(Bài
đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc gia: ‘Khoa học Giáo
dục với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo’ do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức ngày
26/11/2021, các trang 304-323)
Tóm
tắt:
Trong kỷ nguyên số, việc học tập suốt đời luôn đi
song hành với tài nguyên giáo dục mở (TNGDM) và chúng đều
ngày càng trở nên quan trọng hơn. Trong khi việc học tập
suốt đời có khả năng phát triển thành một quyền cơ
bản mới của con người, thì TNGDM, cùng những điều mở
khác, có khả năng phát triển thành hàng hóa chung của xã
hội hoặc những điều chung của giáo dục. Đối chiếu
với 5 khía cạnh ưu tiên thúc đẩy theo Khuyến nghị
TNGDM của UNESCO cho thấy thực trạng ứng dụng và phát
triển TNGDM ở Việt Nam còn đang ở mức
sơ
khai. Đề
án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030” và
các Đề án khác có liên quan tới TNGDM cũng chỉ đang ở
vạch xuất phát khi tất cả chúng đang được trình lên
Thủ tướng Chính phủ để chờ
phê duyệt. Phía trước còn rất nhiều thách thức.
Các
từ khóa: Tài nguyên Giáo dục Mở, học tập suốt
đời, kỷ nguyến số, Covid-19.
A.
Bối cảnh và quan niệm về Tài nguyên Giáo dục Mở
(TNGDM)
“Vào
thời điểm báo
cáo này được
viết, đại dịch
COVID-19
đã gây
ra sự đổ vỡ chính trong các hệ thống giáo dục và
trong cuộc sống của mọi người. Trong khi công nhận tác
động của COVID-19
lên
các cộng đồng là
nghiêm trọng, chúng ta cũng nhận thấy cơ hội để suy
nghĩ lại cách để việc học tập có thể đóng góp tốt
hơn cho việc tạo lập các xã hội bền vững và hòa nhập
hơn, nơi mà mọi người có khả năng tham gia như những
công dân tích cực và toàn cầu.”[1]
Ở
Việt Nam, việc dạy và học của khoảng 25 triệu học
sinh, sinh viên và khoảng 1,5 triệu giảng viên trong các
năm 2020-2021 bị ảnh hưởng lớn tới mức nào, chắc ai
cũng đều rõ. Một trong những khó khăn khi phải triển
khai việc dạy và học trên trực tuyến, bên cạnh nhiều
khó khăn khác, là thiếu hụt trầm trọng các tài nguyên
số, đặc biệt là hầu như chưa/không tồn tại các tài
nguyên giáo dục mở (TNGDM), khi so sánh với định nghĩa
TNGDM trong Khuyến nghị TNGDM của UNESCO[2] đã được 193
quốc gia trên thế giới phê chuẩn ngày 25/11/2019. Không
thể có giáo dục số phát triển nếu không có các tài
nguyên số, đặc biệt là các TNGDM dạng số.
Định
nghĩa Tài nguyên Giáo dục Mở (TNGDM):
TNGDM
là các tư liệu dạy, học và nghiên cứu ở bất kỳ
định dạng và phương tiện nào mà nằm trong phạm vi
công cộng hoặc có bản quyền đã được phát hành theo
một giấy phép mở, cho phép những người khác không mất
chi phí để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy
biến thích nghi và phân phối lại.
Giấy
phép mở tham chiếu tới giấy phép tôn trọng các quyền
sở hữu trí tuệ của người nắm giữ bản quyền và
đưa ra sự cho phép trao cho công chúng các quyền để
truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích
nghi và phân phối lại các tư liệu giáo dục.
Điều
cơ bản là: việc người sử dụng chỉ có khả
năng truy cập tự do không mất tiền tới một tài nguyên
là quá ít, quá tối thiểu và hoàn toàn không đủ điều
kiện để tài nguyên đó được gọi là TNGDM!
TNGDM
có những lợi ích to lớn được thế giới thừa nhận,
cho cả các giảng viên, các học viên và các cơ sở giáo
dục[3]:
Đối
với các giảng viên, TNGDM có các
lợi ích sau:
Đảm
bảo mọi sinh viên có truy cập tức thì và không giới
hạn tới nội dung khóa học
Lựa
chọn đối tác công nghệ thay vì bị khóa trói vào một
nền tảng hoặc hệ thống nhất định
Có
khả năng để sử dụng, sửa đổi, và tùy biến
thích nghi các tư liệu đang có mà không cần có
sự cho phép về bản quyền
Sẵn
sàng trong nhiều định dạng (như, HTML, PDF, ePUB) hoặc
khả năng sản xuất tài nguyên ở các định dạng lựa
chọn thay thế
Chủ
sở hữu nội dung vĩnh viễn
Mềm
dẻo về việc ở đâu và liệu có chuyển sang một ấn
bản mới hay không
Đối
với các sinh viên, TNGDM chào tiết kiệm chi
phí và các lợi ích sau:
Truy
cập tới nội dung khóa học ở các định dạng thích
hợp cho các thiết bị và các tình huống khác nhau, bao
gồm lựa chọn tải về văn bản khi không có truy cập
Internet
Khả
năng chia sẻ nội dung trên các mạng xã hội và các
diễn đàn công cộng, bao gồm các môi trường học tập
pha trộn
Truy
cập tới nội dung tức thì, không có giới hạn, và
vĩnh viễn
loại
bỏ nhu cầu mua nội dung nhiều lần hoặc cho một giai
đoạn thời gian dài để sử dụng nội dung cho nhiều
học kỳ;
xúc
tác cho sử dụng nội dung như là tham chiếu cho các
khóa học tiên tiến hơn (như, sử dụng sách thống kê
giới thiệu như là tham chiếu cho khóa học về các
phương pháp nghiên cứu);
nới
lỏng học tập cho đầu vào giáo dục đại học và
các cuộc thi cấp bằng;
cung
cấp truy cập tới nội dung cho học tập suốt đời
và các thay đổi sự nghiệp.
