Open
source is the dominant warfighting doctrine of the 21st century
Posted 31 Jul 2013 by
Adam Firestone
Bài được đưa lên
Internet ngày: 31/07/2013
Lời
người dịch: Tất cả chỉ để nêu rằng “văn hóa
nguồn mở là tương tự với Sức mạnh tới cùng cực,
nó nhanh chóng trở thành học thuyết chiến trận áp đảo
của thế kỷ 21” được áp dụng trong quân đội Mỹ.
Tác giả hy vọng nó sẽ lan ra trong giới công nghiệp và
chính phủ. Xem thêm: (1) Phát
triển công nghệ mở. Những bài học học được và
những thực tiễn tốt nhất cho các phần mềm quân sự;
(2) Kế hoạch
lộ trình phát triển công nghệ mở.
Phần mềm nguồn mở
(PMNM) đưa ra hứa hẹn về một sự
biến đổi cách mạng trong quân sự, tình báo, ép tuân
thủ pháp luật và công nghệ của chính phủ ở chi phí
và bước đi làm thỏa mãn được các yêu cầu cạnh
tranh khi các tài nguyên bị thu hẹp và các hoạt động
toàn cầu tăng tốc liên tục. Trong khi sự biến đổi
công nghệ này được các kỹ sư và các lập trình viên
trong nền công nghiệp và cộng đồng mua sắm nhấn mạnh,
thì nó thường được thừa nhận như là sự tiệm cận
tới những người với một trọng tâm hoạt động.
Sự không cộng hưởng
hình như này giữa các cộng đồng mua sắm và hoạt động
có lý do là bản chất tự nhiên rộng lớn của hiện
tượng nguồn mở: Nguồn mở tham chiếu nhiều tới một
triển vọng văn hóa khi nó thực hiện một mô hình công
nghệ. Tuy nhiên, hố ngăn cách mà 2 phía không rộng như
nó dường như có. Đối với cộng đồng mua sắm, công
nghệ nguồn mở cho phép chèn nhanh các khả năng mới và
được cải tiến vào. Đối với những người vận hành,
văn hóa nguồn mở cho phép những thành quả của một học
thuyết và cấu trúc sức mạnh đối với các hoạt động
tự đồng bộ. Sự đồng vận về văn hóa và công nghệ
của nguồn mở là chất xúc tác cho, như David Alberts và
Richard Hayes đưa ra, thúc đẩy "sức
mạnh tới cực điểm".
Văn hóa nguồn mở
Một trong những phô
diễn của văn hóa nguồn mở là Quỹ
cho một thành phố nguồn mở của Jason Hibbets. Bổ
sung thêm vào lời gọi hấp dẫn để trang bị cho những
người bảo vệ nguồn mở, cuốn sách đưa ra một sự
trình bày thực dụng của các đặc tính cần thiết cho
một tổ chức để gặt hái được những lợi ích của
văn hóa nguồn mở. Nguồn mở, như Hibbets chỉ ra, bao gồm
nhiều hơn là sự lựa chọn sơ đồ cấp phép phần mềm.
Nguồn mở là về việc trang bị cả cho những người
sáng tạo và những người sử dụng để xác định các
giải pháp có hiệu quả nhất đối với một vấn đề
và cùng lúc, trang bị cho họ để bổ sung thêm giá trị
thực tiễn của một 'thành phố nguồn mở' được tóm
tắt ngắn gọn trong 5 điểm sau:
- Thúc đẩy văn hóa tham gia của công dân
- Có một chính sách chính phủ mở hiệu quả
- Có một sáng kiến dữ liệu mở có hiệu quả
- Thúc đẩy các nhóm và hội nghị nguồn mở
- Là một trung tâm cho sự đổi mới và kinh doanh nguồn mở.
Đáng một cái liếc
nhìn vào từng thứ đó.
