Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Về Hội nghị Giáo dục Mở Toàn cầu 2024 ở Brisbane, Úc


About OEGlobal 2024 in Brisbane, Australia

Theo: https://conference.oeglobal.org/2024/

Video: https://www.youtube.com/watch?v=jUQ0jAUjxLA

Sự kỳ diệu của tính mở đến khi những con người đa dạng và bất ngờ cùng nhau hướng đến một mục đích chung. Hội nghị Toàn cầu Giáo dục Mở (OEGlobal) cung cấp nhiều cơ hội cho việc kết nối mạng, học tập, động não, và khai thác mở các cơ hội và hợp tác.

Giáo dục Mở Toàn cầu (OEGlobal), Đại học Nam Queensland, Đại học Công nghệ Queensland, và Thư viện Bang Queensland tự hào đồng tổ chức Hội nghị OEGlobal 2024 (#OEGlobal24) ở Brisbane, Úc.

Được tổ chức thường niên, Hội nghị Giáo dục Mở toàn cầu là địa điểm chính cho về Giáo dục Mở cho các nhà thực hành, các nhà hoạch định chính sách, các nhà biện hộ, các nhà nghiên cứu, sinh viên, và những người ra quyết định để chia sẻ các thực hành, kết nối mạng, và khởi tạo sự hợp tác. Những người tham gia cùng thảo luận các xu thế mới nhất, các thách thức và cơ hội trong giáo dục mở và chia sẻ các quan điểm của họ về đường hướng tương lai của nó. Chúng tôi mong đợi gặp bạn ở đó!

Để biết thêm: https://conference.oeglobal.org/2024/about-the-open-education-global-conference/

The magic of openness is when diverse and unexpected people come together with a common purpose. The Open Education Global (OEGlobal) conference provides multiple opportunities for networking, learning, brainstorming, and openly-exploring opportunities and collaborations.

Open Education Global (OEGlobal), the University of Southern Queensland, Queensland University of Technology, and the State Library of Queensland are proud to co-host the OEGlobal 2024 Conference (#OEGlobal24) in Brisbane, Australia.

Organised annually, OE Global Conference is the main venue for Open Education practitioners, policy builders, advocates, researchers, students, and decision-makers to share practices, network, and initiate collaborations. Participants collectively discuss the latest trends, challenges, and opportunities in open education and share their perspectives on its future direction. We look forward to seeing you there!

Know more: https://conference.oeglobal.org/2024/about-the-open-education-global-conference/

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

Lời kết về Sư phạm Mở (trang của Đại học British Columbia, Canada)


Wrap Up

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/practice/

Trong module này, chúng ta đã khám phá các định nghĩa sư phạm mở khác nhau và một số ví dụ về cách để nó được áp dụng trong lớp học. Chúng ta cũng đã tiếp cận vài cân nhắc, chẳng hạn như rủi ro và quyền riêng tư, khi chúng ta yêu cầu sinh viên làm việc trong môi trường mở.

Các bài học quan trọng

  • Sư phạm mở là việc ứng dụng các khái niệm của mở cho các thực hành giảng dạy và học tập. Nó có thể bao gồm sự kết hợp các chiến lược, công nghệ, và cộng đồng được kết nối mạng để trao quyền cho sinh viên để có kiểm soát và quyền sở hữu đối với việc học tập của riêng họ.

  • Một chiến lược chung cho sư phạm mở là để biến đổi các hoạt động của khóa học truyền thống sao cho sinh viên là những người cộng tác với các giảng viên và là các đồng sáng tạo kiến thức và nội dung. Công việc như vậy là có giá trị, đặc biệt khi nó được xuất bản mở sao cho những người khác có thể tìm thấy và sử dụng nó. Làm như vậy, sinh viên trải nghiệm các cơ hội học tập đích thực và phù hợp sát sao hơn với sứ mệnh hàn lâm của trường đại học.

  • Khi tham gia vào sư phạm mở, là quan trọng phải đối xử với sinh viên như chúng ta muốn được các bạn đồng nghiệp và những người cộng tác của chúng ta đối xử. Sinh viên sở hữu bản quyền đối với tác phẩm của riêng họ, và nên có sự lựa chọn liệu có hay không chia sẻ hoặc xuất bản nó công khai và với một giấy phép mở. Sinh viên cũng nên không bao giờ bị yêu cầu hoặc ép buộc từ bỏ bất kỳ quyền riêng tư nào của họ để hoàn thành một bài tập.

In this module, we’ve explored different definitions of open pedagogy and some examples of how it is applied in the classroom. We’ve also touched on some considerations, such as risk and privacy, when we ask students to work in the open.

Key Takeaways

  • Open pedagogy is the application of the concepts of open to the practices of teaching and learning. It can involve a blend of strategies, technologies, and networked communities to empower students to have control and ownership over their own learning.

  • A common strategy for open pedagogy is to transform traditional course activities so that students are collaborators with instructors and co-creators of knowledge and content. Such work is valuable, especially when it is openly published so other people can find and use it. In doing so, students experience authentic learning opportunities and are closer aligned with the academic mission of the University.

  • When engaged in open pedagogy it is important to treat students as we would want to be treated by our peers and collaborators. Students own the copyright in their own work, and should be given the choice whether or not to share or publish it publicly and with an open license. Students should also never be required or compelled to give up any of their privacy in order to complete an assignment.

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Các ví dụ và ý tưởng cho các bài tập mở (trang của Đại học British Columbia, Canada)


Examples and Ideas for Open Assignments

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/examples-and-ideas-for-open-pedagogy-assignments/

Sư phạm Mở trông như thế nào trong một khóa học?

Trong phần này, chúng tôi đã thu thập một số ví dụ các bài tập và dự án mở ở trong và ngoài UBC. Hãy bắt đầu với video bên dưới mà Janette Bulkan, trợ lý giáo sư về nghiên cứu bản địa ở Khoa Rừng của UBC, mô tả cách cô đã và đang sử dụng một wiki để trao quyền cho sinh viên của cô nhằm tạo lập và chia sẻ các tài nguyên hội thoại:

Video: Đối thoại mở: Sử dụng các trang wiki để nâng cao kiến thức do sinh viên tạo ra

Janette Bulkan, trợ lý giáo sư về nghiên cứu bản địa ở Khoa Rừng của UBC: Sử dụng các trang wiki để nâng cao kiến thức do sinh viên tạo ra

Kịch bản - Thiết kế lại bài tập

Hãy xem xét kịch bản này: Trong khóa học của TS. Chan về khoa học thực phẩm, họ đã hỏi sinh viên để thiết kế các áp phích về các vấn đề liên quan đến các chủ đề cụ thể trong khóa học đó. Ở cuối khóa học, có một phiên trình bày áp phích trong đó các sinh viên có cơ hội trình bày các áp phích của họ ở sảnh lớn tòa nhà của khoa. TS. Chan nhận thấy rằng mặc dù sinh viên bỏ công sức vào việc làm áp phích, nhưng rất ít sinh viên đến lấy áp phích sau buổi học và cô phải tái chế chúng vào cuối học kỳ. Họ muốn thiết kế lại bài tập đó sao cho tác phẩm và các nỗ lực của sinh viên không bị bỏ phí.