Khả
năng in tất cả các tư liệu khóa học khi thuận tiện
Đối
với các cơ sở giáo dục, TNGDM chào những
lợi ích sau:
Truy
cập rộng hơn của sinh viên tới các tư liệu khóa học,
điều có thể dẫn tới sự ở lại và tiến bộ trình
độ gia tăng và/hoặc giảm thiểu tỷ lệ thất bại và
rút lui
Gia
tăng tác động và sự trực quan cho những người hướng
dẫn tạo lập và chia sẻ TNGDM, tiềm tàng tác động
tới sự phát triển của khóa học ở các cơ sở khác
Sư
phạm được cải thiện, vì các giảng viên có thể tùy
biến thích nghi các tư liệu khóa học cho các mục đích
học tập của họ thay vì điều chỉnh nội dung khóa
học của họ cho “vừa” với sách giáo khoa đã thành
danh
Các
quan hệ công chúng tích cực và cơ hội để triển lãm
các nỗ lực làm giảm các chi phí của sinh viên
B.
Thực trạng
TNGDM ở Việt Nam so
với chuẩn mực
của thế giới
Hầu
hết tất
cả
các tài
nguyên giáo dục của
Việt
Nam có sẵn trên trực tuyến ở thời điểm hiện tại
đều không phải là TNGDM.
Khi
đối chiếu với định nghĩa TNGDM
được
nêu ở trên,
ngoại
trừ một số lượng
vô cùng nhỏ tuân
thủ với định nghĩa đó,
ví dụ như bộ
sách giáo khoa mở cho
học sinh phổ thông của
nhóm Cánh Buồm[4],
số
còn lại
thì
không phải,
vì
ở đó người
sử dụng chỉ
có
quyền nhiều nhất là
truy cập miễn phí tới chúng, chứ
họ không có quyền để tùy biến thích nghi và/hoặc
sửa đổi chúng. Điều này có
thể được
giải thích rõ
hơn
thông qua phổ
các giấy
phép mở của
hệ thống Creative
Commons như
trên Hình 1.
Cần
lưu ý là, trên Hình 1, hai giấy phép Creative Commons (CC)
nằm dưới cùng không phù hợp để cấp phép mở cho tài
nguyên /tác phẩm để nó được gọi là TNGDM, vì hai giấy
phép đó, CC BY-ND và CC BY-NC-ND, không cho phép người sử
dụng tùy biến thích nghi và/hoặc sửa đổi tài nguyên
/tác phẩm (có yếu tố ND - không phái sinh), và điều này
là trái với định nghĩa TNGDM được nêu ở trên. Xem
Hình 2 để dễ hình dung.
Hình
1. Phân loại TNGDM theo phổ các giấy
phép mở của hệ
thống Creative Commons
Hình
2. CC BY-ND và
CC BY-NC-ND không phù hợp để cấp phép mở CC cho TNGDM
Theo
Luật sở hữu trí tuệ, bao
gồm cả Luật sở hữu trí tuệ của Việt
Nam, ngay khi một tài
nguyên / tác phẩm được tạo ra, nó sẽ tự động được
Luật sở hữu trí tuệ bảo vệ, bất kể (các)
tác giả của nó có
đăng ký tác phẩm đó hay không. Vì thế, chỉ khi được
chính (các) tác giả cấp phép mở, tài nguyên đó mới
thực sự là tài nguyên mở, vì người sử dụng rõ ràng
có được sự cho phép từ (các) tác giả đối với tài
nguyên đó để họ sử dụng mà không vi phạm bất kỳ
bản quyền/các quyền sở hữu trí tuệ nào của (các)
tác giả được Luật sở hữu trí tuệ bảo vệ.
B1.
Các
TNGDM nằm
trong phạm vi công cộng
Định
nghĩa ở trên cho thấy, TNGDM có thể nằm trong phạm vi
công cộng (PVCC). Có 2 dạng tài nguyên/tác phẩm nằm
trong PVCC, dù ở dạng số hay không, cụ thể là:
Các
tài nguyên /tác phẩm đang nằm sẵn rồi
trong phạm vi công cộng: là khi chúng đã hết thời
hạn bảo vệ của Luật sở hữu trí tuệ. Khi số hóa
một tài nguyên /tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong phạm
vi công cộng thì phiên bản được số hóa của nó
thường được gắn dấu phạm vi công cộng (Public Domain
Mark). Đây là trường hợp duy nhất không có việc cấp
phép mở cho tài nguyên/tác phẩm.
Các
tài nguyên/ tác phẩm được (các) tác giả gắn
giấy phép CC0. Bằng cách cấp phép mở với giấy
phép CC0, (các) tác giả khước từ các quyền bản quyền
và hiến tặng tác phẩm của mình vào phạm vi công cộng.
Các
tác phẩm hết
thời hạn bảo vệ của Luật và đang
nằm sẵn rồi
trong phạm vi công cộng (PVCC)
thường có trong các thư viện, kho lưu trữ hoặc viện
bảo tàng. Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, hầu như
tất cả các tác phẩm do
các tác giả Việt Nam sáng tạo ra từ năm 1900 trở về
trước dọc theo
lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam, là nằm trong PVCC,
vì chúng
đã hết thời hạn bảo vệ của Luật. Chúng đều
là các tài nguyên rất tốt cho văn hóa - khoa học - giáo
dục, đặc biệt cho việc nghiên cứu trên nhiều khía
cạnh dựa vào lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam. Bất
kỳ ai trong số gần 8 tỷ người trên thế giới cũng đều
có quyền tự do không mất tiền để truy cập tới chúng
một cách hợp lệ. Phiên bản số hóa của các tác phẩm
đang nằm sẵn rồi trong PVCC cũng nên tiếp tục nằm
trong PVCC, như của Europeana[5], một kho di sản văn hóa nổi
tiếng của châu Âu.