Công dân - và vì các
mục đích của chúng ta, điều đó có thể được đọc
như là 'người sử dụng' - sự tham gia là sống còn cho
sự phát triển nhanh chóng các giải pháp đổi mới. Sự
tham gia rộng rãi của các công dân cho phép các vấn đề
và các thách thức một thực thể chính trị đối mặt
sẽ được đặt trước các cử tri - một kho lớn hơn
nhiều so với chính phủ. Từ thường dùng đương thời
cho việc có được các ý tưởng bằng việc đưa ra các
thách thức trước một đám đông mọi người (đặc biệt
từ một cộng đồng trực tuyến) là 'nguồn đám đông'.
Đây thực sự là một khái niệm cũ hơn nhiều. Trong Nhà
thờ lớn và cái chợ, nhà truyền giáo nguồn mở
Eric S. Raymond đã gọi nó là Luật 'Linus', để tỏ sự
kính trọng đối với người sáng tạo ra Linux, một hệ
điều hành nguồn mở, Linus
Torvalds. Luật Linus nói: “Nhiều con mắt soi vào thì
lỗi sẽ cạn”, áp dụng các nguyên tác của sự tham gia
và sự giải phóng rộng lớn để giải quyết các vấn
đề.
Các chính sách chính
phủ mở được thiết kế để cải thiện tính minh bạch
(và, cùng một lúc, lòng tin), sự truy cập tới thông tin
công khai, và sự điều phối giữa chính phủ (và các
thực thể của khu vực khác), phi lợi nhuận, khu vực tư
nhân, và công dân. Họ làm thế bằng việc nhấn mạnh sự
rà soát lại phân tán, tính bao gồm và rộng rãi và sự
tham gia đa dạng. Các chính sách như vậy thường được
thể hiện một cách hữu hình như các cổng web truy cập
được một cách công khai với các dữ liệu mở, web, và
các ứng dụng di động vho việc trông thấy được và sử
dụng các dữ liệu và các liên kết cho các tổ chức của
những người tham gia đóng góp.
Các sáng kiến dữ
liệu mở vè về việc làm cho dữ liệu vừa sẵn sàng
công khai và vừa hữu dụng. Làm cho các tập hợp dữ
liệu thô truy cập được không giúp được cho đa số
lớn những người sử dụng. Các sáng kiến dữ liệu mở
thực sự đưa ra các cơ chế theo đó những người sử
dụng có thể tiêu dùng các dữ liệu có sẵn. Chúng có
thể bao gồm các công cụ ảo hóa, các máy tìm kiếm và
các ứng dụng web mà cho phép những người sử dụng có
được lợi ích từ các dữ liệu đó.
Văn hóa nguồn mở là
những người thường dân theo bản chất tự nhiên. Để
thịnh vượng nó đòi hỏi một môi trường trong đó các
cộng đồng tham gia đóng góp được khuyến khích và được
hỗ trợ. Sự hỗ trợ có nghĩa là một số điều, bao
gồm việc cung cấp không gian vật lý trong đó để tiến
hành các hoạt động và các cuộc gặp, một môi trường
mà khuyến khích một dòng chảy liên tục các ý tưởng
và các khái niệm mới, sử dụng các kênh chính thức để
phổ biến thông tin về và phù hợp với các cộng đồng
nguồn mở cả nội bộ và bên ngoài, và tất nhiên, hỗ
trợ tài chính. Bản chất tự nhiên của sự hỗ trợ này
là quan trọng; nó sẽ cho phép thay vì triển vọng nếu sự
tham gia rộng rãi trang bị nguồn mở sẽ có được ảnh
hưởng.
Đặc tính cuối cùng,
là một trung tâm về thông tin, thực sự là kết quả của
4 cái khác. Khi một thực thể chính trị xúc tác nguồn
mở với sự khuyến khích tham gia rộng rãi, thì sự ban
hành các chính sách điều hành, dữ liệu mở và hỗ trợ
vật chất, nhiều nhóm với một tầm nhìn chung, nhưng một
sự đa dạng các tiếp cận để hiện thực hóa, sẽ mang
tới cùng nhau. Kết quả sẽ là chỉ dẫn rộng rãi cần
thiết để tạo ra các hiệu ứng mong muốn.