  • Các bước hoặc chiến lược nào TS. Chan có thể triển khai để chắc chắn tác phẩm của sinh viên có ý nghĩa và có giá trị vượt ra khỏi khóa học?

Sư phạm Mở ở UBC

Có nhiều ví dụ cụ thể về sư phạm mở ở UBC, chẳng hạn như:

Sinh viên ngành Nghiên cứu Mỹ Latinh tạo lập và chia sẻ các đối tượng học tập dựa trên video cho các lớp học của họ

Trong Giới thiệu về khóa học ngành Nghiên cứu Mỹ Latin của Jon Beasley-Murray, các sinh viên tạo các video về các chủ đề khóa học cụ thể cũng như hàng tuần viết phản hồi của cá nhân trên các blog của họ.

Các sinh viên kỹ thuật tạo ra một sách giáo khoa mở trên trực tuyến

Các sinh viên kỹ thuật của Agnes d’Entremount sử dụng Wiki của UBC để viết một sách giáo khoa mở sẽ gồm rà soát lại tư liệu và các chủ đề khóa học. Sách giáo khoa mở đó sẽ được thiết lập trên một wiki của UBC, và sẽ sẵn sàng cho các sinh viên trong tương lai để sử dụng và xây dựng dựa vào nó.

Sinh viên về Giới tính, Chủng tộc, Tình dục và Công lý Xã hội tạo lập, xuất bản và chia sẻ các tạp chí

Dự án này của Jessi Taylor và Erin Fields thấy sinh viên trong một khóa học về Giới tính, Chủng tộc, Tình dục và Công lý Xã hội - GRJS (Gender, Race, Sexuality and Social Justice) làm việc cùng nhau để tạo ra các tạp chí của riêng họ về các chủ để tự chọn sẽ cho phép sinh viên mang cộng đồng vào trong lớp học. Các tạp chí của sinh viên đã được kết hợp vào trong ngày ‘Triển lãm Tạp chí’ mở và được trình bày trong Thư viện KTNGDMner.

Sinh viên ngành rừng tạo lập các trường hợp điển hình hội thoại mở

Sinh viên trong vài khóa học ngành rừng khác nhau được Janette Bulkan và Fernanda Tomaselli dạy đang tạo ra tài nguyên giáo dục mở có thể được sử dụng khắp trên thế giới. Các tài nguyên đó được tạo ra dựa trên Wiki của UBC và được xuất bản trên trang web Trường hợp Điển hình Mở của UBC, tập hợp các giảng viên và sinh viên từ các ngành khác nhau để viết, soạn sửa, và học hỏi với các trường hợp điển hình là tự do không mất tiền và mở - chúng là sẵn sàng công khai và miễn phí, và chúng được cấp phép để cho phép những người khác sửa lại và sử dụng lại chúng.

Các khóa học khắp UBC để sinh viên phân tích, soạn sửa, và cải tiến Wikipedia

Wikipedia là một trong những nguồn tài nguyên mở được sử dụng nhiều nhất nhưng có có các khoảng trống và thành kiến. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể đóng góp cho nó và sinh viên trong các khóa học của UBC về lịch sử, nghiên cứu về Mỹ Latin, sinh học, khoa học thực phẩm, văn học, khoa học trái đất, sinh thái học, và nhiều hơn nữa đã được giao nhiệm vụ phân tích, tạo lập hoặc soạn sửa các bài viết của Wikipedia. Để có thêm thông tin, xem các tiểu luận của Tina Loo hoặc Jon Beasley-Murray giải thích vì sao họ đã sử dụng Wikipedia trong lớp học.

Sinh viên về vật lý tạo lập các tài nguyên học tập của khóa học

Trong khóa học Vật lý 101 của Simon Bates, sinh viên đã tạo ra các đối tượng học tập ban đầu về khái niệm hoặc chủ đề trong danh sách đọc họ thấy thách thức. Sinh viên đã được khuyến khích sáng tạo, và chọn chủ đề họ quan tâm và chia sẻ tài nguyên của họ trên một blog của khóa học. Để tạo ra một cộng đồng học tập cộng tác, sinh viên được yêu cầu áp dụng một giấy phép Creative Commons cho các đối tượng của họ, nên những người khác có thể truy cập và học hỏi từ các tài nguyên của họ.

Học sinh chuyên ngành cổ điển đang tạo ra một người đọc/sách giáo khoa mở

Các sinh viên của Siobhán McElduff đang tạo ra một người đọc TNGDM về các nhóm bị xã hội kỳ thị ở Rome cổ đại như một phần các bài tập khóa học của họ. Người đọc sẽ tìm thấy các bản dịch gốc và không có bản quyền của các văn bản cổ, cùng với phần giới thiệu, chú giải thuật ngữ, hình ảnh và tài liệu giải thích khác do sinh viên - học giả biên soạn.

Các sinh viên khoa luật phân tích công khai các vấn đề và viết blog

Trong các khóa học về luật của Jon Festinger, các sinh viên được mời phân tích và phản ánh công khai về các vấn đề liên quan đến khóa học của họ như một phần của các điểm tham gia của họ.

Các ví dụ khác ngoài UBC

  • Các sinh viên viết các câu hỏi nhiều lựa chọn: Trong quá trình của từng trong số 10 tuần khi đã không có cuộc thi nào được lên lịch, giảng viên này đã yêu cầu các sinh viên của mình viết các câu hỏi nhiều lựa chọn. Tuy nhiên, bài tập này cũng đã phục vụ một mục đích thực dụng trong đó một cuốn sách giáo khoa mở họ sử dụng cho khóa học này còn chưa có kho câu hỏi được làm cho sẵn sàng.

  • Các sinh viên tạo lập tài nguyên mở: Giới thiệu bộ não đã được tạo ra bởi các sinh viên Tâm lý học năm thứ nhất, bao gồm gói thông tin giới thiệu cho các sinh viên trung học phổ thông và một hoạt động với các tư liệu in được.

  • Kho bài tập mở: Trang web này có các bài tập mà những người tham gia trong một khóa học mở kỹ thuật số trên trực tuyến về kể chuyện, ds106, hoàn thành như một phần công việc của họ trong khóa học. Thay vì chỉ định các bài tập, từng người phải làm, những người tham gia có thể chọn từ một loạt các bài tập có trên trang web này - tất cả chúng đã được những người tham gia khóa học tạo ra.

  • Các sinh viên viết sách giáo khoa mở: Cuốn sách này được biên soạn hoàn toàn bởi các sinh viên trong buổi hội thảo năm thứ nhất vào mùa thu năm 2016 tại Đại học Plymouth State. Nó đã được tổ chức xoay quanh một tập hợp cốt lõi các thực hành sư phạm mở. Chủ đề cho khóa học từng là “Đây là khóa học của ai?” Các sinh viên đã tạo ra tất cả các kết quả học tập, các bài tập, các chính sách khóa học, và các quy trình chấm điểm.

  • Các sinh viên tạo ra các ứng dụng (apps): Trong một khóa học ở TRU có tên là Thiết kế các Hệ thống Chuyên gia Pháp lý: Các ứng dụng Apps để Tiếp cận Pháp lý, các sinh viên đã làm việc với các tổ chức ‘khách hàng’ phi lợi nhuận để lấy kiến thức và quy tắc pháp lý dưới dạng một chuỗi các cây ra quyết định và chuyển chúng vào ứng dụng.

