Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

Nhận thức về sở hữu trí tuệ và đổi mới sáng tạo


-->
Ngày 18/09/2012, tại Hà Nội, đã diễn ra cuộc tọa đàm về sở hữu trí tuệ (SHTT) và đổi mới sáng tạo do Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN), Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam và Phòng thương mại Hoa Kỳ (AmCham) cùng phối hợp tổ chức. Cuộc tọa đàm có các phiên thảo luận về các chủ đề:
  1. Xu hướng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo - Quan điểm Chính phủ
  2. Xu hướng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo - Quan điểm của các nhà sản xuất Hoa Kỳ
  3. Xu hướng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo - Quan điểm của các nhà sản xuất Việt Nam.
  4. Thảo luận về những bước đi tiếp theo.
Các phiên thảo luận được tổ chức theo cách hỏi đáp giữa những người đã được chọn sẵn ngồi sau bàn chủ tọa. Những người có mặt trong khán thính phòng là những người nghe. Cuộc tọa đàm kéo dài tới 12 giờ kém 15 phút. Vì thế không có thời gian dành cho các câu hỏi thảo luận từ phía những người ngồi nghe trong khán thính phòng.
Nội dung các cuộc tọa đàm tập trung vào việc nêu lên sự cần thiết của việc thắt chặt và tăng cường các chế tài trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền, bằng sáng chế, thương hiệu và các vấn đề liên quan khác trong tất cả mọi lĩnh vực, ngành nghề. Duy nhất có một ý kiến kịp phát biểu là của một vị đại diện của Câu lạc bộ Phần mềm Tự do Nguồn mở Việt Nam (VFOSSA), một chi nhánh trung ương của Hội Tin học Việt Nam.
Trong phát biểu của mình, một mặt, vị đại diện của VFOSSA đồng ý với ý kiến của hầu như tất cả những người tham gia thảo luận trên bàn chủ tọa về việc các chế tài trong các khung pháp luật về sở hữu trí tuệ cần phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa để đủ sức răn đe và trừng trị các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, bản quyền, bằng sáng chế, thương hiệu... và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp tham gia thị trường. Mặt khác, với tư cách là một người làm việc trong lĩnh vực phần mềm, chuyên về phần mềm tự do nguồn mở (PMTDNM), ông cũng đề nghị xem xét lại một số vấn đề như sau:
Đồng tình về việc không bảo vệ bằng sáng chế phần mềm như trong Luật Sở hữu Trí tuệ Việt Nam số50/2005/QH11, Điều 59: “Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế”, liệt kê một danh sách các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế, trong đó có “chương trình máy tính”, ông đề nghị cần sửa đổi một số điểm trong Luật này, vì nó mặc định tất cả các chương trình máy tính - các phần mềm máy tính, đều là các phần mềm nguồn đóng, sở hữu độc quyền, không công bằng đối với các mô hình phát triển, các mô hình kinh doanh của các công ty PMTDNM ở Việt Nam, và vì thế là không giống như ý kiến của hầu hết những người tham gia thảo luận ngồi sau hàng ghế chủ tọa, khi họ đều nói mong muốn phải tạo sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Ví dụ cụ thể:
  1. Điều 20. Quyền tài sản; Khoản 1: Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây; Mục e) của Luật nêu: Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
  2. Khoản 3 cũng của Điều 20 này, Luật nêu: Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
  3. Khoản 3 Điều 19: “Quyền Nhân thân” của Luật này nêu: Quyền nhân thân bao gồm quyền “Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;”.
Có thể thấy rõ là các điều khoản nêu trên chưa phù hợp với thế giới PMTDNM, khi mà: Mọi tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một số dạng PMTDNM, một số dạng các tài liệu mở, đối với hầu như tất cả các quyền tài sản qui định tại khoản 1- Điều 20 và Khoản 3 - Điều 19 sẽ KHÔNG phải xin phép và KHÔNG phải trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Thậm chí khi phân phối thì người sử dụng PHẢI công bố tác phẩm (là các PMTDNM như vậy) với các quyền đi kèm của một số giấy phép đó, ví dụ như giấy phép copyleft GPL, một giấy phép chiếm tới 68,9% trong tổng số khoảng 330.000 dự án PMTDNM hiện đang tồn tại trên thế giới.