Sức mạnh tới
cùng cực
Sức mạnh tới
cùng cực là một triết lý mệnh lệnh và kiểm soát
ban đầu được tích tụ ở đầu thế kỷ 21 của Chương
trình Nghiên cứu Chỉ huy và Kiểm soát (CCRP)
của Bộ Quốc phòng Mỹ. Chỉ huy và Kiểm soát (C2) là,
theo các khái niệm học thuyết Mỹ, một khả năng của
tổ chức thực hiện quyền và đường hướng đối với
các thành phần trực thuộc để đạt được các mục
đích nhiệm vụ. Chỉ huy và kiểm soát đạt được thông
qua sự tác động qua lại của nhân sự, thiết bị, giao
tiếp truyền thông, các cơ sở và các thủ tục mà xác
tác cho người chỉ huy để lên kế hoạch, điều phói và
kiểm soát các lực lượng trong các hoạt động tác
chiến.
Triết lý sức mạng
tới cùng cực nhấn mạnh một mẫu dạng phân tán chỉ
huy và kiểm soát nơi mà vai trò của người chỉ huy dịch
chuyển từ một trong những việc cung cấp sự giám sát
mệnh lệnh (như, một mục tieu, một giải pháp và đường
hướng hoạt động như làm thế nào để đạt được
giải pháp đó) một trong những việc cung cấp chỉ dẫn
chung và xúc tác hỗ trợ. Khái niệm đó là không mới;
quả thực Quân đội Đức đã nhấn mạnh những gì được
gọi là Auftragstaktik, hoặc các chiến thuật dạng
nhiệm vụ, từ đầu thế kỷ 19. Auftragstaktik như một
học thuyết đặc trưng cho sáng kiến riêng rẽ, việc ra
quyết định độc lập và khuyến khích các lãnh đạo
trực thuộc tự bản thân họ đạt được các quyết
định chiến thuật tuân theo sự đẩy mạnh ý định chỉ
huy chung. Các vai trò ban đầu của người chỉ huy là để
cung cấp một tầm nhìn chung về tình trạng cuối cùng
của mục đích và để hỗ trợ cho lực lượng, đưa ra
sự tự trị thực cho các chỉ huy trực thuộc trong việc
đạt được ý định của họ.
Sự khác biệt chính
giữa Auftragstaktik như được Quân đội Đức thực hành
trong Chiến tranh Thế giới II và Sức mạnh tới cùng cực
như được mường tượng từ CCRP là sự bổ sung của
nhận thức tình huống được chia sẻ, được xúc tác và
được hỗ trợ từ việc kết nối mạng mạnh mẽ, cả
các mối quan hệ trên - dưới và ngang hàng điểm –
điểm. Nhận thức tình huống được chia sẻ giữa các
tổ chức ngang hàng đem lại sự hiểu biết nhất quán
cao và phù hợp của ý định của người chỉ huy, sự
thay đổi đúng lúc thông tin chất lượng cao và phù hợp,
một đòi hỏi cho sự tham gia có năng lực ở tất cả
các mức và lòng tin vào và giữa thông tin đang được
trao đổi, các đơn vị trực thuộc, các cấp trên, các
đơn vị ngang hàng và công nghệ. Kết quả là các tổ
chức được kết nối mạng mạnh mẽ có khả năng tự
đồng bộ, giảm đột ngột được cả nhu cầu về can
thiệp chỉ huy để vượt qua được những thất thuwongf
của không gian chiến trận và thời gian được yêu cầu
cho lực lượng trả lời có ý nghĩa cho sự khích lệ mới
trong hoạt động.