Danh sách này đã được tùy chỉnh từ module Sư phạm Mở của Mural UDG từ Tannis Morgan. Nó được chia sẻ theo giấy phép Creative Commons Ghi công - Phi thương mại 4.0 (CC BY NC 4.0).

Đào sâu hơn

Để đọc nhiều ví dụ hơn về các bài tập và dự án sư phạm mở, bạn có thể muốn xem Kho ví dụ về các ghi chép Sư phạm Mở.

Các ý tưởng cho sinh viên

Sinh viên cũng có thể chủ động về các dự án mở. Họ có thể biến các bài tập, bài luận, và các công việc học thuật khác thành một tài nguyên giáo dục mở. Ví dụ, nếu bạn là sinh viên, bạn có thể:

  • Cân nhắc áp dụng một giấy phép Creative Commons cho tác phẩm của bạn để làm cho nó chia sẻ được nhiều hơn.

  • Làm cho tác phẩm của bạn dễ dàng tải xuống hoặc tham gia vào việc phối lại.

  • Xuất bản bài luận khóa học của bạn trên một blog hoặc wiki hay một tạp chí mở

  • Nếu bạn chụp ảnh hoặc tạo ra các hình ảnh hoặc các tệp nghe/nhìn khác, đặc biệt nếu bạn làm như vậy trong một khóa học nghiên cứu về chúng, hãy cân nhắc tải chúng lên một nền tảng chia sẻ như flickr mà cho phép bạn cấp phép mở cho chúng.

Việc xuất bản và chia sẻ là phần chính của cuộc sống học thuật và hàn lâm và có nhiều lựa chọn cho sinh viên để xuất bản tác phẩm của họ và có nhiều lựa chọn để xuất bản bao gồm việc tạo một trang web hoặc blog của UBC để đăng bài và chia sẻ tác phẩm của họ, đăng tác phẩm của họ trên kho truy cập mở của cơ sở ở Thư viện UBC, cIRcle.

Suy ngẫm về các Nền tảng Mở

UBC hỗ trợ một số công nghệ giáo dục khác nhau có thể hỗ trợ cho các bài tập sư phạm mở. Hai trong số chúng được sử dụng phổ biến nhất là UBC BlogsUBC Wiki. Vui lòng đọc hướng dẫn giảng dạy sau đây, nó bao gồm các ví dụ về cách để các giảng viên sử dụng các nền tảng đó, và suy ngẫm về các khóa học của riêng bạn:

Bạn có thấy bản thân kết hợp bất kỳ công cụ nào trong số đó vào bài tập của bạn không? Nó có làm cho các bài tập đó “mở” không? Bạn có cần phải làm gì để bắt đầu không? Các câu hỏi nào bạn có thể có và sự hỗ trợ nào bạn có thể cần? Sự hỗ trợ nào các sinh viên của bạn có thể cần?

What does open pedagogy look like inside of a course?

In this section, we’ve collected some examples of open assignments and projects at UBC and beyond. Let’s start with the below video in which Janette Bulkan, Assistant Professor for Indigenous Studies in UBC’s Faculty of Forestry, describes how she has been using a wiki to empower her students to create and share conservation resources:

Video: Open Dialogues: Using wiki pages to advance student-created knowledge

Janette Bulkan, Assistant Professor for Indigenous Studies, UBC Faculty of Forestry: Using wiki pages to advance student-created knowledge

Scenario – Redesigning an Assignment

Let’s consider this scenario: In Dr. Chan’s course on food science, they have been asking students to design posters on specific issues related to the topics in the course. At the end of the course, there is a poster presentation session in which students have an opportunity to display their posters in the lobby of the faculty building. Dr. Chan has noticed that while the students put effort into the posters, very few students come to pick up their posters after the session and she ends up recycling them at the end of the term. They would like to redesign the assignment so that the students’ work and efforts do not go to waste.

  • What steps or strategies could Dr. Chan implement to make sure their students’ work has meaning and is valuable beyond course?

Open Pedagogy at UBC

There are many specific examples of open pedagogy at UBC, such as:

Latin American Studies students creating and sharing video-based learning objects for their classes

In Jon Beasley-Murray’s Introduction to Latin American Studies course, students are creating videos about specific course topics as well as writing weekly personal reflections on their blogs.

Engineering students creating an open online textbook

Agnes d’Entremount’s engineering students are using the UBC Wiki to write an open textbook that will contain literature reviews and course topics. The open textbook will be set up on a UBC wiki, and will be available for future students to use and build on it.

Gender, Race, Sexuality and Social Justice students creating, publishing, and sharing zines

This project by Jessi Taylor and Erin Fields saw students in a GRJS course work together to collectively create their own zines around self-chosen topics that will allow students to bring the community into the classroom. The students’ zines were incorporated into an open ‘Zine Faire’ day and put on display in KTNGDMner Library.

Forestry students creating open conservation case studies

Students in several different forestry courses taught by Janette Bulkan and Fernanda Tomaselli are creating open education resources that can be used worldwide. The resources are created on the UBC Wiki and published on the UBC Open Case Studies site, which brings together faculty and students from different disciplines to write, edit, and learn with case studies that are free and open–they are publicly available free of cost, and they are licensed to allow others to revise and reuse them.

Courses across UBC having students analyze, edit, and improve Wikipedia

Wikipedia is one of the worlds most used open resources but it contains gaps and biases. However, any one can contribute to it and students in UBC courses in history, Latin American studies, biology, food sciences, literature, soil sciences, ecology, and more have been assigned to analysis, create or edit Wikipedia articles. For more information, see Tina Loo’s or Jon Beasley-Murray’s essays on why they used Wikipedia in the classroom.

Physics students creating course learning resources

In Simon Bates’s Physics 101 course, students created original learning objects about a concept or topic in the readings which they found challenging. Students were encouraged to be creative and pick a topic that interested them and share their resources on a course blog. In order to create a collaborative learning community, students were asked to apply a Creative Commons license to their objects, so others could access and learn from their resources.

Classics students creating an open textbook/reader

Siobhán McElduff’s students are creating an TNGDM reader on socially stigmatized groups in ancient Rome as part of their course assignments. The reader will contain out of copyright and original translations of ancient texts, along with student-scholar created introductions, glossaries, images and other explanatory material.

Law students publicly analyzing issues and blogging

In Jon Festinger’s law courses, students are invited to publicly analyze and reflect on issues related to their course as part of their participation marks.

Other examples beyond UBC

  • Students writing multiple-choice questions: During each of the 10 weeks when there was no scheduled exam, this instructor asked their students to write multiple-choice questions. However, this assignment also served a pragmatic purpose in that the open textbook that they use for this course does not yet have a readymade question bank.

  • Students creating open resources: Introduction to the Brain has been created by final year Psychology students including an introductory information pack for high school students and an activity with printable materials.

  • Open assignment banks: This site hosts the assignments that participants in the open online digital storytelling course, ds106, complete as part of their work in the course. Rather than specifying assignments, everyone must do, participants can choose from an array of ones included on this site- all of them have been created by course participants.

