Cấp
phép mở: Điều kiện tiên quyết để
khoa học có thể đến và làm
lợi cho xã hội.
(Bài đăng trên tạp chí Tia Sáng, số 1 năm 2022, xuất bản ngày 05/01/2022, các trang 21-25. Phiên bản điện tử có tại địa chỉ: https://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Cap-phep-mo-28754 và https://drive.google.com/file/d/1GHzvKaEGp3QYDsnde-57FXtJc_mbLBCd/view?usp=sharing )
A.
Kiến thức Khoa học Mở là gì?
Khuyến
nghị Khoa học Mở (KNKHM) của UNESCO[1] đã được 193 quốc
gia thành viên của nó nhất trí thông qua ngày 23/11/2021 đã
khẳng định Khoa học Mở là xu thế phát triển không thể
đảo ngược của thế giới. Nó đưa ra định nghĩa, các
tiêu chuẩn chung và các
khái niệm có liên quan tới Khoa
học Mở
ở mức toàn cầu,
bao gồm
định nghĩa Kiến
thức Khoa học Mở (KTKHM) được nêu
như sau:
Kiến
thức Khoa
học Mở
(KTKHM)
tham chiếu tới việc
truy
cập mở tới các xuất bản phẩm
khoa
học,
dữ liệu nghiên cứu, siêu
dữ liệu,
tài
nguyên giáo dục mở,
phần
mềm và mã nguồn và phần cứng mà chúng
sẵn sàng trong phạm vi công cộng
hoặc có
bản quyền
và được
cấp phép theo một giấy
phép mở
cho
phép truy cập,
sử dụng lại, tái
mục đích, tùy chỉnh và phân phối theo các điều kiện
nhất định, được cung cấp cho tất cả mọi
người bất kể xuất thân của họ.
Hình
1: Kiến thức Khoa học Mở với 5 thành phần
B.
Những KTKHM nào nằm trong phạm vi công cộng
Định
nghĩa ở trên cho thấy, KTKHM có thể nằm trong phạm vi
công cộng (PVCC). Có 2 dạng kiến thức khoa
học (tài nguyên/tác phẩm) nằm trong PVCC, tương ứng
với 2 dòng trên cùng của Hình 2, dù ở dạng kỹ thuật
số hay không, cụ thể là:
Hình
2: Phổ các giấy phép mở Creative Commons
Các
tài nguyên/tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong PVCC:
là khi chúng đã hết thời hạn bảo hộ của Luật sở
hữu trí tuệ. Khi số hóa một tài nguyên/tác phẩm đang
nằm sẵn rồi trong PVCC thì phiên bản được số hóa
của nó thường được gắn dấu phạm vi công cộng
(Public Domain Mark). Đây là trường hợp duy nhất không có
việc cấp phép mở cho tài nguyên/tác phẩm.
Các
tài nguyên/tác phẩm được (các) tác giả gắn
giấy phép CC0. Bằng cách cấp phép mở với giấy
phép CC0, (các) tác giả khước từ các quyền bản
quyền/các quyền liên quan của mình và hiến tặng tài
nguyên/tác phẩm của mình vào PVCC.
Các
tác phẩm hết thời hạn bảo hộ của Luật và đang nằm
sẵn rồi trong PVCC thường có trong các thư viện, kho lưu
trữ hoặc viện bảo tàng. Theo Luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam, hầu như tất cả các tác phẩm do các tác giả
Việt Nam sáng tạo ra từ năm 1900 trở về trước dọc
theo lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam, là nằm trong
PVCC, vì chúng đã hết thời hạn bảo hộ của Luật.
Chúng đều là các tài nguyên rất tốt cho khoa học - giáo
dục - văn hóa, đặc biệt cho việc nghiên cứu trên nhiều
khía cạnh dựa vào lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam.
Bất kỳ ai trong số gần 8 tỷ người trên thế giới
cũng đều có quyền tự do không mất tiền để truy cập
tới chúng một cách hợp pháp. Phiên bản số hóa của
các tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong PVCC cũng nên tiếp
tục nằm trong PVCC, như của Europeana[2], một kho di sản
văn hóa nổi tiếng của châu Âu.
C.
Lợi ích của cấp phép mở, đặc biệt
khi được số hóa/chuyển đổi số
Nếu
bạn có một cuốn sách in là kết quả của một nghiên
cứu khoa học của bạn, bạn không thể cùng một lúc cho
2 người mượn cùng cuốn sách in đó để họ đọc nó.
