Như
thường lệ, ít ai quan tâm và phân biệt giữa bản quyền
phần mềm và bằng sáng chế phần mềm, và điều đó là
đúng ngay cả đối với những người lâu năm làm việc
trong các công ty phần mềm tại Việt Nam. Cho dù, cũng như
thường lệ, bất kỳ ai cũng có thể tìm thấy chúng với
một chút thời gian tìm kiếm trên Google với những cụm
từ tiếng Anh: (1) Bản quyền phần mềm: Software
Copyright; (2) Bằng sáng chế phần mềm: Software
Patent.
Trên
các trang wiki có những định nghĩa và vô số các thông
tin liên quan về 2 khái niệm đó từ nhiều đường liên
kết mà bạn có thể đọc ngày này qua ngày khác để tìm
hiểu về chúng.
Bản
quyền phần mềm, định nghĩa
Bản
quyền phần mềm là quyền theo luật bản quyền, có hiệu
lực vào thời điểm chương trình phần mềm gốc lần
đầu tiên được tung ra, được thể hiện và/hoặc trình
bày ở dạng được viết hoặc gõ ra.
Bản
quyền phần mềm trao cho những người nắm giữ bản
quyền các quyền độc chiếm để làm những việc nhất
định nào đó với chương trình phần mềm mà những
người khác không thể làm mà không có sự cho phép của
những người nắm giữ bản quyền. Thường thì các quyền
độc chiếm đó bao gồm:
- Việc sao chép bản gốc để tạo ra các bản sao
- Việc sửa đổi để tạo ra các chương trình phần mềm dẫn xuất
- Việc phân phối các bản sao của các chương trình phần mềm gốc ban đầu
- Việc phân phối các bản sao của các chương trình phần mềm dẫn xuất
Người
nắm giữ bản quyền có thể trao một giấy phép cho ai đó
khác để sao chép, sửa đổi, hoặc phân phối một chương
trình phần mềm, có thể với những hạn chế hoặc những
điều kiện cụ thể nào đó.
Các
công ty phần mềm sở hữu độc quyền sử dụng bản
quyền phần mềm để ngăn chặn việc sao chép các phần
mềm của họ khi không được phép thông qua các giấy
phép như Thỏa thuận Giấy phép cho Người sử dụng Đầu
cuối EULA (End User License Agreement).
Theo
một cách thức tương tự nhưng ngược lại, các công ty
kinh doanh dịch vụ xung quanh các phần mềm tự do nguồn
mở sử dụng bản quyền phần mềm thông qua các giấy
phép đi kèm theo chương trình phần mềm, ví dụ như loại
Copyleft, cụ thể như Giấy phép Công cộng Chung GPL
(General Public License), để áp đặt nghĩa vụ phải chia sẻ
phần mềm khi phân phối tới những người sử dụng khác
với cùng các điều khoản ghi trong giấy phép GPL gốc ban
đầu, dù phần mềm đó là sao chép y hệt bản gốc ban
đầu hay đã được sửa đổi khác đi so với bản gốc
ban đầu của phần mềm.
Các
nghĩa vụ như vậy không áp dụng cho các phần mềm trong
miền công cộng. Để làm rõ hơn, thì miền công cộng là
nơi mà người viết ra chương trình phần mềm từ bỏ
các quyền sở hữu trí tuệ của họ đối với phần mềm
mà họ viết ra. Cả 2 loại phần mềm nêu ở trên, đều
không nằm trong miền công cộng và đều tuân thủ theo
luật bản quyền.
Hầu
hết các chính phủ trên thế giới, trong đó có Việt
Nam, đều có các chính sách tuân thủ bản quyền nói
chung, bản quyền phần mềm nói riêng. Điều này là cần
thiết để khuyến khích sự đổi mới sáng tạo vốn là
mục tiêu gốc ban đầu của luật bản quyền.
Bằng
sáng chế, định nghĩa và sự gây tranh cãi khi áp dụng
vào cho phần mềm
Bằng
sáng chế đề cập tới quyền sở hữu đối với bản
thân ý tưởng sáng tạo.
Bằng
sáng chế trao cho người sở hữu quyền loại trừ những
người khác khỏi làm những việc nhất định nào đó
với sở hữu trí tuệ được cấp bằng sáng chế, bao
gồm quyền của người nắm giữ bằng sáng chế để
loại trừ những người khác khỏi:
- Việc làm ra các sản phẩm thể hiện sáng tạo được cấp bằng sáng chế của họ.