  • Students writing open textbooks: This book was created entirely by students in a Fall 2016 section of a first-year seminar at Plymouth State University. It was organized around a core set of open pedagogical practices. The theme for the course was “Whose Course Is This, Anyway?” Students created all learning outcomes, assignments, course policies, and grading processes.

  • Students creating apps: In a course at TRU called Designing Legal Expert Systems: Apps for Access to Justice, students worked with non-profit ‘client’ organizations to take legal knowledge and rules as a series of decision-making trees and translate that onto an app.

This list was adapted from Mural UDG Open Pedagogy module by Tannis Morgan. It is shared under a Creative Commons Attribution-NonCommercial 4.0 International License. 

Dig Deeper

To read about more examples of open pedagogy assignments and projects, you may wish to browse the Open Pedagogy Notebooks’s Example Repository.

Ideas for Students

Students can also take the initiative on open projects. They can turn assignments, essays, and other academic work into an open educational resources. For example, if you are a student, you could:

  • Consider applying a Creative Commons license to your work which makes it more shareable.

  • Make your work easy to download or take apart for remixing.

  • Publish your course essays on a blog or wiki or in an open journal.

  • If you take photos or create images or other media, especially if you do so in the course of their studies, consider uploading them to a sharing platform like flickr that allows you to license them openly.

Publishing and sharing is a key part of scholarship and academic life and there are many options for students to publish their work and there are many options for publishing including creating a UBC site or blog for posting and sharing their work, posting their work to UBC Library’s institutional open access repository, cIRcle.

Reflection on Open Platforms

UBC supports a number of different educational technologies that can support open pedagogy assignments. Two of the most commonly used are UBC Blogs and the UBC Wiki. Please read the following teaching guides, which include examples of how instructors using these platforms, and reflect upon your own courses:

Could you see yourself incorporating either of these tools into a course assignment? Would it make those assignments “open”? What would you need to do to get started? What questions would you have and what support would you need? What support would your students need?

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Rủi ro, quyền riêng tư & quyền sở hữu (Trang của Đại học British Columbia, Canada)


Risk, Privacy & Ownership

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/student-considerations/

Khi chúng tôi yêu cầu sinh viên làm việc trong môi trường mở, chúng tôi đang hỏi họ làm gì? Các bài tập sư phạm mở có thể thu hút sinh viên tham gia với các cộng đồng khác với các đồng nghiệp của họ trong một lớp học, mở ra các ý tưởng của họ để được công chúng soi xét kỹ, và tạo ra và giao tiếp theo một cách thức mới. Khi sinh viên xuất bản mở bài của họ thông qua các nền tảng trên trực tuyến như blog, wiki, sách giáo khoa mở, phương tiện truyền thông xã hội, v.v., họ không nhất thiết sử dụng định dạng hoặc các kỹ năng tương tự như khi họ viết một tài liệu nghiên cứu hoặc bài luận có tính thuyết phục; thay vào đó họ đang áp dụng các chiến lược mới với thông tin và kiến thức họ phải sản xuất điều gì đó mọi người sẽ sử dụng.

Làm việc trong môi trường mở và mở ra công việc của chúng ta cho công chúng có thể là đáng sợ đối với hầu hết tất cả chúng ta nhưng làm như vậy thường có nghĩa điều đó thúc đẩy chúng ta tới một tiêu chuẩn công việc cao hơn. Tuy nhiên, khi yêu cầu sinh viên làm việc trong môi trường mở, có vài cân nhắc phải ghi nhớ trong đầu.

Rủi ro

Rủi ro luôn hiện hữu với sư phạm mở, từ các nền tảng chúng ta sử dụng để khai thác và thương mại hóa lao động trí óc và dấu vết kỹ thuật số của chúng ta mà chúng ta yêu cầu sinh viên để lại trong khóa học đối với giáo dục của họ, cho tới việc chia sẻ mở các ý tưởng và thực hành còn chưa được trau chuốt khiến chúng ta bị phơi lộ và mở ra cho phê bình và phán xét. Sư phạm mở liên quan đến những lỗ hổng và rủi ro không được phân bổ đồng đều và không nên bị bỏ qua hoặc coi nhẹ. Các rủi ro đó là cao hơn đáng kể đối với phụ nữ, sinh viên và học giả da màu, giảng viên không ổn định và nhiều nhóm và tiếng nói khác bị giới hàn lâm gạt ra ngoài lề. - theo 5Rs cho Sư phạm Mở của TS. Rajiv Jhangiani.

Học tập bao gồm việc chấp nhận rủi ro. Khi sinh viên chia sẻ mở công việc của họ, họ đang đóng góp cho việc xây dựng và chia sẻ kiến thức và họ đang mở ra công việc của họ cho công chúng soi xét. Khi bạn quen với việc học tập và tạo lập đằng sau các bức tường của lớp học và chỉ với sự soi xét của giáo sư của bạn, thì việc làm việc trong môi trường mở có thể vừa đáng sợ và vừa cực kỳ bổ ích. Sinh viên sẽ muốn biết:

  • Công việc của họ có thể được những người khác đánh giá như thế nào?

  • Bổn phận của họ là gì về bản quyền và trích dẫn đúng cách công việc của những người khác?

  • Họ có thể cấp phép cho tác phẩm của họ như thế nào (với một giấy phép mở) để cho phép những người khác sử dụng lại và xây dựng dựa trên tác phẩm của họ - cùng lúc thừa nhận ghi công cho họ như là tác giả gốc?

Khi chia sẻ nội dung bên ngoài lớp học truyền thống, những người khác nhau có các mức độ thoải mái và rủi ro khác nhau và làm như vậy có thể đòi hỏi phải vật lộn với các vấn đề về lòng tin, quyền riêng tư và quyền sở hữu. Internet mở thường có thể là nơi độc hại và sinh viên cũng có thể có các câu hỏi chẳng hạn như:

  • Tôi có thẩm quyền gì khi quyết định làm việc trong môi trường mở?

  • Ai sẽ xem tác phẩm của tôi?

  • Vì sao tác phẩm của tôi có thể có giá trị cho bất kỳ ai?

  • Làm việc trong môi trường mở giúp tôi học hỏi những gì tôi cần cho khóa học này như thế nào?

  • Sự kiểm soát nào tôi sẽ có đối với tác phẩm của tôi?

  • Tôi có sự hỗ trợ nào?

  • Tiếng nói của ai bị gạt ra bên lề trong môi trường mở hoặc không gian trên trực tuyến và điều đó sẽ tác động tới tôi như thế nào?

  • Nếu tôi đang sử dụng các dạng công nghệ mới, ai sở hữu dữ liệu của tôi?

Việc trả lời trực tiếp các câu hỏi như vậy, ngay cả việc xây dựng chúng trong các thảo luận của khóa học, có thể giúp sinh viên hiểu vì sao họ đang được yêu cầu làm việc trong môi trường mở cũng như giúp xây dựng sự gắn bó và hỗ trợ của họ để làm như vậy. Bạn cũng có thể muốn cung cấp tài nguyên cho sinh viên, chẳng hạn như dự án Hình xăm Kỹ thuật số, điều có thể giúp họ đưa ra một quyết định sáng suốt về sự hiện diện kỹ thuật số của họ. Nếu bạn đang yêu cầu sinh viên tạo ra một tác phẩm có thể được coi là nội dung nhạy cảm, bạn cũng có thể muốn khuyến nghị sinh viên đọc sách hướng dẫn Chia sẻ Nội dung Nhạy cảm trên Trực tuyến từ dự án Hình xăm Kỹ thuật số.