Nhưng nếu nó được số hóa và được đặt, ví dụ,
trong thư viện số của cơ sở nghiên cứu của bạn trên
Internet, thì cùng một lúc hàng triệu người có thể tải
nó về và đọc nó. Đây chính là sức mạnh của số hóa
và chuyển đổi số.
Tuy
nhiên, để hàng triệu người yên tâm tải về và đọc
cuốn sách mà bạn là tác giả mà không sợ vi phạm bản
quyền và các quyền liên quan của bạn, bạn cần cấp
phép mở cho cuốn sách đó, ví dụ, bằng một giấy phép
Creative Commons. Bằng cách này, bạn sẽ biến cuốn sách
từ dạng ‘Tất cả các quyền được giữ lại’ (All
Rights Reserved) thành dạng ‘Một số quyền được giữ
lại’ (Some Rights Reserved) và cho phép trước các
độc giả của bạn để tải về/sao chép/chia sẻ và đọc
nó, mà họ không cần phải xin phép bạn thêm nữa, vì
khi họ có được nó, họ biết chính xác bạn giữ lại
(các) quyền gì, và cho phép họ trước rồi (các) quyền
gì thông qua giấy phép mở được gắn với cuốn sách
đó.
Là
tác giả của cuốn sách, bạn có quyền chọn bất kỳ
giấy phép mở nào bạn muốn để gắn vào cuốn sách đó.
Ví dụ, nếu bạn muốn càng nhiều người đọc cuốn
sách của bạn càng tốt, bạn có thể gắn giấy phép
Creative Commons Attribution (CC BY). Giấy phép này sẽ cho phép
các độc giả các quyền tự do không mất tiền để truy
cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh, phân phối
lại cuốn sách của bạn, nhưng họ phải thừa nhận ghi
công cho bạn vì bạn chính là tác giả của cuốn sách
đó, nếu không thì họ có thể bị cả thế giới coi là
‘ăn cắp’, là vi phạm bản quyền tác giả của bạn.
Có
vài điểm lưu ý ở đây, đó là:
Như
trên Hình 2, hai giấy phép Creative Commons (CC) nằm dưới
cùng không phù hợp để cấp phép mở cho tài nguyên/tác
phẩm/dữ liệu hay bất kỳ kiến thức khoa
học nào để nó được gọi là KTKHM, vì CC BY-ND
và CC BY-NC-ND là 2 giấy phép không cho phép người sử
dụng tùy chỉnh và/hoặc sửa đổi tài nguyên/tác
phẩm/dữ liệu hay bất kỳ kiến thức khoa
học nào (có yếu tố ND - không phái sinh), và điều
này là trái với định nghĩa KTKHM được nêu ở trên.
Xem Hình 3 để dễ hình dung.
Hình
3: Các giấy phép mở Creative Commons nào là phù hợp với
KTKHM
Một
lưu ý khác nữa, là các giấy phép mở Creative Commons
thường không được sử dụng để cấp phép mở cho
phần mềm và phần cứng để chúng được gọi là phần
mềm nguồn mở và phần cứng nguồn mở/phần cứng mở
một cách tương ứng. Để có thêm thông tin về cấp
phép mở cho phần mềm và phần cứng, vui lòng xem các
bài: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 2)[3]
và Phần cứng nguồn mở: Đổi mới sáng tạo tốc độ
cao[4].
Các
giấy phép mở Creative Commons phù hợp với KTKHM cũng là
các giấy phép y hệt phù hợp với Tài nguyên Giáo dục
Mở (TNGDM).
D.
Khuyến khích các tác giả cấp phép mở cho kiến thức
khoa học?
Vậy
làm thế nào để khuyến khích các tác giả cấp phép mở
cho các kiến thức
khoa học là
kết quả từ các nghiên cứu khoa
học của họ?
Câu
hỏi này có thể trả lời bằng một câu hỏi như sau:
Bạn lấy tiền ở đâu để tiến hành nghiên cứu khoa
học và để tạo
ra các kiến thức
khoa học đó?