Để sự tự đồng
bộ của Sức mạnh tới cùng cực làm việc được, các
tổ chức trực thuộc phải được xúc tác kỹ thuật và
được trạng bị theo các thủ tục để tham gia đầy đủ
trong cung ứng, tiêu dùng và cải thiện thông tin chiến
địa. Cùng lúc, người chỉ huy phải tạo ra một môi
trường nơi mà tất cả các thành viên của cộng đồng
nhận thức được về toàn bộ các mục tiêu nhiệm vụ,
ý định được truyền đạt rõ ràng và ở những nơi mà
tính mà và lòng tin giữa các đơn vị chỉ huy và trực
thuộc được khuyến khích. Phần của môi trường này
đang đảm bảo rằng, trong các ràng buộc an ninh tác chiến
phù hợp, tất cả các đơn vị trực thuộc có sự truy
cập theo nhu cầu tới các dữ liệu chiến thuật và tình
báo được chỉ huy nắm.
Hơn nữa, người chỉ
huy cần đảm bảo rằng các đơn vị trực thuộc có tư
liệu và sự hỗ trợ hậu cần cần thiết (như, trang
thiết bị, huấn luyện, …) để tham gia có hiệu quả
trong Chiến tranh Hướng Mạng - NCW (Network - Centric
Warfare), và để nuôi dưỡng tư duy chia sẻ mà khuyến
khích các đơn vị trực thuộc thực hiện các sáng kiến
và tìm ra các giải pháp sáng tạo không có tác động
chống đối đối với các quyết định không hoàn hảo.
Yêu cầu cuối cùng là sống còn. Việc nắm lấy rủi ro
một cách thận trọng là một yếu tố khởi đầu, sáng
tạo và đổi mới. Sức mạnh tới cùng cực đòi hỏi
rằng những người chỉ huy khuyến khích các đơn vị
trực thuộc của họ thực thi sáng kiến chiến thuật,
trong khi nhận thức được rằng các lỗi và sự ngược
lại sẽ xảy ra. Tổng số các thành công xuất phát từ
sự thực thi sáng kiến trên chiến địa, theo lý thuyết,
sẽ vượt qua được những phản xung ngẫu nhiên. Một
triết lý chỉ huy 'sức chịu đựng lỗi bằng 0' không
khuyến khích sáng kiến và bóp nghẹt sự đổi mới.
Trong các cộng đồng nguồn mở và Agile (lanh lẹ), điều
này được gọi là 'hỏng nhanh', và là một sự cần
thiết và mặt được khuyến khích của vòng đời phát
triển.
Một bông hồng với
bất kỳ tên nào khác
Thậm chí một sự
làm quen nhanh với triết lý chỉ huy và kiểm soát chỉ ra
một sự tương quan nổi bật giữa Sức mạnh tới cùng
cực và giáo lý của văn hóa nguồn mở. Tuy nhiên, có khả
năng, để đi một bước xa hơn và thực hiện một trường
hợp mạnh mẽ rằng văn hóa nguồn mở
là tương tự với Sức mạnh tới cùng cực, nó nhanh
chóng trở thành học thuyết chiến trận áp đảo của
thế kỷ 21. Bảng bên dưới có liên quan tới các
tính năng của một tổ chức mà đã ôm lấy văn hóa
nguồn mở với giáo lý tương ứng đối với học thuyết
Sức mạng tới cùng cực:
Kết luận
Nguồn mở là hơn cả
một sơ đồ cấp phép cho phần mềm hoặc một mô hình
kinh doanh. Nó là một văn hóa tổ chức và một triết lý
quản lý dẫn dắt tới thực thi dự án có hiệu quả và
hiệu lực, thường ở trong sự tiết kiệm đáng kể thời
gian và các tài nguyên. Với sự chấp nhận rộng rãi của
học thuyết Sức mạnh tới cùng cực, nguồn mở không
còn là sự nổi loạn phản văn hóa đối với sự thiếu
năng lực của các tổ chức lớn. Thay vào đó, nó đã
chín muồi trong triết lý quản lý áp đảo của một
trong những doanh nghiệp lớn nhất và phức tạp nhất
trên thế giới. Chúng ta chỉ có thể hy vọng thấy giới
công nghiệp và chính phủ tuân theo nó.
Được đưa lên
ban đầu trên The
Intelligent Triad. Được đăng lại theo giấy phép
Creative Commons.