Mặt
khác, cũng có thể có các tác phẩm do các tác giả Việt
Nam sáng tạo ra và họ khước từ các quyền bản quyền
và các quyền liên quan của mình và hiến tặng chúng vào
PVCC nhưng nhiều khả năng chúng chưa/không được số hóa
và chưa/không được các tác giả cấp phép mở CC0, như
điều có thể thấy ở các quốc gia phát triển.
Dù
chưa có các báo cáo thống
kê liệu có bao nhiêu trong số các tài nguyên /tác phẩm
thuộc về PVCC ở cả 2 dạng kể trên đã được số
hóa, có thể phỏng đoán số lượng các tài nguyên đó ở
dạng số là hiếm thấy, nếu không nói là chưa tồn tại
ở thời điểm hiện tại ở Việt Nam, nhưng có lẽ chúng
sẽ được phát triển nhanh trong những năm tới, nhờ vào
các quyết định gần đây của Thủ tướng Chính phủ,
như Quyết định số 1296/QĐ-TTg[6] và 206/QĐ-TTg[7], nếu
nhiều trong số chúng được số hóa và được gắn nhãn
(dấu PVCC) và/hoặc cấp phép mở bằng giấy phép CC0 để
vẫn được nằm lại trong PVCC[8].
B2.
Các
TNGDM
và
được cấp phép mở không
thuộc về PVCC
Ngoại
trừ các TNGDM
thuộc về PVCC được nêu ở trên, hầu
hết tất
cả các tài
nguyên giáo dục của
Việt Nam có sẵn
trên trực tuyến ở thời điểm hiện tại đều không
phải là TNGDM, mà đặc điểm chung của chúng,
là không được cấp phép mở, dù trong một số
trường hợp, các tài nguyên giáo dục đó được truy cập
miễn phí, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch COVID-19.
Dễ nhận thấy nhất đối với các tài nguyên giáo dục
như vậy, là người sử dụng không có quyền để tùy
chỉnh và/hoặc sửa đổi các tài nguyên đó.
Một
dạng TNGDM phổ biến khác là các phần mềm nguồn mở
được sử dụng trong giáo dục
và đào tạo. Theo
bản thảo Khuyến
nghị Khoa học Mở mới nhất của UNESCO[9],
thì:
“Phần
mềm nguồn mở và mã nguồn mở thường gồm các phần
mềm mà mã nguồn của chúng được làm cho sẵn sàng công
khai, kịp thời và thân thiện với người sử dụng, ở
định dạng cả con người và
máy móc đều đọc được và sửa đổi được,
theo một giấy phép mở
trao cho những người khác quyền để sử dụng, sử dụng
lại, sửa đổi,
mở rộng, nghiên cứu, tạo ra
các tác phẩm phái sinh, và
chia sẻ phần mềm và mã nguồn đó, thiết kế hoặc kế
hoạch chi tiết của nó. Mã nguồn đó phải được đưa
vào trong phát hành phần mềm và làm cho sẵn sàng trong
các kho truy cập mở và giấy
phép được chọn phải cho phép các sửa đổi, có các
tác phẩm phái sinh, và chia sẻ
theo các điều khoản và điều kiện mở tương đương
hoặc tương thích.”
Từ
định nghĩa này có thể thấy, bất kỳ phần mềm nguồn
mở nào được sử dụng trong việc dạy, học và nghiên
cứu cũng đều là các TNGDM.
Hiện
tại, ở Việt Nam, số lượng các dự án phần mềm nguồn
mở là vô cùng ít, có thể đếm được trên đầu ngón
tay, trong khi số lượng này trên thế giới là cỡ hàng
trăm triệu dự án với hàng chục tỷ tệp mã nguồn được
chia sẻ tự do không mất tiền trên Internet[10]. Không chỉ
ít về số lượng, mà cách tận dụng mã nguồn của các
dự án sẵn có đó trên thế giới ở Việt Nam cũng hiếm
khi tuân theo mô hình phát triển đúng của một dự án
phần mềm nguồn mở như đoạn trích bên dưới đây[11]:
“Trên
thực tế, hầu hết các phần mềm nguồn mở đều do các
cộng đồng lập trình viên phần mềm trên thế giới tạo
ra, rất ít người trong số đó là người Việt Nam. Không
ít các công ty Việt Nam tải về kho mã nguồn phần mềm
nguồn mở, rồi sửa đổi các mã nguồn đó, sau đó đóng
nó lại, ngắt bỏ mọi liên hệ với cộng đồng các lập
trình viên của thế giới phát triển chính phần mềm đó.
Cách làm này là rất không khôn ngoan, vì sau một khoảng
thời gian, phần mềm được công ty tùy chỉnh đó có thể
sẽ rất khác với phần mềm gốc của cộng đồng thế
giới; và vì chúng ta không phải là những người khởi
xướng ra phần mềm đó, nên nếu họ thay đổi ở (một)
vài phần quan trọng của phần mềm đó, chúng ta sẽ gặp
khó, đôi khi hoàn toàn mất khả năng quản lý và kiểm
soát đối với phần mềm cùng các phần tùy chỉnh của
chúng ta.”
B3.
Các hoạt động có liên quan tới TNGDM
Nhằm
thúc đẩy ứng dụng và phát triển TNGDM trên thế giới,
ngày 25/11/2019, 193 quốc gia thành viên UNESCO đã nhất trí
phê chuẩn Khuyến nghị TNGDM[12], nhấn mạnh tới 5 khía
cạnh ưu tiên thúc đẩy, gồm: (1) Xây dựng năng lực;
(2) Phát triển chính sách hỗ trợ; (3) Khuyến khích TNGDM
chất lượng; (4) Nuôi dưỡng sáng tạo các mô hình bền
vững cho TNGDM; (5) Tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế.