Đào sâu hơn

Để biết nhiều hơn cách sư phạm mở có thể gây ra rủi ro và các cách thức giải quyết chúng trong thực tế, hãy xem các tài liệu sau:

Quyền riêng tư

Nếu có một quy tắc vàng cho sư phạm mở, thì đó là việc sinh viên không bao giờ nên được yêu cầu hoặc ép buộc phải từ bỏ bất kỳ quyền riêng tư nào của mình để hoàn thành bài tập. Khi tạo ra một bài tập mở, luôn là tốt để cung cấp cho sinh viên các lựa chọn về cách để họ có thể hoàn thành hoặc chia sẻ bài tập của họ, chẳng hạn như:

  • Xuất bản với một bút danh

  • Xuất bản theo cách mà chỉ những người khác trong lớp đó mới có thể nhìn thấy tác phẩm của họ

  • Chỉ gửi cho giảng viên hoặc trợ lý giảng viên

Việc xây dựng các lựa chọn như vậy trực tiếp trong một bài tập trao cho sinh viên thẩm quyền và sự kiểm soát đối với bài tập của họ.

Ngoài ra, cũng quan trọng để nhận biết và tuân thủ với bất kỳ quy định nào liên quan đến quyền riêng tư, chẳng hạn như Luật Tự do Thông tin và Bảo vệ Quyền riêng tư - BC FIPPA (Freedom of Information and Protection of Privacy Act), về việc nhận dạng thông tin đối với sinh viên. Ví dụ, FIPPA yêu cầu rằng thông tin của sinh viên chỉ được lưu trữ ở Canada và chỉ được truy cập ở Canada, điều có thể tác động tới việc sử dụng các công cụ hoặc nền tảng của bên thứ 3 để lưu trữ thông tin bên ngoài Canada. Sinh viên vì thế không bao giờ có thể bị yêu cầu phải sử dụng các công cụ như vậy nhưng có thể đồng ý để làm thế. Theo tờ tin này từ văn phòng Hội đồng Trường Đại học về việc tiết lộ thông tin cá nhân ra bên ngoài Canada, tại UBC, đồng ý cho các công cụ dựa vào đám mây có thể được sử dụng theo các điều kiện sau:

  • Trong mô tả khóa học, hoặc trong thông cáo bằng văn bản gửi tới sinh viên, mô tả dịch vụ và thông tin dựa vào đám mây mà nó sẽ lưu trữ hoặc truy cập, và giải thích rằng nếu các sinh viên chọn không đồng ý thì họ phải gặp giảng viên để dàn xếp lựa chọn thay thế; và

  • Thực hiện dàn xếp lựa chọn thay thế cho các sinh viên nào từ không đồng ý, chẳng hạn như cho phép họ đăng nhập dịch vụ đó bằng việc sử dụng tên giả và địa chỉ thư điện tử không xác định danh tính.

Quyền sở hữu

Nhiều dự án sư phạm mở yêu cầu sinh viên tạo lập TNGDM bằng việc thêm một giấy phép Creative Commons vào tác phẩm của họ. Tuy nhiên, sinh viên sở hữu bản quyền đối với tác phẩm của riêng họ, và nên có sự lựa chọn có hay không chia sẻ hoặc xuất bản nó với một giấy phép mở. Hãy nói với sinh viên về giá trị của TNGDM và vì sao bạn đang yêu cầu họ xuất bản mở tác phẩm của họ. Hãy chắc chắn họ biết về các lựa chọn khác nhau họ có về quyền riêng tư và về việc chọn một giấy phép.

Nếu bạn đang xuất bản tác phẩm của sinh viên lên một trang web mở, hãy hỏi sự cho phép của sinh viên về việc họ muốn tác phẩm của họ được đăng công khai trong bao lâu. Một số người có thể không bận tâm khi bài viết được đăng vô thời hạn, nhưng một số khác lại muốn gỡ bài viết xuống ngay khi lớp học kết thúc. Ít nhất, hãy cho họ biết rằng nếu sau này họ quyết định muốn gỡ bài xuống, họ có thể liên hệ với bạn.

Kiểm tra kiến thức của bạn

Như một phần khóa học tôi giảng dạy, tôi yêu cầu các sinh viên của mình tạo các đồ họa thông tin (Inforgraphics). Miễn là tôi không đăng chúng công khai, là OK đối với tôi để giữ lại những tấm gương tốt và xấu về tác phẩm của các sinh viên trước đó để chia sẻ chúng với lớp học hiện hành của tôi.

Đúng ○ Sai

Kiểm tra



Đào sâu thêm

Để biết thêm về quyền riêng tư của sinh viên tại UBC: bạn có thể muốn xem các tài nguyên sau đây:

When we ask students to work in the open, what are we asking them to do? Open pedagogy assignments can involve students engaging with communities other than their peers in a classroom, opening their ideas up to public scrutiny, and creating and communicating in new way. When students openly publish their work through online platforms such blogs, wikis, open textbooks, social media, etc, they are not necessarily using the same format or skills that they would in writing a research paper or persuasive essay; instead they are applying new strategies to the information and knowledge they have to produce something people will use.

Working in the open and opening up our work to the public can be scary for almost all of us but doing so usually means it pushes us to a higher standard of work. However, when asking students to work in the open, there are a few considerations to keep in mind.

Risk

Risk is ever-present with open pedagogy, from the platforms that we utilize that mine and monetize our intellectual labour and the digital footprints that we require our students to leave in the course of their education to the open sharing of unpolished ideas and practices that leave us exposed and open to criticism and judgment. Open pedagogy involves vulnerabilities and risks that are not distributed evenly and that should not be ignored or glossed over. These risks are substantially higher for women, students and scholars of colour, precarious faculty, and many other groups and voices that are marginalized by the academy.” 5Rs for Open Pedagogy, Rajiv Jhangiani, Ph.D.

Learning involves risk taking. When students share their work openly, they are contributing to the building and sharing of knowledge and they are opening up their work for public review. When you are accustomed to learning and creating behind classroom walls and for the eyes of your professor only, working in the open can be both daunting and extremely rewarding. Students will want to understand:

  • How their work may be evaluated by others?

  • What their obligations are regarding copyright and appropriate citation of others’ work?

  • How they can license their own work (with an open license) to allow others to re-use and build on their work – while attributing them as the original author?

When sharing content outside of traditional classrooms, different people have different levels of comfort and risk and doing so may require grappling with issues of trust, privacy and ownership. The open Internet can often be a toxic place and students may also have questions such as:

  • What agency do I have in deciding to work in the open?

  • Who will see my work?

  • Why would my work be of value to anyone?

  • How does working in the open help me learn what I need for this course?

  • What control will I have over my work?

  • What support do I have?

  • Whose voices are marginalized in open or online spaces and how will that impact me?

  • If I’m using new types of technologies, who owns my data?