Open
source software offers the promise of a revolutionary
transformation in defense, intelligence, law enforcement, and
government technology at a cost and pace that satisfies the competing
requirements of shrinking resources and constantly accelerating
global operations. While this technological transformation is
emphasized by engineers and developers within industry and the
acquisition community, it is often perceived as tangential to those
with an operational focus.
This
apparent dissonance between the acquisitions and operational
communities is caused by the broad nature of the open source
phenomenon: Open source refers as much to a cultural perspective as
it does to a technology model. However, the gulf separating the two
sides isn’t as wide as it may appear. For the acquisitions
community, open source technology enables the rapid insertion of new
and improved capabilities. For the operators, open source culture
enables the achievement of a doctrine and force structure for
self-synchronizing operations. The cultural and technological synergy
of open source is the catalyst for, as David Alberts and Richard
Hayes put it, pushing "power
to the edge."
Open
source culture
One
of the best expositions of open source culture is Jason Hibbets' The
foundation for an open source city.
In addition to being a compelling call to arms for open source
advocates, the book offers a pragmatic exposition of the
characteristics necessary for an organization to reap the benefits of
open source culture. Open source, as Hibbets points out, encompasses
more than the selection of a software licensing scheme. Open source
is about empowering both creators and users to determine the most
effective solutions to a problem and at the same time, empowering
them to add experiential value to those solutions derived from their
own knowledge and experience.
The
characteristics of an 'open source city' are neatly summarized in
five bullets:
- Fostering a culture of citizen participation
- Having an effective open government policy
- Having an effective open data initiative
- Promoting open source groups and conferences
- Being a hub for innovation and open source business.
It’s
worth a brief look at each of these.
Citizen—and
for our purposes, that can be read as 'user'—participation is
critical to the rapid development of innovative solutions. Broad
citizen participation allows issues and challenges facing a political
entity to be placed before its constituency. More importantly, it
allows for solution concepts to be drawn from the constituency—a
much larger pool than government. The contemporary buzzword for
obtaining ideas by casting challenges before a mass of people
(especially from an online community) is 'crowdsourcing.' It’s
really a much older concept. In The
Cathedral and the Bazaar,
open source evangelist Eric S. Raymond called it 'Linus’ Law,' in
honor of the originator of Linux, an open source operating system,
Linus
Torvalds. Linus’ Law says: "Given enough eyeballs, all
bugs are shallow," applying the principles of broad
enfranchisement and participation to problem solving.
Open
government policies are designed to improve transparency (and,
concomitantly, trust), access to public information, and coordination
between government (and other public sector entities) non-profit, the
private sector, and the citizenry. They do so by emphasizing
distributed review, inclusiveness and broad and diverse
participation. Such policies are often tangibly expressed as publicly
accessible web portals with open data, web, and mobile applications
for visualizing and using the data and links to stakeholder
organizations.
Open
data initiatives are about making data both publicly available and
useful. Making raw data sets accessible doesn’t help the vast
majority of users. True open data initiatives provide mechanisms by
which users can consume the available data. These may include
visualization tools, search engines and web applications that enable
users to derive benefit from the data.
Open
source culture is grassroots in nature. In order to thrive it
requires an environment in which stakeholder communities are
encouraged and supported. Support means a number of things, including
providing physical space in which to conduct activities and meetings,
an environment that encourages a continual influx of new ideas and
concepts, using official channels to disseminate information about
and of relevance to the open source communities both internally and
externally and, of course, financial support. The nature of this
support is important; it should be enabling rather than prescriptive
if the broad participation that empowers open source is to be
effected.
The
last characteristic, that of being a hub for innovation, is really
the result of the other four. When a political entity enables open
source with the encouragement of broad participation, enactment of
governance policies, open data and material support, many groups with
a common vision, but a diversity of approaches to realization, are
brought together. The result is that only broad guidance is necessary
to create the desired effects.
Power
to the edge
Power
to the edge is a
command and control philosophy initially articulated in the early
21st century by the US Department of Defense Command and Control
Research Program (CCRP).