Bám
theo 5 khía cạnh được nêu ở đây, đối sánh với các
hoạt động đã và đang diễn ra có liên quan tới TNGDM ở
Việt Nam, dù không đi sâu vào chi tiết, cho thấy như sau:
Xây
dựng năng lực: phát triển năng lực của tất cả
các bên liên quan chính cho giáo dục để tạo lập, truy
cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi,
và phân phối lại TNGDM, cũng như để sử dụng và áp
dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với
pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc
tế;
Khuyến
nghị TNGDM của UNESCO nêu:
Các
bên liên quan chính trong các khu vực chính quy, không chính
quy và phi chính quy trong Khuyến nghị bao gồm: các giảng
viên, nhà giáo dục, người học, cơ quan chính phủ, các
bậc phụ huynh, các nhà cung cấp và các cơ sở giáo dục,
các nhân viên hỗ trợ giáo dục, các huấn luyện viên
giảng dạy, những người làm chính sách giáo dục, các
cơ sở văn hóa (như các thư viện, kho lưu trữ và viện
bảo tàng) và những người sử dụng chúng, các nhà cung
cấp hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT-TT), các nhà nghiên cứu, các cơ sở nghiên cứu, các
tổ chức xã hội dân sự (bao gồm các hiệp hội nghề
nghiệp và sinh viên), các nhà xuất bản, các khu vực nhà
nước và tư nhân, các tổ chức liên chính phủ, những
người nắm giữ bản quyền và các tác giả, các nhóm
truyền thông và phát thanh và các cơ quan cấp vốn.
Có
thể nói ở thời điểm hiện tại, hầu hết tất cả
các bên liên quan chính ở Việt Nam có lẽ chưa biết hoặc
chưa quan tâm tới đủ tới TNGDM, ngoại trừ một vài
hội, hiệp hội nghề nghiệp, một vài trường đại học,
và một vài cá nhân có mối quan tâm, một cách tự phát.
Cũng
có một số hoạt động nâng cao nhận thức, tổ chức
các hội nghi, hội thảo, tọa đàm từ năm 2012
cho tới nay[13];
và đặc biệt là các khóa huấn
luyện huấn luyện viên
thực hành khai thác TNGDM, dù với số lượng các học
viên tham dự là rất khiêm tốn. Từ
năm 2017 cho tới nay[14],
chỉ
gần
60 khóa thực
hành như vậy được tiến hành cho
gần
1.200 học viên là các cán bộ, giảng viên của
một
số
trường đại học, cao đẳng khắp cả nước, một
con số rất khiêm tốn
nếu so với số lượng toàn bộ các giảng viên trong
ngành giáo dục ở Việt Nam cần phải có các năng lực
và kỹ
năng về
TNGDM là khoảng 1,5 triệu người, chưa nói gì tới các
bên liên quan chính khác như được nêu ở trên.
Điều
quan trọng khác
ở khía cạnh
xây dựng năng lực TNGDM, là việc sử dụng và
áp dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với
pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế
là chưa tồn tại ở Việt Nam hiện nay, trong khi việc
cấp phép mở là điều kiện tiên quyết để
một tài nguyên giáo dục trở thành TNGDM.
Tóm
lại, việc xây dựng năng lực TNGDM ở thời điểm hiện
tại ở Việt Nam là còn thiếu và còn rất yếu so với
Khuyến nghị của UNESCO: “cung cấp việc xây dựng năng
lực có hệ thống và liên tục (trong và trước khi phục
vụ) về cách để tạo lập, truy cập, làm cho sẵn sàng,
sử dụng lại, tùy biến thích nghi, và phân phối lại
TNGDM như một phần không thể thiếu của các chương
trình huấn luyện ở tất cả các mức giáo dục, bao gồm
trợ giúp trong các chương trình huấn luyện ban đầu cho
các nhà giáo dục.”
Phát
triển chính sách hỗ trợ: khuyến khích các chính phủ,
các nhà chức trách và các cơ sở giáo dục áp dụng
thường xuyên khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép
mở cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà
nước cấp vốn, phát triển các chiến lược để xúc
tác cho sử dụng và tùy biến thích nghi TNGDM để hỗ trợ
cho giáo dục chất lượng cao, bao hàm toàn diện và học
tập suốt đời cho tất cả mọi người, được nghiên
cứu thích hợp trong lĩnh vực này hỗ trợ;
Có
thể nói ở thời điểm hiện tại, không/chưa ở đâu ở
Việt Nam, cả ở mức quốc gia, địa phương và cơ sở
giáo dục có khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép
mở cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà
nước cấp vốn, cũng không/chưa ở đâu phát triển các
chiến lược để xúc tác cho sử dụng và tùy biến thích
nghi TNGDM để hỗ trợ cho giáo dục chất lượng cao, bao
hàm toàn diện và học tập suốt đời cho tất cả mọi
người.
Dù
vậy, cũng đã có những dấu hiệu tích cực cho thấy,
trong những năm tới có thể có những khởi sắc trong
chính sách về TNGDM từ khu vực nhà nước, với một số
Đề án có liên quan tới TNGDM như: (1) Đề án của Vụ
GDTX về xây dựng xã hội học tập do Bộ GDĐT chủ trì,
trong đó có lồng ghép một số Đề án có liên quan tới
TNGDM do các Bộ – Ngành - Tổ chức xã hội khác chủ
trì; (2) Đề án Xây dựng mô hình TNGDM trong GDĐH; (3) Đề
án Chuyển đổi số trong GDNN của Tổng cục GDNN, Bộ
LĐ-TB-XH. Cả 3 Đề án này đều đang ở giai đoạn hoàn
thiện để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Truy
cập hiệu quả, bao hàm toàn diện và công bằng tới
TNGDM chất lượng: hỗ trợ áp dụng các
chiến lược và chương trình, bao gồm qua các giải pháp
công nghệ thích hợp để đảm bảo TNGDM trong bất kỳ
phương tiện nào được chia sẻ ở các định dạng và
các tiêu chuẩn mở để tối đa hóa truy cập công bằng,
đồng sáng tạo, giám tuyển, và khả năng tìm thấy được,
bao gồm cho những người từ các nhóm bị tổn thương và
những người khuyết tật;
Đây
là công việc hy vọng sẽ có trong tương lai từ 2022 trở
đi, khi các Đề án có liên quan tới TNGDM được nêu ở
trên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cũng cần
phải lưu ý là, ở thời điểm hiện tại, các định
dạng và tiêu chuẩn mở hầu như vô cùng hiếm được sử
dụng cả trong toàn bộ ngành giáo dục cũng như trong toàn
bộ các cơ quan nhà nước. Hầu hết các định dạng và
tiêu chuẩn được sử dụng đều là các định dạng và
tiêu chuẩn sở hữu độc quyền, bị phụ thuộc và khóa
trói (lock-in) vào các nhà cung cấp độc quyền. Đây có
thể là trở ngại vô cùng lớn cho Việt Nam trong tương
lai, nếu không có các thay đổi chính sách có tính bước
ngoặt.