Addressing such questions directly, even building them into course discussions, can help students understand why they are being asked to work openly as well as help to build their buy-in and support for doing so. You may also want to provide resources for students, such as the Digital Tattoo project, that can help them make an informed decision about their digital presence. If you are asking students to create a work that can be considered as sensitive content, you may also want to recommend students to read Sharing Sensitive Content Online tutorial from the Digital Tattoo Project.

Dig Deeper

To learn more how open pedagogy can incur risk and ways to address these in practice, review the following:

Privacy

If there is a golden rule for open pedagogy, it is that students should never be required or compelled to give up any of their privacy in order to complete an assignment. When creating an open assignment, it is always good to provide students with options on how they may complete or share their work, such as:

  • Publishing with a pseudonym

  • Publishing in a way that only other people in that class can see their work

  • Submitting only to the instructor or T.A.

Building such options directly into an assignments gives students agency and control over their work.

Additionally, it is also important to be aware of and comply with any relevant privacy regulations, such as BC FIPPA (Freedom of Information and Protection of Privacy Act), about identifying information for students. For example, FIPPA requires that student information be stored only in Canada and accessed only in Canada, which may impact the use of third party tools or platforms that store information outside of Canada. Students thus can never be required to use such tools but can consent to do so. According to this fact sheet from the University Counsel office on disclosing personal information outside of Canada, at UBC, consent for cloud-based tools may be used under the following conditions:

  • In the course description, or in a written communication to the students, describe the cloud-based service and the information that it will be storing or accessing, and explain that if the students choose not to provide their consent they must see the instructor to make alternate arrangements; and

  • Make alternate arrangements for students who decline to provide their consent, such as allowing them to sign in to the service using a false name and non-identifying email address.

Ownership

Many open pedagogy projects asks students to create open educational resources by adding a Creative Commons license to their work. However, students own the copyright in their own work, and should be given the choice whether or not to share or publish it with an open license. Talk with students about the value of TNGDM and why you are asking them to publish their work openly. Be sure they know about the various options they have for privacy and for choosing a license.

If you are publishing students’ work on an open site, ask for students’ permission regarding how long they would like their work to be posted publicly. Some may not mind having it posted indefinitely, but some may wish to have their work taken down as soon as the class is finished. At the very least, let them know that if they later decide they would like it taken down, they can contact you.

Test your Knowledge

As part of a course I teach, I ask my students to create infographics. As long as I don't post them openly, it is okay for me to keep good and bad examples of previous students' work in order to share them with my current class.

True ○ False

Check

Dig Deeper

To learn more about student privacy at UBC: you might want to review the following resources:

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

Người học như những người sáng tạo kiến thức (trang của Đại học British Columbia, Canada)


Students As Knowledge Creators

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/open-pedagogy-in-practice/

Trong khi uyên thâm mở (Open Scholarship) tập trung vào quyền truy cập công bằng tới kiến thức, trọng tâm của sư phạm mở là sự tham gia công bằng trong tạo lập kiến thức. Theo cách này, sư phạm mở thường biến đổi trải nghiệm của người học trong lớp học. Nó có thể giúp người học bắt đầu thấy bản thân họ như là các học giả và nó chuyển hướng giảng viên từ chuyên gia thông tin thành một vai trò tạo thuận lợi để hỗ trợ người học đàm luận về các ý tưởng và biến các nỗ lực học tập của người học thành nguồn kiến thức mở. Nếu mục tiêu cốt lõi của uyên thâm là nghiên cứu, phổ biến, và đối thoại để mở rộng kho kiến thức và phát triển các lĩnh vực nghiên cứu, thì sư phạm mở thu hút người học vào chính quá trình này trong các khóa học của họ. Trái ngược với các đánh giá học tập truyền thống như bài kiểm tra trắc nghiệm hoặc bài luận, bài tập của người học trong sư phạm mở được coi là có giá trị vượt ra ngoài việc chỉ cung cấp thông tin cho người học hoặc giảng viên. Vì vậy, người học được yêu cầu tạo ra kiến thức mới và được trao một mức độ tự chủ, quyền chủ động và kiểm soát nhất định đối với công việc của mình.

“Chúng ta thường yêu cầu sinh viên làm bài tập chỉ để cho chúng ta thấy rằng họ có thể làm được. Tôi muốn họ làm điều gì đó có giá trị thực sự chứ không phải chỉ là bài tập trang điểm mà họ thực hiện chỉ để cho [các giáo sư] thấy họ biết cách làm mọi việc”. TS. Rosie Redfield, UBC Zoology

Trong video bên dưới, David Gaertner, Trợ lý Giáo sư, UBC First Nations and Indigenous Studies, mô tả một số động lực của ông giải thích vì sao ông thu hút người học của mình vào sư phạm mở:

Video: Đối thoại mở: Cách để thu hút và hỗ trợ người học vào sư phạm mở

David Gaertner, Trợ lý Giáo sư, UBC First Nations and Indigenous Studies: Cách để thu hút và hỗ trợ người học vào sư phạm mở

Người học như là các nhà sản xuất/nhà sáng tạo


Việc để
người học trở thành nhà sáng tạo nội dung, được mô tả như là mô hình “Người học như là nhà sản xuất” của Mike Neary tại Đại học Lincoln, nhấn mạnh vai trò của người học như những người cộng tác với các giảng viên trong sản xuất kiến thức. Bằng việc thu hút người học vào việc sản xuất và chia sẻ kiến thức, mô hình này giúp biến người học từ đối tượng của quá trình học tập thành chủ thể của nó. Ngoài ra, trong mô hình người học như là nhà sản xuất, cách tiếp cận của trường đại học về học tập và nghiên cứu sẽ nhất quán chặt chẽ hơn: ví dụ, người học, tương tự nhà nghiên cứu, được yêu cầu chia sẻ công việc của họ với các đối tượng đích thực chứ không chỉ với giảng viên hoặc cố vấn trực tiếp của họ. Như Neary Winn nêu, theo cách này người học trở thành một phần của một dự án học thuật của trường Đại học và là những người cộng tác với các nhân viên hàn lâm trong sản xuất kiến thức và ý nghĩa.

Theo Derek Bruff, Giám đốc Trung tâm Giảng dạy ở Đại học Vanderbilt, người học thường tham gia trong sản xuất kiến thức bên ngoài lớp học, thông qua nghiên cứu khi chưa tốt nghiệp, thực tập, hợp tác, v.v. Tuy nhiên, ông gợi ý rằng có nhiều cơ hội để thu hút người học vào việc tạo lập kiến thức trong lớp học và gợi ý người học như nhà sản xuất các bài tập hoặc khóa học có các khía cạnh chung sau đây:

  • Người học được yêu cầu làm việc về các vấn đề còn chưa được giải quyết đầy đủ hoặc các câu hỏi còn chưa được trả lời đầy đủ.

  • Người học được yêu cầu chia sẻ công việc của họ với các đối tượng đích thực, không chỉ giảng viên của họ.

  • Người học cũng được trao quyền tự chủ nhất định trong công việc của mình.