Ông cũng nêu lên dẫn chứng rằng, trong trả lời chính thức của Nhà Trắng về kiến nghị “Chỉ thị cho Văn phòng Bằng sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ” (USPTO), đăng trên website của Nhà Trắng “We The People” (Chúng ta là Nhân dân) vào tháng 02/2012, Nhà Trắng đã trả lời chính thức rằng:
Như một Chính quyền, chúng tôi nhận thức được giá trị khổng lồ của đổi mới sáng tạo của nguồn mở và dựa vào đó nó sẽ hoàn thành những nhiệm vụ chủ chốt. Ví dụ, Kế hoạch Hành động Quốc gia Chính phủ Mở của Mỹ gần đây đã công bố rằng mã nguồn cho Chúng tôi là Nhân dânData.gov có thể sẽ được mở nguồn cho toàn bộ thế giới. Các cơ quan Liên bang cũng đang thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua năng lượng nguồn mở. Ví dụ, Bộ Quốc phòng đã phát hành chỉ dẫn rõ ràng về sử dụng phần mềm nguồn mở trong Bộ. Và Bộ Y tế và các Dịch vụ Con người đã trở thành dẫn đầu trong chính sách mở nguồn, dựa vào các tiêu chuẩn để trang bị cho những đổi mới sáng tạo trong chất lượng chăm sóc y tế và cho phép nghiên cứu trong sự phân phối chăm sóc có hiệu quả. Sự tăng trưởng khổng lồ của các cộng đồng nguồn mở và dữ liệu mở qua các năm, cho việc phân phối cả các dịch vụ thương mại và không thương mại, chỉ ra rằng đổi mới sáng tạo có thể thịnh vượng trong cả các môi trường phần mềm sở hữu độc quyền và nguồn mở”.
Sự thừa nhận chính thức của Nhà Trắng đối với đổi mới sáng tạo của nguồn mở, đồng nghĩa với việc thừa nhận sự đổi mới sáng tạo trong mô hình phát triển của nguồn mở. Tới lượt nó, mô hình phát triển của nguồn mở là mô hình phát triển với cộng đồng của vô số người cùng tham gia một cách liên tục theo thời gian (Xem các tài của Quỹ Linux như: (1) Hiểu biết về mô hình phát triển nguồn mở; (2) Ngược lên dòng trên: Tăng cường cho sự phát triển nguồn mở; (3) Phát triển nhân Linux: Nó đi nhanh thế nào, Ai đang làm nó, Họ đang làm gì, Ai đỡ đầu cho nó).
Đây lại chính là vấn đề mà hệ thống bằng sáng chế, đặc biệt là các bằng sáng chế phần mềm của Hoa Kỳ mà bản thân USPTO hiện đang lúng túng chưa biết giải quyết như thế nào. Một trong những giải pháp thỏa hiệp được Quỹ Biên giới Điện tử – EFF (Electronic Frontier Foundation) gợi ý là giảm thời gian bảo hộ các bằng sáng chế phần mềm xuống còn 5 năm thay vì 20 năm như hiện nay, trong khi thế giới PMTDNM thì mong muốn hủy bỏ hoàn toàn các bằng sáng chế phần mềm (Xem: Đổi mới sáng tạo của phần mềm tự do nguồn mở - môi trường để sáng tạo phát triển), vì nó không những không thúc đẩy đổi mới sáng tạo như bản chất tự nhiên ban đầu của việc thiết lập nên hệ thống các bằng sáng chế, mà hiện tại, nó đang cản trở đối mới sáng tạo, tạo ra vô số các vụ kiện tụng giữa các công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là các công ty phần mềm, là mảnh đất màu mỡ cho loại “tội phạm” mới, các quỷ lùn bằng sáng chế (Patent Troll), những “công ty” có thể không viết ra một dòng mã nguồn phần mềm nào, nhưng lại thừa tiền để mua các bằng sáng chế có tiềm năng trong các vụ kiện tụng và sẵn sàng mang chúng ra để kiện các công ty đổi mới sáng tạo, tạo ra gánh nặng chi phí cho xã hội và những người tiêu dùng, đẩy các công ty phần mềm và các lập trình viên của họ vào một “chiến trường” hoàn toàn xa lạ - các phòng xử án về bằng sáng chế phần mềm, vì lợi ích của các quỷ lùn bằng sáng chế, các luật sư ăn theo và các Văn phòng Bằng sáng chế với mong muốn duy nhất là thu tiền để phát hành ra xã hội càng nhiều bằng sáng chế phần mềm càng tốt, bất kể chất lượng và tính có thể được cấp bằng sáng chế của chúng.
Đối với Việt Nam, việc không bảo vệ bằng sáng chế phần mềm như trong Luật Sở hữu Trí tuệ với hiện trạng của nền công nghiệp phần mềm Việt Nam như hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, vì nó tránh cho các công ty phần mềm của Việt Nam đi tới tuyệt chủngvô số vụ kiện tụng triền miên liên tục như những gì đang xảy ra hiện nay trong nền công nghiệp di động, nó phù hợp với lợi ích quốc gia và của các công ty phần mềm Việt Nam, mà bản thân Hoa Kỳ cũng đã từng có thời kỳ không thừa nhận bằng sáng chế phần mềm trong lịch sử phát triển của họ (Xem: “Phát triển công nghệ mở - Những bài học học được và những thực tiễn tốt nhất cho các phần mềm quân sự”, Bộ Quốc phòng Mỹ xuất bản ngày 15/06/2011, mục C.2.2. Các bằng sáng chế, trang 68).