Nuôi
dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM:
hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo các mô hình bền vững
cho TNGDM ở mức quốc gia, khu vực và cơ sở, và lên kế
hoạch và kiểm thử thí điểm các dạng thức bền vững
mới của giáo dục và học tập;
Do
đặc điểm của mô hình phát triển và mô hình cấp phép
của TNGDM, các mô hình bền vững cho TNGDM thường là các
mô hình doanh thu của thế giới nguồn mở, dựa vào việc
bán các dịch vụ xung quanh sản phẩm của
chung cộng đồng, chứ không dựa vào các mô hình kinh
doanh của thế giới nguồn đóng, thường dựa vào việc
bán trực tiếp các sản phẩm là sở hữu độc
quyền của công ty, tập đoàn. Các mô hình doanh thu dựa
vào việc bán các dịch vụ xung quanh sản phẩm
của chung cộng đồng hầu như hoàn toàn trái ngược với
văn hóa vài ngàn năm lịch sử của Việt Nam[15] được
truyền đời qua các thành ngữ như ‘tiền nào của
nấy’ hay ‘ăn bánh trả tiền’, trong khi các
mô hình doanh thu dựa vào việc bán các dịch vụ
lại được các tập đoàn giàu có nhất thế giới, phần
lớn trong số họ là các tập đoàn công nghệ số, đã
và đang triển khai trong thực tế hàng ngày. Các mô hình
doanh thu bền vững cho TNGDM đều dựa vào nguyên lý cộng
lực để phát triển với 2 điều kiện tiên quyết cùng
song hành: Mở và Vô hình[16].
Thay
đổi văn hóa là việc khó, thậm chí rất khó, có
thể mất hàng thế kỷ.
Nhưng có thể, trong
kỷ nguyên số, khi
mà
chuyển
đổi số là
mệnh
lệnh
cho tất cả các quốc gia có mong muốn phát
triển,
trong
khi kết quả của chuyển
đổi số chắc
chắn 100% sẽ là các tài nguyên vô hình, thì việc
không thay đổi văn hóa như được nêu ở trên, có
thể sẽ
luôn cản trở sự phát
triển của
Việt Nam và chiến
lược chuyển đổi số của
Việt Nam nói chung, và
TNGDM,
nói riêng. Có
thể, việc thay đổi văn hóa từ đóng sang mở, là rào
cản
lớn nhất nhằm
nuôi
dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM ở
Việt
Nam.
Khai
thác và tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế:
hỗ trợ hợp tác quốc tế giữa các bên liên quan để
tối thiểu hóa đúp bản không cần thiết trong các đầu
tư phát triển TNGDM và để phát triển kho toàn cầu các
tư liệu giáo dục đa dạng, phù hợp với địa phương,
nhạy cảm với giới tính, truy cập được trong nhiều
ngôn ngữ và định dạng.
Việt
Nam có hợp tác quốc tế trong hầu hết tất cả các lĩnh
vực của xã hội và nền kinh tế. Tuy nhiên, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực có liên quan tới TNGDM có lẽ là
rất hiếm thấy ở thời điểm hiện tại. Được biết,
từ góc độ của cấp phép mở như được chỉ ra trên
Hình 2, thì dữ liệu mở là TNGDM, dù ngược lại, thì
không đúng. Ở lĩnh vực dữ liệu mở, hiện Việt Nam có
vài tổ chức, đơn vị, là thành viên của Đối tác Dữ
liệu Mở châu Á - AODP (Asian Open Data Partnership)[17], một
tổ chức có sứ mệnh thúc đẩy ứng dụng và phát triển
dữ liệu mở ở châu Á dựa vào văn hóa và nhu cầu của
các quốc gia châu Á.
Tại
các hội nghị AODP trong các năm 2019 và 2020[18], [19], [20],
đại diện của Việt Nam từ khối giáo dục đã tham dự
và đã có các bài trình bày nhấn mạnh việc ứng dụng
và phát triển dữ liệu mở ở Việt Nam tốt nhất và
khả thi nhất là thông qua giáo dục và bằng TNGDM.
Năm
2021 là năm Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị AODP, dù
là trên trực tuyến vì đại dịch COVID-19,
là một điểm sáng cho khía cạnh hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực TNGDM. Hội nghị toàn thể AODP năm nay diễn ra
vào ngày 16/11/2021, là hội nghị AODP lần đầu tiên có
một phiên dành riêng cho giáo dục ‘Dữ liệu Mở cho
Công nghệ Giáo dục’.
Cũng
thừa nhận là các hoạt động khai thác và tạo thuận
lợi cho hợp tác quốc tế có thể còn được tiến hành
ở vài cơ sở giáo dục nào đó khác mà chưa được nhắc
tới ở đây.
C.
Học tập suốt đời trong kỷ nguyên hậu COVID-19
C1.