- Việc sử dụng các sản phẩm thể hiện sáng tạo của họ.
- Việc bán hoặc chào bán các sản phẩm thể hiện sáng tạo của họ.
- Việc nhập khẩu các sản phẩm thể hiện sáng tạo được cấp bằng sáng chế của họ.
Khi
(các) bằng sáng chế được áp dụng vào trong (các)
chương trình phần mềm thì được gọi là (các) bằng
sáng chế phần mềm. Công việc này hiện còn gây tranh
cãi cao độ; nhiều quốc gia tuyệt đối cấm việc này.
Ngay
tại nước Mỹ, phần mềm từng không được cấp bằng sáng chế trong nhiều năm,
và trong những năm đó đã có một số lượng lớn những
đổi mới sáng tạo được tạo ra, là bằng chứng tuyệt
vời rằng các bằng sáng chế là không cần thiết đối
với đổi mới sáng tạo trong phần mềm.
Một
chút về lịch sử ra đời của các bằng sáng chế
Bằng
sáng chế được biết tới từ thế kỷ 15, khoảng hơn
500 năm trước, khi các quý tộc nước Anh đưa ra như là
“bằng sáng chế văn học”. Gọi là “bằng sáng chế”
vì nó sẽ được mở ra cho mọi người xem, chứ không
phải bị đóng xi lại vĩnh viễn. Theo nghĩa đen, bất
chấp gốc gác “quý tộc Anh”, về cơ bản chúng là
công cụ để “ăn cắp” tri thức từ những miền đất
khác bằng việc đưa ra 20 năm độc quyền khai thác bằng
sáng chế tại nước Anh để tưởng thưởng cho những
người có công mang tri thức đó từ nước ngoài vào nước
Anh.
Tiếp
cận này đã từng có ý nghĩa, vì 500 năm trước đổi
mới sáng tạo là hãn hữu. Đã không có nhiều tri thức
thực hành, nghĩa là công nghệ, và rất ít người đã sở
hữu nó. Theo quan điểm thực dụng của người hám lợi
hoàn toàn hợp lý tương ứng khi đó, cách duy nhất để
có được tri thức đó là lấy nó từ ai đó khác, sử
dụng sự độc quyền như một động lực.
Hệ
thống này đã làm việc khá tốt vì khá ít bằng sáng
chế từng được trao. Khi các vua chúa có quan tâm trong
việc nhập khẩu các công nghệ chủ chốt nhất định
nào đó, thì trao 20 năm độc quyền cho mỗi trong số các
công nghệ đó từng là một cái giá nhỏ phải trả.
Còn
bây giờ thì sao? Vào năm 2009, 482.871 ứng dụng bằng sáng
chế đã được Văn phòng Thương hiệu và Bằng sáng chế
Mỹ - USPTO (United States Patent and Trademark Office) cấp, và
150.000 cái khác của châu Âu. Nhật Bản và Trung Quốc có
lẽ bổ sung thêm các con số tương tự. Tất cả, có
khoảng 750.000 ứng dụng bằng sáng chế trên thế giới.
Hiện nay, các ứng dụng không là y hệt các bằng sáng
chế, nhưng điều này ít nhất đưa ra một ý tưởng về
phạm vi của vấn đề.
Đối
với những quốc gia coi trọng bằng sáng chế trong phần
mềm, thì rõ ràng, các bằng sáng chế phần mềm là những
độc quyền được các chính phủ đó bảo trợ. Về lý
thuyết, các công ty có các bằng sáng chế phần mềm để
tưởng thưởng cho sự đổi mới sáng tạo, nhưng trên
thực tế, điều đó hiện nay lại đang không xảy ra.
Các
bằng sáng chế phần mềm đang cản trở đổi mới sáng
tạo trong phần mềm
Với
sự bùng nổ của Internet và các mạng xã hội như ngày
nay, khi mà văn hóa chia sẻ tri thức được thực hiện
trên một phạm vi toàn cầu với một tốc độ nhanh chưa
từng có trong lịch sử, theo thời gian thực, thì những
phát minh sáng chế, đặc biệt trong phần mềm máy tính,
được thực hiện cũng với tốc độ tương tự và với
một số lượng những người phát minh sáng chế thông
qua sự lập trình của họ cho các phần mềm máy tính là
đông vô số. Nói một cách khác, sự thừa thãi về khả
năng phát minh sáng chế hiện nay nằm ở 2 yếu tố, tốc
độ và số lượng đông vô số người phát minh sáng
chế.