Kịch bản - thu hút người học thông qua công việc mở

Hãy xem xét kịch bản này: Trong khóa học của TS. Smith về bảo tồn rừng, họ yêu cầu những người học nghiên cứu các chính sách bảo tồn rừng ở một khu vực cụ thể, đánh giá nghiêm túc các chính sách đó và sau đó viết một bài luận dài từ bảy đến mười trang về chủ đề này. Những người học dường như có ít thời gian tham gia với bài tập đó và, trong phản hồi, những người học đã lưu ý rằng bài tập đó vừa khó nhưng cũng có cảm giác đây là công việc bận rộn. TS. Smith cảm thấy bài tập đó là có giá trị vì nó khiến người học phải suy nghĩ phản biện về chủ đề của lớp học. Hơn nữa, họ cảm thấy công việc mà người học làm có tiềm năng trở thành công trình học thuật và đang nghĩ đến việc để người học đăng bài luận của mình lên trang web hoặc blog của khóa học.

    • Việc đăng bài lên Internet sẽ thay đổi bản chất của bài tập như thế nào?

    • TS. Smith có thể đưa ra những chiến lược hoặc phương pháp hỗ trợ nào vào bài tập để đảm bảo rằng người học sẽ thành công?

    • TS. Smith có nên thay đổi cấu trúc hoặc trọng số của điểm cho bài tập không?

Bài tập có thể làm mới lại được

David Wiley đã lập luận rằng phần lớn bài tập của sinh viên có thể được coi là có thể vứt bỏ: “Đây là những bài tập mà sinh viên phàn nàn về việc phải làm và giảng viên phàn nàn về việc chấm điểm. Đó là những bài tập không mang lại giá trị nào cho thế giới - sau khi sinh viên dành ba giờ để tạo ra nó, giáo viên dành 30 phút để chấm điểm, rồi sinh viên vứt nó đi. Những bài tập này không chỉ không mang lại giá trị nào cho thế giới mà thực tế còn hút hết giá trị của thế giới. Như Hendricks đã nói, không phải là những bài tập như vậy không có giá trị gì cả. Chúng thường có thể rất hữu ích để khuyến khích sinh viên học tập và áp dụng thông tin, tiếp thu các kỹ năng nghiên cứu và khác, tham gia giải quyết vấn đề, v.v. Nếu được thực hiện tốt, chúng có thể cho giảng viên thấy mức độ thành thạo mà sinh viên đã đạt được. Nhưng điều quan trọng cần cân nhắc là thấy rằng "bài tập có thể vứt bỏ" không mang lại bất kỳ giá trị nào nữa cho thế giới sau khi chúng hoàn thành.

Điều gì làm cho một bài tập có thể được gia hạn hoặc bị loại bỏ? Wiley gợi ýmột bài tập có thể bị loại bỏ là bất kỳ bài tập nào sinh viên và giảng viên hiểu những điều sau:

  • Sinh viên sẽ làm bài đó

  • Giảng viên sẽ chấm điểm bài đó

  • Sinh viên sẽ vứt bỏ bài đó

Một bài tập được làm mới lại là bất kỳ bài tập nào mà:

  • Sinh viên sẽ làm bài đó

  • Giảng viên sẽ chấm bài đó

  • Bài đó vốn dĩ có giá trị cho ai đó bên ngoài lớp học

  • Bài đó được xuất bản mở nên những người khác có thể tìm thấy và sử dụng nó

Kiểm tra kiến thức của bạn

Các ví dụ sau đây, ví dụ nào là các bài tập làm mới lại được?

  • Yêu cầu sinh viên cải thiện một bài báo của Wikipedia như một phần công việc trong khóa học của họ.

  • Yêu cầu sinh viên viết phản biện. Sau khi sinh viên viết xong phản biện đó, các bạn cùng lớp sẽ rà soát lại ngang hàng bài của nhau thông qua một buổi học đồng bộ (trên trực tuyến hoặc trực tiếp).

  • Yêu cầu sinh viên tạo một đồ họa thông tin cho bài tập của họ, nó sẽ được gửi qua một Hệ thống Quản lý Học tập của khóa học (ví dụ, Canvas).

  • Yêu cầu sinh viên tạo một trường hợp điển hình trên một website công khai. Trường hợp điển hình đó sẽ được xuất bản theo giấy phép CC BY-SA.

Kiểm tra



Sư phạm được TNGDM xúc tác

Xây dựng dựa trên khái niệm bài tập làm mới lại được, David Wiley và John Hilton III đã tinh chỉnh thêm nữa định nghĩa sư phạm mở của Wiley như là thực hành chỉ có thể trong bối cảnh của truy cập miễn phí và các quyền 5R. Sự tinh chỉnh thêm này được gắn nhãn “Sư phạm được TNGDM xúc tác” (TNGDM-enabled Pedagogy). Wiley và Hilton nêu rằng khi các bài tập của sinh viên được cấp phép mở, “việc trao cho người khác các quyền 5R để sử dụng các quyền đó đối với các chế tác, từng bài tập trở thành sự bắt đầu của một cuộc đàm thoại liên tục ở đó những người học khác tham gia khi họ ngữ cảnh hóa và mở rộng bài tập đó để hỗ trợ cho việc học tập của riêng họ. Việc cấp phép mở cũng đảm bảo rằng các chế tác đó sẽ là sẵn sàng vĩnh viễn và miễn phí cho tất cả những ai muốn sử dụng chúng như một phần việc học tập của họ. Wiley và Hilton gợi ý các câu hỏi sau đây có thể giúp xác định mức độ ở đó thực hành giảng dạy và học tập cụ thể đủ điều kiện là sư phạm được TNGDM xúc tác:

  • Người học được yêu cầu tạo ra các chế tác mới (bài luận, thơ, video, bài hát, v.v.) hay sửa lại/phối lại TNGDM có sẵn?

  • Chế tác mới có giá trị vượt ra khỏi việc hỗ trợ học tập của tác giả của nó?

  • Người học được mời chia sẻ công khai các chế tác hoặc TNGDM mới, được sửa lại/được phối lại của họ?

  • Người học được mời cấp phép mở cho các chế tác hoặc TNGDM mới, được sửa lại/được phối lại của họ?

Vì sao sinh viên nên quan tâm về Sư phạm Mở?

Sinh viên thường tham gia rồi trong các dạng học tập mở khác nhau. Nếu bạn là sinh viên, bạn có bao giờ:

  • Đã tạo ra và tải lên một video mà dạy những người khác cách để làm điều gì đó?

  • Đã chia sẻ mã/dự án của bạn trên GitHub?

  • Đã bỏ thời gian trên Reddit - ngẫu nhiên hoặc có mục đích tham gia vào cuộc thảo luận về điều gì đó bạn quan tâm?

  • Đã xuất bản bất kỳ tư liệu học tập nào trên một blog, Reddit hoặc Facebook?

  • Đã chia sẻ hoặc bám theo một đường liên kết để học điều gì đó từ ai đó bạn bám theo trên Twitter?

  • Đã đóng góp hoặc đã học hỏi từ Wikipedia?

Nếu bạn đã làm bất kỳ điều gì trong số đó, bạn đã tham gia vào việc học tập mở theo một vài cách thức. Công việc mà các sinh viên làm như một phần của việc học tập của họ có giá trị và việc chia sẻ công việc này với những người khác là một phần của uyên thâm hàn lâm.