Trong
thực tế, một mặt,
có không ít các nhà nghiên cứu khoa
học có tư duy mở và/hoặc có mong muốn tác phẩm
của mình tạo ra được càng nhiều người đọc càng
tốt, nhất là các nhà nghiên cứu khoa
học trẻ, những người bắt đầu sự nghiệp
nghiên cứu khoa học của
mình, bất kể họ sử dụng nguồn tiền nào để tiến
hành các nghiên cứu khoa học
đó. Mặt
khác, cũng có không ít các nhà nghiên cứu khoa
học chưa/không muốn
chia sẻ mở các kết quả nghiên cứu khoa
học của mình vì nhiều lý do khác nhau, dù các dự
án và các kết quả nghiên cứu khoa
học đó không có liên quan gì tới các vấn đề
cấm kỵ như an ninh quốc gia hay quyền riêng tư của công
dân, ngay cả khi tiền để họ tiến hành nghiên cứu khoa
học đó là từ tiền
của người đóng thuế thông qua cấp vốn nhà nước.
Theo
đoạn 12 KNKHM của UNESCO, có rất nhiều bên liên quan tới
Khoa học Mở, gồm: các
nhà
nghiên cứu,
nhà
khoa học và
học giả, các nhà lãnh đạo ở các cơ
sở nghiên cứu,
các
nhà
giáo dục,
nhân
viên hàn lâm, các thành viên của các hội nghề nghiệp,
sinh viên,
các
tổ chức của các nhà
nghiên cứu trẻ,
các chuyên gia thông tin,
các
thủ
thư,
những
người sử dụng và công chúng nói chung, bao gồm các cộng
đồng,
những
người nắm giữ kiến thức bản địa, và các tổ chức
xã hội dân sự,
các
nhà
khoa học máy
tính, các lập trình viên phần mềm, những người viết
mã, các nhà sáng tạo, các nhà đổi mới, các kỹ sư,
các nhà
khoa học công
dân, các học giả pháp lý, các luật sư, các thẩm phán
và nhân viên dân sự, các nhà xuất bản,
các
ban biên tập và các thành viên của các hiệp hội nghề
nghiệp, các nhân viên kỹ thuật, các nhà
cấp vốn nghiên cứu
và
các nhà hảo tâm, những người
làm chính sách,
các
hiệp hội học tập, các nhà thực hành từ các lĩnh vực
nghề nghiệp, các đại diện của khu vực tư nhân có
liên quan tới khoa
học,
công nghệ và
đổi mới sáng tạo.
D1.
Hài hòa hóa lợi ích các bên liên quan tới KHM vượt
ra khỏi cộng đồng khoa học
truyền thống và mở
rộng tới Khoa học Công dân
Các
nhà nghiên cứu,
các nhà
khoa học và học giả, dù
được thừa nhận có vai trò rất quan trọng trong việc
sản xuất ra các kiến thức khoa
học từ các nghiên cứu
của họ, thì họ chỉ đại diện cho vài trong số
rất nhiều bên liên quan của Khoa học Mở như được nêu
ở trên. Lợi ích mà họ mang lại cho quốc gia và xã hội
Việt Nam, cần phải được cân đo đong đếm và so sánh
với lợi ích của các bên liên quan khác, và trong tổng
thể nghiên cứu bức tranh chi phí/lợi ích ứng dụng và
phát triển Khoa học Mở ở Việt Nam, hài hòa với lợi
ích của các bên liên quan khác, đặc
biệt khi tiền để họ
nghiên cứu khoa
học là lấy từ tiền của
người dân đóng thuế thông qua
việc nhà nước cấp vốn, những
người đã trả tiền rồi để họ
nghiên cứu, và vì thế cũng trả tiền rồi cho các kết
quả nghiên cứu của các dự án nghiên cứu của họ -
các xuất bản phẩm nghiên cứu,
các dữ liệu nghiên cứu và các
thành phần khác của kiến thức
khoa
học.
Cùng
lúc, các
nhà nghiên cứu,
các nhà
khoa học và học giả
cũng
là những người sử dụng các
kiến thức khoa học khác, rất
nhiều trong số đó là KTKHM
tới từ sự hào phóng của cộng đồng các nhà
khoa học mở,
các nhà thực hành khoa
học mở và của toàn thể thế
giới nguồn mở với
các xuất bản phẩm và dữ liệu nghiên cứu được cấp
phép mở, các
TNGDM,
phần mềm nguồn mở/mã
nguồn mở, và
phần cứng mở.