Khi
mà các phát minh sáng chế ngày nay không còn khó tìm nữa,
mà ngược lại, chúng là thừa thãi, thì lẽ ra có thể
được xem là tin tốt lành. Tuy nhiên, vì theo định nghĩa
thì bằng sáng chế là để loại trừ mọi người khỏi
việc sử dụng tri thức được cấp bằng sáng chế, nó
có lẽ lại là một tin xấu cho chính sự đổi mới sáng
tạo.
Trong
lĩnh vực phần mềm, một số người cho rằng phải có
bằng sáng chế phần mềm thì mới có động lực
để phát triển phần mềm. Lý lẽ này hầu như chỉ là
ngụy biện, vì phát minh sáng chế trong phần mềm bản
thân nó không phải là sự kết thúc, mà là một biện
pháp để có được những lợi nhuận dẫn xuất từ việc
sản xuất và bán hàng đi với phát minh sáng chế đó.
Mọi người sẽ tiếp tục phát minh sáng chế mà không
cần các bằng sáng chế vì họ hy vọng kiếm được tiền
từ các phát minh sáng chế của họ. Trên thực tế, động
lực để phát triển phần mềm là nhanh chóng tạo ra các
sản phẩm phần mềm để đưa ra thị trường với nhiều
tính năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường một
cách nhanh nhất và mong đợi có được phần thưởng kinh
tế bằng tiền cho những phát minh sáng chế được đúc
kết trong sản phẩm phần mềm đó mà không nhất thiết
phải có những bằng sáng chế phần mềm.
Lý
lẽ tiêu chuẩn chống lại việc thủ tiêu các bằng sáng
chế phần mềm là mọi người sẽ không đầu tư vào
nghiên cứu sản phẩm vì ai đó có thể “ăn cắp” phát
minh sáng chế của họ sau đó. Điều này chắc chắn đúng
là những người khác sẽ có khả năng sử dụng các phát
minh sáng chế đó, nhưng chỉ khi chúng được tung ra thị
trường, nằm trong các sản phẩm. Điều này đưa ra một
ưu điểm động lực sống còn trước nhất cho công ty đã
phát minh sáng chế ra nó - chính xác những gì cần thiết
để xác lập một vị thế chỉ huy trong thị trường.
Vấn
đề này là rõ nhất trong thế giới các bằng sáng chế
phần mềm. Phần mềm phức tạp không thể tránh khỏi có
chứa hàng trăm, có thể hàng ngàn các đơn vị con nhỏ
hơn, thường là các module. Nhiều trong số này bây giờ
bị các bằng sáng chế chi phối mà các lập trình viên
khi phát triển phần mềm chẳng hề quan tâm và thậm chí
có muốn quan tâm cũng không biết được mình có thể
đang dẫm phải bằng sáng chế nào đó, của ai đó, ở
đâu đó một cách ngẫu nhiên trên thế giới hay không.
Hầu như không thể có việc một phần mềm nào đó được
tạo ra chỉ bằng những bằng sáng chế phần mềm của
chính công ty tạo ra nó, đặc biệt đối với các dự án
phần mềm lớn, được tạo ra từ vô số các phần mềm
nhỏ hơn. Điều này là đúng, bất chấp công ty phần mềm
lớn cỡ nào.
Một
khía cạnh khác, là kể cả cho dù các Văn phòng Bằng
sáng chế ở các quốc gia trên thế giới có công tâm mấy
khi xét duyệt trao các bằng sáng chế phần mềm, thì cũng
không có cách gì để có thể kiểm soát hết nổi đâu
là những bằng sáng chế đã được hay chưa được cấp
vì chúng không phải là một việc dễ dàng để phân định
với đủ mọi lý do. Và khi mà số lượng các bằng sáng
chế là cỡ gần hàng triệu và ngày một gia tăng như
hiện nay, thì hầu như khả năng để không vi phạm bằng
sáng chế nào khi phát triển phần mềm hầu như không xảy
ra, không thực tế.
Chiến
tranh bằng sáng chế phần mềm và sự lượng hóa bằng
sáng chế phần mềm thành tiền
Các
số liệu thống kê cho thấy, số lượng các bằng
sáng chế phần mềm hiện nay trên thế giới, mà nhiều
nhất là tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc... là
tăng nhanh chóng, gấp tới 5 lần trong vòng 15 năm qua và
đã đạt tới con số 40.000 bằng sáng chế được cấp
phát mới mỗi năm. Cùng với số lượng gia tăng các bằng
sáng chế thì số lượng các vụ kiện vi phạm các bằng
sáng chế của nhau giữa các công ty cũng đã tăng 8 lần
trong cùng khoảng thời gian.