Khi sinh viên chia sẻ mở công việc của họ, họ đang đóng góp cho việc xây dựng và chia sẻ kiến thức. Làm việc trong môi trường mở có thể vừa đáng sợ vừa cực kỳ bổ ích. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét rủi ro, quyền riêng tư và những cân nhắc khác về sư phạm mở.

Đào sâu thêm

Để biết thêm về Sinh viên như Nhà sản xuất, các bài tập làm mới lại được, và các mô hình sư phạm được TNGDM xúc tác: hãy xem:

Cập nhật lần gần đây nhất 11/04/2023 @10:36 am

While open scholarship focuses on equitable access to knowledge, the focus of open pedagogy is equitable participation in the creation of knowledge. In this way, open pedagogy often transforms the student experience within the classroom. It can help students begin to see themselves as scholars and it de-centres the instructor from the information expert to a facilitation role that supports student negotiation of ideas and transforms the efforts of their learning into open knowledge resources. If a core goal of scholarship is research, dissemination, and dialogue to further the knowledge base and growth of fields of study, then open pedagogy engages students in this very same process within their courses. In contrast to traditional learning assessments such as multiple choice quizzes or essays, student work in open pedagogy is seen as having value beyond just informing the learner or instructor. As such, students are asked to create new knowledge and given a degree of agency, autonomy, and control over their work.

Lề

“We are often asking students to do work just to show us that they can do it. I wanted them to do something that had genuine value and not just this makeup exercise they perform just to show [professors] they know how to do things.” Dr. Rosie Redfield, UBC Zoology

In the below video, David Gaertner, Assistant Professor, UBC First Nations and Indigenous Studies, describes some of his motivations for why he engages his students in open pedagogy:

Video: Open Dialogues: How to engage and support students in open pedagogies

David Gaertner, Assistant Professor, UBC First Nations and Indigenous Studies: How to engage and support students in open pedagogies

Students as Producers/Creators

Having students be creators of content, described as a “Student as Producer” model by Mike Neary at the University of Lincoln, emphasizes the student role as collaborators with instructors in the production of knowledge. By engaging students in knowledge production and sharing, the model helps transform students from being the object of the educational process to being the subject of it. Additionally, in the student as producer model, the university’s approach to learning and research are closer aligned; for example, students, similar to researchers, are asked to share their work with authentic audiences and not just with their immediate instructor or adviser. As Neary and Winn state, in this way students become part of the academic project of the University and collaborators with academics in the production of knowledge and meaning.

According to Derek Bruff, Director of the Centre for Teaching at Vanderbilt University, students are frequently involved in knowledge production outside of the classroom, through undergraduate research, internships, co-ops, etc. However, he suggests that there are many opportunities to engage students in knowledge creation within the classroom and suggests student as producer assignments or courses have the following aspects in common:

  • Students are asked to work on problems that haven’t been fully solved or questions that haven’t been fully answered.

  • Students are asked to share their work with authentic audiences, not just their instructor.

  • Students are also given a degree of autonomy in their work.

Scenario – Engaging Students Through Open Work

Let’s consider this scenario: In Dr. Smith’s course on forest conservation, they have been asking students to research forest conservation policies in a specific region, critically evaluate the policies, and then write a seven to ten-page essay on the topic. Students seem to have a hard time engaging with the assignment and, in feedback, students have noted that the assignment is both hard but also that it feels like it is busy work. Dr. Smith feels like the assignment is valuable as it gets students to think critically about the topic of the class. More so, they feel like the work the students do has potential as scholarly work and are thinking about having students post their essays on a course website or blog.

  • How would posting the work on the Internet change the nature of the assignment?

  • What strategies or scaffolding could Dr. Smith incorporate into the assignment to ensure that the students are successful?

  • Should Dr. Smith change the structure or the weighting of the marks for the assignment?

Renewable Assignments

David Wiley has argued that much of student work can be considered disposable: “These are assignments that students complain about doing and faculty complain about grading. They’re assignments that add no value to the world – after a student spends three hours creating it, a teacher spends 30 minutes grading it, and then the student throws it away. Not only do these assignments add no value to the world, they actually suck value out of the world. As Hendricks states, it’s not that such assignments have no value at all. They can often serve very well to encourage students to learn and apply information, gain research and other skills, engage in problem-solving, and more. If done well, they can show instructors the level of mastery students have achieved. But what is important to consider is find important to consider, is that “disposable assignments” don’t provide any further value to the world after they’re completed.

What makes an assignment renewable or disposable? A disposable assignment, Wiley suggests, is any assignment about which students and faculty understand the following:

  • Students will do the work

  • Faculty will grade the work

  • Students will throw away the work

A renewable assignment is any assignment where:

  • Students will do the work

  • Faculty will grade the work

  • The work is inherently valuable to someone beyond the class

  • The work is openly published so those other people can find and use it

Test your knowledge

Which of the following are examples of renewable assignments?

  • Asking students to improve a Wikipedia article as part of their course work.

  • Asking students to write a critique. After students have written the critique, classmates will peer review each other's work via a synchronus class session (online or in person). 

  • Asking students to create an infographic for their assignment, which will be submitted via the course Learning Management System (e.g., Canvas). 

  • Asking students to create a case study on a public website. The case study will be published under CC-BY-SA license. 

Check

TNGDM Enabled Pedagogy

Building upon the concept of renewable assignments, David Wiley and John Hilton III further refined Wiley’s definition of open pedagogy as the practices only possible in the context of free access and 5R permissions. This further refinement is labelled “TNGDM-enabled pedagogy”. Wiley and Hilton state that when student works are openly licensed, “granting others 5R permissions in their use of the artifacts, each work becomes the beginning of an ongoing conversation in which other learners participate as they contextualize and extend the work in support of their own learning. Open licensing also ensures that these artifacts will be perpetually and freely available to all who wish to engage them as part of their learning”. Wiley and Hilton suggest the following questions can help to determine the extent to which a specific teaching and learning practice qualifies as TNGDM-enabled pedagogy:

  • Are students asked to create new artifacts (essays, poems, videos, songs, etc.) or revise/remix existing TNGDM?

  • Does the new artifact have value beyond supporting the learning of its author?

  • Are students invited to publicly share their new artifacts or revised/remixed TNGDM?

  • Are students invited to openly license their new artifacts or revised/remixed TNGDM?

Why Should Students Care About Open Pedagogy?

Students are often already involved in various forms of open learning. If you are a student, have you ever:

  • Created and uploaded a video that teaches others how to do something?

  • Shared your code/project on GitHub?

  • Spent time on Reddit – accidentally or on purpose to participate in a discussion about something you are interested in?

  • Published any learning material on a blog, Reddit or Facebook?

  • Shared or followed a link to learn something from someone you follow on Twitter?

  • Contributed to or learned from Wikipedia?

If you have done any of these things, you have participated in the open learning in some way. The work that students do as part of their studies has value and sharing this work with others is part of academic scholarship.

When students share their work openly, they are contributing to the building and sharing of knowledge. Working in the open can be both daunting and extremely rewarding and in the next section we’ll look at risk, privacy and other considerations of open pedagogy.

Dig Deeper

To learn more about the Student as Producer, Renewable Assignments , and TNGDM-Enabled Pedagogy models: review:

Last updated on April 11, 2023 @10:36 am

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com