Vì thế,
giả thiết
bạn không tán thành với việc
cấp phép mở cho các kiến thức khoa
học là kết quả nghiên cứu khoa
học của riêng bạn,
thì điều đó có
thể đồng nghĩa với
việc bạn
tự mình giới hạn khả năng tiếp
cận KTKHM
của thế giới không chỉ đối với bản thân bạn,
mà còn gián tiếp ảnh hưởng tới
việc tiếp cận tới các KTKHM
của các bên liên quan khác, nhất
là khi
tiền để bạn
nghiên cứu khoa
học được lấy
từ tiền của người đóng thuế và
các nghiên cứu/kết
quả của các nghiên cứu
đó không liên quan tới an ninh quốc gia và
quyền riêng tư của công dân.
Giả
thiết khác không dám bàn tới ở đây, vì nó rất không
công bằng, là khi bạn không tán thành với việc cấp
phép mở cho các kiến thức khoa
học là
kết quả nghiên cứu của riêng bạn, nhưng bạn lại vẫn
muốn/thích sử dụng các KTKHM do những
người
khác tạo ra.
Hài
hòa hóa quyền lợi của các bên liên quan tới KHM như
được nêu ở trên, là vấn đề
quan trọng cần được giải quyết, để không
xảy ra trường hợp từng
bên liên quan tới KHM chỉ muốn
tối đa hóa lợi ích của mình mà không cần quan tâm tới
và gây thiệt hại cho lợi ích của các bên liên quan
khác, cũng như cho cả xã hội.
Một
ví dụ tốt trong việc hài hòa hóa lợi ích của các bên
liên quan tới KHM để chúng ta
tham khảo
là cách xử lý của nhóm nghiên cứu Finch[5]
của Vương quốc Anh, khi chính
phủ Anh đã tập hợp các
bên liên quan chính trong một
nghiên cứu khoa
học nhằm
mục
đích tạo
sự đồng thuận trong
việc hài hòa hóa quyền lợi của
các bên liên quan chính đó bằng
việc đưa ra 10 điểm khuyến cáo
cho việc
xây dựng chính sách Truy cập Mở - nền tảng của chính
sách Khoa học Mở - cho Vương quốc Anh vào năm 2012.
Ngoài
ra, phải kể đến một trong bốn giá trị cốt lõi của
Khoa học Mở là sự đa dạng và tính hòa nhập của nó,
bao
gồm những người bản địa và các cộng đồng địa
phương, và các tác nhân xã hội, như
các bên liên quan được nêu ở trên, để “phát
triển các phương pháp tham gia và các kỹ thuật thẩm
định mới để kết hợp và đánh giá các đầu vào từ
các tác nhân xã hội vượt
ra khỏi cộng đồng khoa
học truyền thống,
bao
gồm thông qua khoa
học công
dân, các dự án khoa
học dựa vào
nguồn đám đông, sự tham gia của các công dân vào các
cơ
sở lưu
trữ do cộng đồng sở hữu, và các dạng khoa học có sự
tham gia khác.”
D2.
Cấp phép mở cho kiến thức
khoa học từ nghiên cứu được nhà nước cấp vốn - từ
tiền của người đóng thuế với vai trò dẫn dắt của
nhà nước
Quay
lại với việc cấp phép mở cho kiến thức khoa học là
kết quả của nghiên cứu khoa học được nhà nước cấp
vốn, KN KHM của UNESCO có đoạn như sau:
“Đảm
bảo rằng nghiên cứu được nhà nước cấp vốn được
triển khai dựa vào các nguyên tắc của khoa học mở phù
hợp với các điều khoản của Khuyến nghị này, đặc
biệt đoạn 8, và rằng kiến thức khoa học từ
nghiên cứu được nhà nước cấp vốn, bao
gồm các xuất bản phẩm khoa học, dữ liệu
nghiên cứu mở, phần mềm nguồn mở, mã
nguồn và phần cứng mở, là được cấp phép mở hoặc
được hiến tặng vào phạm vi công cộng.”
Đoạn
8
chính là đoạn nêu các trường hợp ngoại lệ, như các
nghiên cứu và kết quả nghiên cứu khoa
học thuộc về bí mật quốc gia hay quyền riêng tư
của công dân và một số trường hợp đặc biệt khác.