Các
bằng sáng chế, nhất là các bằng sáng chế phần mềm,
đã trở thành một thứ hàng hóa cho các hãng lớn và các
quỷ lùn bằng sáng chế (Patent
Troll) đua nhau bỏ tiền ra mua sắm. Một vài ví dụ về
mua sắm các bằng sáng chế gần đây.
Thời
gian
|
Các
công ty tham gia
|
Số
lượng bằng sáng chế (BSC)
|
Tổng
số tiền
|
08/2011
|
Google,
Motorola Mobile
|
17.000
BSC đã được trao và 7.500 BSC chờ được trao
|
12.5
tỷ USD
|
07/2011
|
Apple,
Microsoft, EMC, Nortel...
|
4.5
tỷ USD
|
|
01/2011
|
Attachmate,
Novell
|
2.2
tỷ USD
|
|
Năm
2010
|
Oracle,
Sun Microsystems
|
7.4
tỷ USD
|
|
Tổng:
|
26.6
tỷ USD
|
Chỉ
qua một vài vụ mua sắm ở trên, ta có thể nhận thấy,
bên cạnh những sản phẩm và công nghệ của
công ty được đưa ra mua sắm, là số lượng lớn các
bằng sáng chế được chuyển chủ sở hữu với số tiền
khổng lồ, giống như việc lượng hóa các bằng sáng chế
thành tiền đằng sau các vụ mua sắm đó.
Nhiều
nhà phân tích cho rằng việc chạy đua mua sắm các bằng
sáng chế phần mềm như hiện nay có xuất phát điểm từ
cuộc chiến tranh các phần mềm hệ điều hành cho các
thiết bị di động cùng với các cơ hội của chúng trong
buôn chứng khoán, phục kích, chống đỡ, tấn công và
phản công lẫn nhau giữa các công ty là dồi dào và hấp
dẫn. Các doanh nghiệp, bao gồm các quỷ lùn bằng sáng
chế, đơn giản đang khai thác các cơ hội đang hiện
diện, thậm chí bao gồm cả các cơ hội do một vài chính
phủ tạo ra trong hệ thống bằng sáng chế của quốc gia
mình.
Điều
tồi tệ là chúng đã đánh mất ý nghĩa lớn nhất và cơ
bản nhất cho sự hiện diện của chính chúng, là để
khuyến khích sự đổi mới sáng tạo. Thay vào đó, là
những kiện tụng pháp lý triền miên, liên tục như hiện
nay có liên quan tới những tố cáo lẫn nhau về vi phạm
các bằng sáng chế phần mềm với những chi phí kiện
tụng khổng lồ đã tạo ra một bức tranh phản cảm mà
ai cũng có thể nhận thấy. Không
có công ty phần mềm nào có lợi trong những cuộc chiến
tốn kém như thế này.
Bằng
sáng chế phần mềm và hiện trạng của các công ty phần
mềm Việt Nam
Khi
tranh luận gần đây về vấn đề bản quyền và bằng
sáng chế phần mềm nổ ra trên diễn đàn ICT-VN, một
diễn đàn gồm các nhà nghiên cứu, giảng dạy, triển
khai và quản lý công nghệ thông tin và truyền thông từ
các trường, viện, công ty và cơ quan, tổ chức chính phủ
và phi chính phủ, một vài bằng sáng chế phần mềm từng
nằm trong
vụ kiện vào đầu năm 2011 tại Mỹ giữa 2 hãng Microsoft
và Barnes
& Noble, đã được đưa ra để làm ví
dụ để xem liệu các công ty phần mềm Việt Nam có vô
tình vi phạm chúng hay không, cụ thể các bằng sáng chế
mà:
- Trao cho mọi người các cách thức dễ dàng để di chuyển qua các thông tin được đưa ra bởi các ứng dụng trong thiết bị thông qua một cửa sổ kiểm soát riêng rẽ với các Tab.
- Cho phép hiển thị nội dung trang web trước khi nhận được ảnh nền, cho phép người sử dụng tương tác được với trang web đó nhanh hơn.
- Cho phép những người sử dụng dễ dàng chọn văn bản trong một tài liệu và chỉnh sự lựa chọn đó.
- Cung cấp cho người sử dụng khả năng để chú thích văn bản mà không thay đổi tài liệu nằm đằng sau.
