lược có chủ ý để dịch chuyển sang học tập dựa vào tài nguyên.
- Cũng vậy, hầu hết thực tiễn trong học tập dựa vào tài nguyên hiện sử dụng các tư liệu có bản quyền hoàn toàn (All Rights Reserved) hơn là OER với một số quyền được lưu giữ (Some Rights Reserved).
Dù
vậy, việc liên kết OER và học tập dựa vào tài nguyên
đưa ra một cơ hội để làm đòn bẩy cho cả 2 một cách
có hiệu quả nhất.
Một
sự hiểu lầm phổ biến là các nội dung 'được cấp
phép mở' thuộc về miền công cộng, và rằng tác giả
vứt bỏ tất cả các quyền của họ đối với tư liệu.
Điều này là không đúng. Trong thực tế, sự nổi lên
của các giấy phép mở từng được dẫn dắt mạnh mẽ
bằng ước nguyện bảo vệ các quyền của một người
nắm giữ bản quyền trong các môi trường nơi mà nội
dung (đặc biệt khi được số hóa) có thể thật dễ
dàng được sao chép và chia sẻ thông qua Internet mà không
cần yêu cầu tới sự cho phép.
Một
phổ rộng lớn các khung pháp lý đang nổi lên để điều
hành cách mà OER được cấp phép sử dụng. Một số
khung pháp lý đơn giản cho phép việc sao chép, nhưng những
khung khác cung cấp cho những người sử dụng để tùy
biến các tài nguyên mà họ sử dụng. Được biết tốt
nhất trong số các khung đó là khung cấp phép Creative
Commons (www.creativecommons.org). Nó cung cấp các cơ chế pháp
lý để đảm bảo rằng các tác giả của các tư liệu
có thể giữ lại được sự thừa nhận đối với tác
phẩm của họ trong khi cho phép tác phẩm được chia sẻ,
có thể tìm cách để hạn chế hoạt động thương mại
nếu họ muốn, và có thể nhằm tới để ngăn chặn mọi
người khỏi việc áp dụng nó nếu phù hợp. Vì thế,
một tác giả mà áp dụng một giấy phép Creative Commons
(CC) cho tác phẩm của họ đặc biệt tìm cách để giữ
lại bản quyền đối với tác phẩm đó, nhưng đồng ý
- thông qua giấy phép - bỏ đi một số quyền.
Nói
một cách khác, một tác phẩm mà (các) tác giả gắn cho
nó một giấy phép CC là để họ giữ lại một số quyền
(Some Rights Reserved), tác phẩm
đó không thuộc về miền công cộng, nơi mà không có
quyền nào được giữ lại cả (No
Right Reserved), nhưng tác phẩm đó cũng không ở dạng
(các) tác giả giữ lại tất cả các quyền (All
Rights Reserved) (Xem bài “Các
giấy phép Creative Commons cho các tư liệu mở”, đăng
trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 7/2012 để
có thêm thông tin chi tiết).
Xuất
bản truy cập mở (Open
Access Publishing) là một khái niệm quan trọng, nó rõ
ràng có liên quan tới - nhưng khác biệt với – OER.
Wikipedia
lưu ý rằng khái niệm 'truy cập mở' được áp dụng cho
nhiều khái niệm, nhưng thường tham chiếu tới hoặc
những thứ sau đây:
- '(Xuất bản) truy cập mở'; hoặc
- 'Truy cập tới tư liệu (chủ yếu là các xuất bản phẩm học tập) thông qua Internet theo một cách thức mà tư liệu đó là tự do cho tất cả để đọc và sử dụng (hoặc sử dụng lại) ở các mức độ khác nhau'; hoặc
- 'Tạp chí, các tạp chí truy cập mở mà trao sự truy cập mở tới tất cả hoặc một phần hữu hạn các bài báo của chúng'.
Xuất
bản truy cập mở thường tham chiếu tới các xuất bản
phẩm nghiên cứu của một số dạng có liên quan theo một
giấy phép mở. OER tham chiếu tới các tư liệu dạy và
học được phát hành theo một giấy phép như vậy. Rõ
ràng, đặc biệt trong giáo dục đại học, có một sự
chồng lấn, khi mà các xuất bản phẩm nghiên cứu thường
tạo thành một phần quan trọng của toàn bộ tập hợp
các tư liệu mà các học viên cần để truy cập tới các
nghiên cứu hoàn chỉnh của chúng một cách thành công,
đặc biệt ở mức độ sau đại học.
Dù
vậy, sự khác biệt dường như đáng giá áp dụng vì nó
cho phép thảo luận và lên kế hoạch có sắc thái hơn về
các dạng giấy phép mở nào có thể là phù hợp nhất
cho các dạng tài nguyên khác nhau.
TÓM
LƯỢC
Bài
viết giới thiệu những khái niệm xung quanh và gần giống
với OER và giải thích về những khác biệt và/hoặc sự
chồng lấn đan xen giữa chúng, như: (1) Khóa học mở OCW
(Open Couseware); (2) Học tập điện tử (e-Learning); (3) Học
tập mở - Giáo dục mở (Open
Learning/Open Education);
(4) Học tập dựa vào tài nguyên (Resource-Based
Learning);
(5) Giáo dục từ xa (Distance
Education);
(6) Xuất bản truy cập mở (Open Access Publishing). Bài viết
cũng nhắc lại và nhấn mạnh một số khía cạnh pháp lý
cần lưu ý của các giấy phép mở CC trong ngữ cảnh của
OER.
Bài
kỳ sau: Khía cạnh pháp lý của OER.
Trần
Lê
Dựa
theo: Chỉ dẫn cơ
bản về các
Tài nguyên Giáo dục Mở (OER)
Bài
đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng
10/2012, trang 66-69.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.