Tổng kết Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2012-2020” và dự thảo xây dựng Đề án “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2021-2030” của Bộ GDĐT
Ngày
18/6, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã tổ chức Hội
nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 8 năm thực hiện
Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2012-2020”. Hội nghị nhằm đánh giá những kết quả đạt
được, tồn tại và hạn chế của việc triển khai Đề
án; trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, giải pháp cho việc
xây dựng Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2021-2030”[21]. Đánh giá chung việc thực hiện Đề án
2012-2020 nêu:
“Bên
cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện
Đề án còn một số hạn chế. Trong đó, nhận thức về
đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập ở một số địa phương, cơ quan, doanh
nghiệp, trường học, đơn vị… còn chưa đúng mức. Các
hoạt động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường
chưa đa dạng, phong phú, điều kiện hoạt động còn
nhiều khó khăn. Sự tham gia của các cơ sở giáo dục
đại học trong công tác khuyến học, khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập còn hạn chế...”
Dự
thảo Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2021-2030”, do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, đang
được xây dựng và hoàn thiện để trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt với học tập suốt đời là một
trong định hướng trong quan điểm chỉ đạo của Đề
án. Khác với giai đoạn 2012-2020, việc “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2021-2030” có liên quan chặt chẽ
tới chiến lược chuyển đổi số quốc gia[22] đã được
ban hành tháng 6/2020. Đề án lần này đặt ra mục tiêu
cụ thể tới năm 2030 có 60% các
trường đại học và cao đẳng triển
khai hệ thống học tập trực tuyến
và tham gia xây
dựng, khai thác nguồn
tài nguyên giáo dục mở.
Ở phần
nhiệm vụ và giải pháp của đề án có giao cho các cơ
sở giáo dục đại học và giáo dục thường
xuyên nhiệm vụ chia sẻ, khai thác các nguồn tài
nguyên giáo dục mở trong nước và Việt hóa các nguồn
tài nguyên giáo dục mở quốc tế.
Dự
thảo đề án cũng đề cập tới các thành tố của học
tập suốt đời như việc học tập của từng gia đình,
dòng họ, cộng đồng dân cư, thành phố học tập.v.v.,
và quan trọng, Đề án dự kiến đề xuất và trình ra
Quốc hội dự án Luật học tập suốt đời.
Để
có thể xây dựng xã hội học tập theo định hướng học
tập suốt đời, dự thảo Đề án này cũng đề xuất
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một loạt các Đề án
có liên quan tới việc học tập suốt đời mà các bộ -
ngành - tổ chức xã hội khác chủ trì.
Tóm
tắt ngắn gọn, như được nêu ở phần trên, việc
chọn học tập suốt đời và ứng dụng và phát triển
các nguồn TNGDM là một đường hướng được lựa chọn
đúng với xu thế của thế giới, cho dù ở thời điểm
hiện tại, các yếu tố đó, nếu được phê duyệt, mới
chỉ dừng ở mức lý thuyết và cần được kiểm chứng
trong thực tế cuộc sống những năm tới.
C2.
Đại dịch COVID-19 và sự dịch chuyển
sang học tập suốt đời ở một số quốc
gia
Vào
thời điểm các Đề án liên quan tới TNGDM ở Việt Nam
đang được hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, Hội nghị Giáo dục Mở Toàn cầu 2021 đã vừa
diễn ra trên trực tuyến trong 5 ngày, từ 27/09/2021 tới
01/10/2021, với mỗi ngày tập trung vào 1 trong 5 khía cạnh
được Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở của UNESCO
khuyến khích thúc đẩy, với nhiều bài trình bày và các
video được chuẩn bị từ trước mà bất kỳ ai cũng có
thể tải về để xem[23], trong số đó có các bài trình
bày đề cập tới việc TNGDM[24] và Khuyến nghị TNGDM của
UNESCO hỗ trợ cho việc học tập suốt đời[25]. Tiếp
theo Hội nghị này là Hội nghị Giáo dục Mở Toàn cầu
năm 2022 dự kiến sẽ diễn ra trực tiếp tại thành phố
Nantes của nước Pháp vào các ngày 23-25/05/2022. Tại Hội
nghị trực tiếp ở Nantes, các diễn giả sẽ đưa ra các
báo cáo dựa vào các đầu ra từ hội nghị trên trực
tuyến để phục vụ như là các đầu vào cho Hội nghị,
cung cấp điểm khởi đầu cho các thảo luận từ đó các
khuyến nghị thực hành sẽ được đề xuất và thông
qua.
Hội
nghị Giáo dục Mở Toàn cầu diễn ra trong bối cảnh cả
thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
COVID-19, nó
nhấn mạnh tới
việc giảng dạy
và học tập
trên trực tuyến, nhu cầu giáo
dục số và
học tập suốt đời
cho các công dân, bất kể giới
tính, tuổi tác, xuất thân hay hoàn cảnh của họ.
Ở
châu
Âu, vào
năm 2018, trước
khi đại
dịch COVID-19
xảy
ra,
Ủy
ban châu Âu đã ban
hành Kế hoạch Hành
động Giáo dục số
2018, nó
chính là khung đầu tiên của Liên
minh châu Âu về
giáo
dục số,
với
11 hành động được nhóm
trong 3 ưu tiên,
và
tập
trung vào giáo dục chính
quy.
Các
ưu tiên gồm: (1) Sử dụng tốt hơn công nghệ số để
dạy và học; (2) Phát triển các năng lực và kỹ năng
số; và (3) Cải thiện giáo dục thông qua phân tích và dự
báo dữ liệu tốt hơn. Tuy
nhiên, đại
dịch COVID-19
ập tới
vào đầu năm 2020 đã làm thay đổi mọi điều, dẫn tới
sự ra đời của Kế hoạch hành động giáo
dục số
2021-2027
trong
khi việc thực hiện Kế hoạch hành động giáo
dục số
2018
còn chưa kết thúc và chưa có tổng kết đánh giá.
Tài
liệu về Kế hoạch hành động giáo
dục số
2021-2027
của Ủy
ban châu Âu[26]
nêu
có
sự thừa nhận rộng rãi trong số những người
trả lời cho
các câu hỏi xung quanh việc sử dụng hiệu quả công nghệ
cho việc dạy và học và
nêu:
“Khủng
hoảng COVID-19 là ‘bước ngoặt’ cho giáo dục số.