Trong bối cảnh khi mà ở một quốc gia này có sự bảo hộ bằng sáng chế phần mềm, còn ở một quốc gia khác lại không có (ví dụ như Việt Nam hiện nay), hoặc có những khác biệt đáng kể về mức độ bảo vệ các bằng sáng chế phần mềm, trong khi mong muốn triển khai tiếp cận toàn cầu hóa về quyền sở hữu trí tuệ IPR (Intellectual Property Rights), bao gồm cả bằng sáng chế phần mềm, từ một vài nước phát triển, có thể đặt ra những xung đột không dễ dàng giải quyết về quyền lợi quốc gia thông qua các Hiệp định và/hoặc Thỏa thuận song phương hoặc đa phương, mà ví dụ điển hình gần đây nhất là Hiệp định Chống hàng giả ACTA (Anti-Counterfeiting Trade Agreement) đã thất bại trước sự phản đối quyết liệt của vô số công dân mạng ở khắp các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu và khi không được Nghị viện châu Âu phê chuẩn vào tháng 07/2012, cho dù trước đó, 22/27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu đã ký nó.
Trước khi ACTA thất bại tại Liên minh châu Âu, thì ngay tại Hoa Kỳ, các Hiệp định như “Dừng các hành vi vi phạm bản quyền trực tuyến” – SOPA (Stop Online Piracy Act) và “Bảo vệ Luật Sở hữu Trí tuệ” - PIPA (Protect IP Act) cũng đã từng thất bại từ trong trứng nước, không được phê chuẩn trước sự phản đối mạnh mẽ của vô số người sử dụng Internet tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, mà tới nay đã chiếm tới 2/3 dân số thế giới, vì những mong muốn thắt chặt quá mức kiểm duyệt Internet nhằm chống lại sự sao chép các tư liệu (văn bản, hình ảnh, âm thanh, nghe nhìn) trên Internet, có thể gây hại nghiêm trọng cho những người sử dụng Internet vô tội. Nhiều thông tin trên Internet cho thấy, trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là của Internet trong thế kỷ 21, một số nền công nghiệp dựa vào các khung sở hữu trí tuệ cũ từng phát đạt trong thế kỷ 20 đã bị thiệt hại nghiêm trọng, ví dụ như, công nghiệp phim ảnh của Hollywood, lại chính là những tác nhân hàng đầu đứng đằng sau SOPA/PIPA/ACTA.
Kinh nghiệm của các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu trong việc đấu tranh chống lại các nội dung của ACTA chỉ ra cho các nước khác một số điểm cơ bản rất đáng lưu ý khi thảo luận về vấn đề sở hữu trí tuệ như sau:
  1. Cảnh giác với tiếp cận toàn cầu hóa hệ thống sở hữu trí tuệ một cách cả gói, đặc biệt khi có liên quan tới các bằng sáng chế phần mềm, khi một quốc gia này muốn áp đặt sang các quốc gia khác, thông qua các hiệp định song phương hoặc đa phương, khi mà trong thực tế Luật Sở hữu Trí tuệ và/hoặc Luật về Bằng sáng chế, trong đó có bằng sáng chế phần mềm, ở các quốc gia khác nhau là khác nhau.
  2. Không thảo luận cả gói trong cùng một thỏa thuận, mà tách bạch các hàng hóa hữu hình và vô hình trong các thỏa thuận khác nhau.
  3. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, không thảo luận cả gói trong cùng một thỏa thuận, mà tách bạch phần cứng và phần mềm trong những thỏa thuận khác nhau, đặc biệt khi nói về các bằng sáng chế phần mềm. Tuyệt đối cảnh giác để tránh cái bẫy tù mù, khi nói thì đưa ra ví dụ toàn về các bằng sáng chế phần cứng, nhưng khi triển khai thực hiện thì có thể lại bao gồm cả các bằng sáng chế phần mềm.
  4. Việc thảo luận để đi đến ký kết phải được thực hiện theo một qui trình mở, tất cả các bên liên quan phải được tham gia, không phải ở cuối của qui trình đàm phán, mà ngay từ đầu và trong suốt cả quá trình đàm phán. Khi bàn luận tới vấn đề bằng sáng chế phần mềm, thì mọi công ty với các mô hình phát triển và mô hình kinh doanh khác nhau đều phải được tham gia, dù là nguồn đóng - sở hữu độc quyền hay tự do nguồn mở.
  5. Rất có thể những kinh nghiệm này là hữu ích cho Việt Nam khi đàm phán về Thỏa thuận Đối tác xuyên Thái bình dương – TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement).
KẾT LUẬN
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã phát biểu trong phần khai mạc cuộc tọa đàm: “Pháp luật bảo hộ quyền SHTT là nền tảng để xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia và phát triển bền vững nền kinh tế. Bảo hộ quyền SHTT cũng là điều kiện cần thiết để xây dựng một nền kinh tế tri thức trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới”.
Có thể hiểu hàm ý của câu sau, chính là, nói gì thì nói, quyền lợi của quốc gia là cao nhất trong bất kỳ khung SHTT quốc gia nào hay trong bất kỳ đàm phán nào về SHTT. Khắp nơi trên thế giới, mọi quốc gia đều làm như vậy.
Trần Lê
Bài đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 10/2012, trang 11-13.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.