Có
lẽ nhiều công ty phần mềm Việt Nam, nhất là các công
ty làm về web (mà bây giờ có mấy công ty phần mềm
không làm về web nhỉ?) không ai dám chắc là mình không
vi phạm một trong những bằng sáng chế phần mềm ở
trên. Mà đây mới chỉ là vài trong số hàng trăm ngàn
bằng sáng chế phần mềm hiện đang tồn tại trên thế
giới, thậm chí chỉ với mỗi một vụ
mua bán sát nhập giữa Google và Motorola Mobile ở trên
đã có những 17.000 bằng sáng chế đã được trao và
7.500 bằng sáng chế đang chờ để được trao, hoặc bé
nhất thì cũng có tới 882 bằng sáng chế phần mềm như
vụ mua bán sát nhập giữa Attachmate và Novell. Liệu có
công ty phần mềm nào của Việt Nam tiến hành tìm hiểu
nội dung hàng trăm ngàn bằng sáng chế phần mềm hiện
có và sắp tới sẽ có để mà tránh không vi phạm khi
tiến hành nghiên cứu và phát triển phần mềm của công
ty mình không nhỉ? Chắc chắn 100% là không công ty nào
làm!!! và nếu có muốn thì cũng không thể làm được,
bởi khối lượng của chúng quá lớn.
Thực
tế hiện nay còn cho thấy, hầu hết, nếu không nói là
tất cả 100% các công ty phần mềm Việt Nam đều không
rõ về khái niệm bằng sáng chế phần mềm, đều không
biết có thể đăng ký và nhận các bằng sáng chế phần
mềm ở đâu tại Việt Nam.
Nếu
điều này là đúng cho tất cả các công ty phần mềm
Việt Nam, thì có thể nói, số lượng các bằng sáng chế
phần mềm của toàn bộ nền công nghiệp phần mềm Việt
Nam cho tới thời điểm hiện nay, tháng 09/2011, là bằng
0.
Kết
luận
Thế
giới ngày nay đã thay đổi nhiều so với hơn 500 năm về
trước. Với sự xuất hiện của Internet thì tốc độ
đổi mới sáng tạo là cao hơn nhiều, cùng với số lượng
những người đổi mới sáng tạo cũng nhiều hơn nhiều,
chứ không còn ít ỏi và chậm chạp như trước kia.
Khi
mà những ý tưởng có thể nảy sinh và được truyền
vào các sản phẩm phần mềm chỉ còn tính theo giờ,
phút, giây, trong khi luật về bằng sáng chế lại qui định
các khoảng thời gian được hưởng sự độc quyền khai
thác cho những người nắm giữ các bằng sáng chế là
theo năm, thậm chí hàng chục năm, thì tạo nên những
xung đột khó có thể giải quyết được, gây hại cho
đổi mới sáng tạo và rất cần phải sửa đổi, thậm
chí có thể phải thủ tiêu hoàn toàn các bằng sáng chế
phần mềm.
Với
thực tế như hiện nay, thì việc áp dụng các bằng sáng
chế phần mềm tại Việt Nam có thể sẽ dẫn tất cả
các công ty phần mềm Việt Nam tới sự tuyệt chủng hoàn
toàn hoặc trở thành các công ty làm thuê vĩnh viễn trong
cuộc cạnh tranh với các công ty phần mềm nước ngoài.
Tệ hơn, việc áp dụng này còn có thể vô tình đã nhập
khẩu vào Việt Nam một mô hình được báo trước với
những vụ kiện triền miên giữa các công ty phần mềm
xung quanh những vi phạm bằng sáng chế phần mềm như
những gì hiện đang xảy ra trên thế giới, có thể tạo
ra vô số các bằng sáng chế phần mềm đáng ngờ, vô
giá trị và hoàn toàn không phù hợp, không có lợi cho
các công ty phần mềm Việt Nam.
Trên
thế giới, nhiều nước cấm áp dụng các bằng sáng chế
vào phần mềm và có cả một phong trào đấu tranh nhằm
chấm dứt các bằng sáng chế phần mềm, End
Software Patents. Việt Nam cũng nên đi
theo con đường đó vì lợi ích của chính mình và các
công ty phần mềm của mình!.
Như
để tránh mọi sự hiểu lầm, bài viết này chỉ nói về
bằng sáng chế phần mềm,
không nói về bằng sáng chế trong các lĩnh vực khác, như
lĩnh vực ô tô, thậm chí lĩnh vực phần cứng máy tính.
Trần
Lê
PS:
Bài được đăng trên tạp chí Tin học và Đời sống, số
tháng 09/2011, trang 58-63.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.