Sự dịch chuyển bị ép buộc đó sang học
tập từ xa và trên trực tuyến có thể có tác động dài
hạn lên giáo dục và đào tạo... Kế hoạch Hành động
Giáo dục Số 2021-2027 nắm lấy thách thức
này và đặt ra các nguyên tắc, tầm nhìn và một loạt
các biện pháp để hỗ trợ cho giáo dục số chất lượng
cao và hòa nhập. Khi
xem xét tranh luận về
sử dụng công nghệ
cho việc học từ xa do khủng hoảng COVID-19 đã gây
ra, Kế hoạch Hành động đề cập
tới các thách
thức và cơ hội cho giáo dục số trong các môi trường
học tập khác nhau (chính
quy, không
chính quy,
và phi
chính quy)
và mở rộng
phạm vi của nó tới học tập suốt đời.”
Tính
tới việc dạy và học từ xa và trên trực tuyến sẽ là
công việc lâu dài nhằm khắc phục các rào cản do đại
dịch COVID-19 và các
khủng hoảng tương tự trong tương lai, song song với việc
ban hành Kế hoạch giáo dục số 2021-2027 nhằm vào giáo
dục cả chính quy, không chính quy, phi chính quy và mở
rộng phạm vi tới học tập suốt đời, vào năm 2020,
được sự ủy quyền của Ủy
ban châu Âu, Trung tâm Nghiên cứu Chung – JRC (Joint
Research Centre) đã xuất bản tài liệu ‘LifeComp: Khung
Năng lực Chính cho Cá nhân, Xã hội và Học
để Học của châu Âu[27]’, có thể được coi là
điểm khởi đầu cho việc xây dựng khung năng lực số
cho các công dân châu Âu theo hướng học tập suốt đời
là định hướng trọng tâm.
Tính
mở, một khái niệm bao trùm lên cả TNGDM và các khái
niệm MỞ khác, được gắn
với việc học tập suốt
đời, như được
nêu ở một trong
các mô
tả năng lực chính
cho lĩnh vực năng lực Học để Học của Khung năng
lực LifeComp, khi
nó nêu: “Hiểu
rằng học tập là một quá trình suốt đời
đòi hỏi tính mở, sự tò mò ham học
hỏi và quyết tâm.”
Ngoài
các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu ra, cũng còn có
vài quốc gia khác đã và đang tính tới việc xây dựng
chính sách hướng tới việc học tập suốt đời, ví dụ
như nước Nga và Israel[28].
C3.
Nghiên cứu về học tập suốt đời và sáng
kiến ‘Tương lai của giáo dục’ tới năm 2050 và
10 thông điệp chính của nó
Cũng
từ
sự đổ vỡ do đại
dịch COVID-19
gây ra trong các hệ thống giáo dục và
trong cuộc sống của tất cả mọi người trên khắp thế
giới, vào
năm 2020, Viện Học tập Suốt đời của UNESCO - UIL
(UNESCO
Institute for Lifelong Learning)
đã xuất bản tài liệu báo cáo ‘Ôm lấy
văn hóa học tập suốt đời: Đóng góp cho sáng kiến
Tương lai của Giáo dục[29]’, đưa ra tiếp cận và những
khái niệm mới chưa từng có liên quan tới việc học tập
suốt đời cho sáng kiến Tương lai của Giáo dục tới
năm 2050.
Từ
trước tới nay, việc học tập
suốt đời luôn nằm trong khuôn
khổ của các
lĩnh vực chính sách giáo dục và thị
trường lao động.
Nhưng từ bây giờ trở đi, nó
có thể sẽ rất khác, vì
nó “sẽ
phải dịch chuyển nhiều hơn nữa tới
chương
trình nghị sự chính sách,
vượt
ra khỏi các lĩnh vực chính sách giáo dục và thị
trường lao động”
và
“tiềm
năng của học
tập suốt đời không
chỉ để biến đổi lĩnh vực giáo dục,
mà
còn tạo ra tương lai bền vững, lành mạnh và hòa nhập
hơn”
cho tất
cả mọi người và cho tương lai của giáo
dục,
theo
quan điểm của các tác giả tài liệu.
Tài
liệu đưa ra ở phần kết của nó 10 thông điệp chính,
mỗi thông điệp cùng đi với các gợi ý đường hướng
hành động nhằm biến các thông điệp chính đó thành
các chính sách,
chương
trình nghiên cứu và các sáng kiến cụ thể. Dưới đây
liệt kê và
giới
thiệu qua 10
thông điệp chính đó và
mô tả rất ngắn gọn và
còn
chưa đầy đủ về chúng:
Thừa
nhận đặc tính toàn diện của học
tập suốt đời. Khái niệm học tập suốt
đời đầy đủ ngụ ý việc học tập từ lúc sinh ra
cho tới lúc chết đi (bất kỳ lúc nào), tồn tại
bên trong và bên ngoài hệ thống giáo dục (bất kỳ ở
đâu), được mọi người ở mọi lứa tuổi triển
khai (bất kỳ ai, bất kỳ lứa tuổi nào), bằng
và/hoặc qua một dải rộng lớn các phương thức, bao
gồm mặt đối mặt, từ xa, trên trực tuyến (bất kỳ
cách gì), và liên quan tới tất cả các lĩnh vực
kiến thức (bất kỳ điều gì). Việc học tập
suốt đời như vậy sẽ kéo theo việc phát triển năng
lực của người học, cá nhân hóa việc học tập, việc
thừa nhận các kết quả học tập giành được trong các
bối cảnh khác nhau và thúc đẩy lộ trình học tập
linh hoạt. Điều này, tới lượt nó, sẽ dẫn tới việc
xây dựng chính sách học tập suốt đời dịch chuyển
từ cung sang cầu.