Như
vậy là câu hỏi ở trên đã có câu trả lời, đó là:
một khi bạn sử dụng tiền do nhà nước cấp, tức là
tiền của người dân đóng thuế, để nghiên cứu khoa
học, thì có nghĩa là những người dân đóng thuế đã
trả tiền rồi cho bạn để bạn được nghiên cứu và
họ cũng trả tiền rồi cho bạn để các kết quả nghiên
cứu của bạn cần phải được cấp phép mở và phục
vụ trở lại cho những người đóng thuế và cho xã hội,
một khi các nghiên cứu đó không có liên quan gì tới vấn
đề an ninh quốc gia và quyền riêng tư của công dân.
Nói
một cách khác, khi bạn dùng tiền thuế của người dân
qua việc cấp vốn của nhà nước để tiến hành nghiên
cứu khoa học, thì, như được
chỉ ra trong KN
KHM của UNESCO:
“kiến
thức khoa
học từ
nghiên cứu được nhà nước cấp vốn,
bao
gồm các xuất bản phẩm khoa
học,
dữ liệu nghiên cứu mở,
phần mềm nguồn mở,
mã
nguồn và phần cứng mở, là được cấp phép mở hoặc
được hiến tặng vào phạm vi công cộng”.
Việc
cấp phép mở cho kiến thức khoa học từ nghiên cứu được
nhà nước cấp vốn cũng sẽ giúp loại bỏ việc người
đóng thuế có thể phải
trả tiền hai
lần (Double Dipping) hoặc thậm chí, như đã được chứng
minh, tới bốn
lần cho sản phẩm nghiên cứu khoa học[6].
Điều
này cho thấy vai trò của nhà
nước trong việc dẫn dắt ứng
dụng và phát triển KHM là quan trọng như thế nào, đặc
biệt là trong việc ưu tiên sử dụng tiền đóng thuế
của người dân để ứng dụng và phát triển KHM vì lợi
ích của người dân và của xã hội.
Không
phải chỉ có các chính phủ, nhà nước dẫn dắt và hỗ
trợ tích cực cho việc ứng
dụng và phát triển KTKHM,
mà thực tế của thế giới đã chứng minh, nhiều tổ
chức phi lợi nhuận và thiện nguyện cấp tiền cho nghiên
cứu khoa học cũng có yêu cầu các nhà nghiên cứu khoa
học và các tổ chức nghiên cứu và triển khai nghiên cứu
khoa học nhận tiền từ họ để nghiên cứu phải cấp
phép mở cho các kết quả nghiên cứu để chúng được
bất kỳ ai trên thế giới cũng có quyền tự do không mất
tiền để truy cập tức thì tới chúng ở thời điểm
xuất bản. Liên minh S (cOAlition S), một nhóm
27 nhà cấp
vốn nghiên cứu quốc gia, các tổ chức quốc tế và châu
Âu và các quỹ từ thiện đã đưa ra Kế hoạch S (Plan
S)[7]
vào tháng 9/2018, theo đó, từ năm 2021, tất cả các xuất
bản phẩm khoa học là kết quả từ nghiên cứu được
nhà nước và các tổ chức thành
viên của Liên minh S trợ cấp
phải được xuất bản trên các tạp chí hoặc các nền
tảng tuân thủ truy cập mở, với
ưu tiên cấp phép mở bằng giấy
phép CC BY[8].
Một
ví dụ khác về ứng dụng và
phát triển KTKHM,
góp phần cứu sống vô số mạng người trên khắp thế
giới, là sáng kiến Cam kết
COVID-19 Mở (Open COVID-19
Pledge)[9], một sáng kiến được khởi xướng vào
tháng 4/2020, kêu gọi các tổ chức khắp trên thế giới
làm cho các bằng sáng chế và bản quyền của họ sẵn
sàng tự do không mất tiền để đấu tranh với đại
dịch COVID-19 bằng việc cấp phép mở với 3 loại giấy
phép COVID mở. Cho tới nay, ước tính có khoảng 500.000
bằng sáng chế và nhiều bản quyền đã cam kết mở công
khai để đối phó với COVID-19 từ nhiều tổ chức
và/hoặc các tập đoàn/công ty khắp trên thế giới,
trong đó có các tập đoàn lớn như Amazon, Facebook, HP
Enterprise, IBM, Intel, Microsoft .v.v.
E.