Command and control (C2) is, in US doctrinal terms, an organization’s
ability to exercise authority and direction over subordinate
components to achieve mission objectives. Command and control is
achieved through the interplay of personnel, equipment,
communications, facilities and procedures that enable a commander to
plan, coordinate and control forces during operational activities.
Power
to the edge philosophy emphasizes a decentralized form of command and
control where the commander’s role shifts from one of providing
prescriptive oversight (i.e., a goal, an operational solution and
direction as to how to achieve that solution) one of providing
general guidance and enabling support. The concept is not new;
indeed, the German Army has emphasized what it called Auftragstaktik,
or mission-type tactics, since the early 19th century. Auftragstaktik
as a doctrine features individual initiative, independent
decisionmaking and encouraging subordinate leaders to reach tactical
decisions on their own accord in furtherance of a general command
intent. The commander’s primary roles are to provide an overall
vision of the objective end state and to support the force, giving
virtual autonomy to the subordinate commanders in achieving her
intent.
The
key difference between Auftragstaktik as practiced by the German Army
in two World Wars and Power to the Edge as envisioned by the CCRP is
the addition of shared situational awareness, enabled and supported
by robust networking, in both superior-subordinate and peer-to-peer
relationships. Shared situational awareness between peer
organizations engenders clear and consistent understanding of the
commander’s intent, the timely exchange of relevant and
high-quality information, a demand for competent participation at all
levels and trust in and between the information being exchanged,
subordinates, superiors, peers and technology. The result is that
robustly networked organizations are able to self-synchronize,
dramatically reducing both the need for command intervention to cope
with the vagaries of the battlespace and the time required for the
force to make sense of and respond to new operational stimuli.
For
Power to the Edge/self-synchronization to work, the subordinate
organizations must be technically enabled and procedurally empowered
to fully engage in the supply, consumption and enhancement of
battlefield information. At the same time, the commander must create
an environment where all members of the community are aware of the
overall mission goals, the intent is clearly communicated and where
openness and trust between the command and subordinate units is
fostered. Part of this environment is ensuring that, within relevant
operational security constraints, all subordinates have on demand
access to the tactical and intelligence data held at the command.
Additionally,
the commander needs to ensure that subordinate units have the
necessary material and logistics support (i.e., equipment, training,
etc.) to participate effectively in Network-Centric Warfare (NCW),
and to nurture a shared mindset that encourages subordinates to
exercise initiative and find creative solutions without adverse
impact for imperfect decisions. The last requirement is
critical. Prudent risk-taking is an element of initiative, creativity
and innovation. Power to the Edge demands that commanders encourage
their subordinates to exercise tactical initiative, while recognizing
that errors and reverses will occur. The sum of successes derived
from the exercise of battlespace initiative, the theory states, will
overcome the occasional setbacks. A 'zero defect tolerance' command
philosophy discourages initiative and stifles innovation. In the open
source and Agile communities, this is called 'failing fast,' and is a
necessary and encouraged facet of the development life cycle.
A
rose by any other name
Even
a cursory familiarity with command and control philosophy shows a
striking correlation between Power to the Edge and the tenets of open
source culture. It’s possible, however, to go a step further and
make a strong case that open source culture is synonymous with Power
to the Edge, which is rapidly becoming the dominant battlefield
doctrine of the 21st century. The table below relates characteristics
of an organization that has embraced open source culture with
corresponding tenets of Power to the Edge doctrine:
Conclusion
Open
source is more than a licensing scheme for software or a business
model. It is an organizational culture and a management philosophy
that leads to efficient and effective project execution, often at a
significant savings in time and resources. With widespread acceptance
of Power to the Edge doctrine, open source is no longer a
countercultural rebellion against the inefficiencies of large
organizations. Instead, it has matured into the dominant management
philosophy of one of the largest and most complex enterprises on the
planet. We can only hope to see industry and government follow suit.
Originally
posted on The
Intelligent Triad. Reposted under Creative Commons.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.