Lời kết và vài gợi ý
Để
khoa học và giáo dục của Việt
Nam phát triển phù hợp với
xu thế không thể đảo ngược của KHM và TNGDM, có
rất nhiều việc phải làm, dưới đây gợi ý vài việc
cần thiết và cấp bách nhất ở
thời điểm hiện tại để có
thể bắt đầu đi trên
con đường
rất dài nhằm hiện thực hóa KHM và TNGDM, trước
hết qua việc đưa KTKHM đến được
và làm lợi cho xã
hội và tất
cả mọi người ở Việt Nam, với
thứ tự ưu tiên như sau:
Xây
dựng chính sách cấp phép mở quốc gia như
là ưu tiên số 1 vào lúc
này.
Xác
định rõ và xây dựng danh sách kiến thức khoa học là
kết quả của các nghiên cứu khoa
học nào được nhà nước cấp tiền sẽ phải
được cấp phép mở để trở thành các KTKHM để chia
sẻ mở cho bất kỳ ai muốn sử dụng chúng.
Chính
phủ có biện pháp để hài hòa hóa lợi ích của các
bên liên quan tới khoa học mở nhằm
khuyến khích truy
cập mở tới KTKHM
là kết quả nghiên cứu được nhà nước cấp tiền.
Xây
dựng và ban hành chính sách KHM quốc
gia dựa vào việc bám sát và tùy
chỉnh 7 khía cạnh mục tiêu và lĩnh vực hành động
được nêu chi tiết trong KN KHM của UNESCO,
bao gồm việc yêu
cầu các nhà nghiên cứu khoa học và các bên nhận tiền
từ nhà nước để tiến hành nghiên cứu khoa học phải
cấp phép mở cho kiến thức khoa học là kết quả của
nghiên cứu khoa học đó, phù hợp
với danh sách phân
loại được xác định trước rồi ở mục 2 ở trên,
cùng với
việc thừa nhận, thưởng
cùng với các
ưu đãi khác có liên quan một cách
xứng đáng để khuyến khích và
phát triển sự
nghiệp nghiên cứu khoa
học mở
của
họ.
F.
Các chú giải:
[1]
UNESCO, 2021: UNESCO
Recommendation on Open Science:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0
[2]
Lê Trung Nghĩa,
2021: Công nghệ
mở trong các cơ sở văn hóa và giáo dục:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cong-nghe-mo-trong-cac-co-so-van-hoa-va-giao-duc-513.html
[3]
Lê Trung Nghĩa,
2021: Những
điều cơ bản về nguồn mở (Phần 2):
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-2-471.html
[4]
Lê Trung Nghĩa,
2021: Phần cứng
nguồn mở: Đổi mới sáng tạo tốc độ cao:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/phan-cung-nguon-mo-doi-moi-sang-tao-toc-do-cao-487.html
[5]
Dame Janet Finch
CBE, 2012: Accessibility,
sustainability, excellence: how to expand access to research
publications -
Report of the
Working Group on Expanding Access to Published Research Findings.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/a33nqbqxz31s3ck/finch-report-final-Vi-30082016.pdf?dl=0
[6]
Lê Trung Nghĩa,
2021: Truy cập
mở kim cương và cái đích của chuyển đổi số trong
xuất bản học thuật:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/truy-cap-mo-kim-cuong-va-cai-dich-cua-chuyen-doi-so-trong-xuat-ban-hoc-thuat-426.html
[7]
cOAlition S: Making
full and immediate Open Access a reality:
https://www.coalition-s.org/
[8]
cOAlition S:
cOAlition S
develops “Rights Retention Strategy” to safeguard researchers’
intellectual ownership rights and suppress unreasonable embargo
periods. Bản
dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/truy-cap-mo/lien-minh-s-phat-trien-chien-luoc-duy-tri-cac-quyen-de-bao-ve-cac-quyen-so-huu-tri-tue-cua-cac-nha-nghien-cuu-va-bai-bo-cac-giai-doan-cam-van-vo-ly-265.html
[9]
Lê Trung Nghĩa,
2021: Khoa học
Mở, Truy cập Mở và tác động của đại dịch COVID-19:
https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Khoa-hoc-Mo-Truy-cap-Mo-va-tac-dong-cua-dai-dich-COVID19-28215
Giấy
phép nội dung: CC
BY-SA 4.0 Quốc tế
Lê
Trung Nghĩa