Thúc
đẩy nghiên cứu liên ngành và cộng tác liên lĩnh vực
cho học tập suốt đời.
Nhiều thách thức
ngày nay loài người đối mặt chỉ có thể được giải
quyết bằng kiến thức liên ngành, liên lĩnh vực. Vì
đặc tính của việc
học tập suốt đời
với nhiều điều
‘bất kỳ’
như được nêu ở thông điệp 1 ở trên,
nó đòi hỏi sự cộng tác liên ngành, liên lĩnh vực.
Đặt
các nhóm bị tổn thương vào cốt lõi của chương trình
nghị sự chính sách học tập suốt đời.
Mục đích của nó
là để ‘không để ai bị bỏ lại phía sau’
được triển khai trong thực tế. Ví dụ, đại dịch
COVID-19 đã cho
thấy, bạn chỉ an toàn khi mọi người được an toàn,
và ngược lại.
Làm
cho việc học tập suốt đời trở thành hàng hóa công
cộng. Quan
điểm này bắt nguồn từ ý tưởng các hàng
hóa chung
(Common
Goods),
được định nghĩa như là các hàng hóa làm lợi cho xã
hội như một tổng thể và là nền tảng cho cuộc sống
của mọi người. Xây
dựng những
điều chung của giáo dục
(Education
Commons)
-
tính
sẵn sàng tự do không mất tiền của các tài nguyên dạy
và học - các bài học học được từ kinh nghiệm của
các sáng kiến của chính phủ và xã hội dân sự xung
quanh khái niệm những
điều
chung (như truy
cập mở,
nguồn
mở, tài
nguyên giáo dục mở,
và
các nền tảng tập thể trên trực tuyến) cần được
áp dụng cho các sáng kiến học
tập suốt đời.
Đảm
bảo truy cập lớn hơn và công bằng tới công nghệ học
tập.
Trong
một thế giới ngày càng gia tăng trên trực tuyến,
mọi
người cần có khả năng giành được và liên tục cập
nhật các kỹ
năng số
cần thiết để tham gia đầy đủ trong nền kinh tế,
trong
khi đại
dịch COVID-19
đã và
đang
cảnh
báo về sự đào sâu thêm các bất bình đẳng số trong
cung ứng giáo dục trên trực tuyến.
Biến
đổi các trường phổ thông và đại học thành các cơ
sở học tập suốt đời. Thay
vì hiểu sứ mệnh của các
cơ
sở giáo dục phổ thông và
đại học
chủ yếu như là việc dạy các môn học đặc biệt cho
các nhóm học sinh và
sinh
viên được xác định rõ ràng (từ giáo dục tiểu học
tới đại học), nhiệm vụ của các trường phổ thông
và đại học cần được mở rộng để bao gồm tất cả
các thành viên của cộng đồng.
Hệ
quả là, điều này ngụ ý trách nhiệm
vừa để chuẩn bị cho học sinh và
sinh
viên trở thành những người học
tập suốt đời và
vừa cung cấp các cơ hội học
tập suốt đời cho
tất
cả mọi người,
bất
kể độ tuổi và trình
độ học vấn.
Thừa
nhận và thúc đẩy khía cạnh học tập tập thể.
Việc
học
tập suốt đời có thể diễn ra trong bất kỳ
cộng đồng dân cư nào, bao gồm cả trong gia đình, làng
xóm. Vai
trò của người
thầy
và người học trở nên hoán đổi lẫn nhau được trong
các cộng
đồng tập
thể như vậy, khi mọi người chia sẻ sự tinh thông của
họ và
cùng một
lúc, học từ những người khác.
Khuyến
khích và hỗ trợ các sáng kiến học tập suốt đời
của địa phương bao gồm các thành phố học tập.
Các sáng kiến học tập suốt đời của địa phương là
phần quan trọng của sự thay đổi từ dưới lên hướng
tới văn hóa học tập suốt đời.
Thiết
kế lại và phục hồi lại hoạt động học tập ở nơi
làm việc.
Để khai thác các không gian làm việc như là các không
gian cho học tập suốt đời, việc thiết kế lại và
phục hồi lại việc học tập ở nơi làm việc là chìa
khóa.
Thừa
nhận học tập suốt đời như là quyền mới của con
người.
Quyền
được giáo dục phải được làm mới lại, khẳng định
lại học
tập suốt đời như
là quyền con người.
Quyền này vì thế không còn bị giới hạn tới việc
truy cập được hệ thống trường học, mà thay vào đó
phục vụ để đảm bảo tính liên tục của việc học
tập suốt cuộc đời, bao gồm hướng dẫn thích hợp và
đánh giá tính
khả chuyển kỹ thuật số của tất cả các kết quả
học tập. Trên
cơ
sở này,
quyền mới này có thể cần phải được chuyển mạnh
thành pháp luật, chính sách và thực hành.
Điều này
cũng nhằm loại bỏ các bất bình đẳng trong thực tế
tới giáo dục, bao
gồm bất bình đẳng truy cập tới các hạ
tầng kỹ thuật số.
D.
Kết luận và gợi ý
Trong
kỷ nguyên số, học tập suốt đời đang ngày càng trở
nên quan trọng hơn, thậm chí nó có thể trở thành một
quyền mới của con người, đi vượt ra khỏi khuôn khổ
chính sách giáo dục và thị trường lao động, điều từ
trước tới nay chưa từng thấy. Để
làm phong phú cho thảo
luận về việc phát
triển nền tảng
pháp lý hơn nữa cho
việc đó,
UNESCO có thể khởi xướng một sáng kiến mở thu thập
những đóng góp toàn cầu về cách để xác định quyền
con người cho học
tập suốt đời và
các tác động có liên quan. Tài
liệu của UIL gợi ý các thông điệp ở trên sẽ được
đưa ra thảo luận từ năm sau, 2022:
“Nỗ
lực triết học và pháp lý như vậy có thể được triển
khai để chuẩn bị cho kỷ niệm 75 năm tuyên ngôn quyền
giáo dục vào năm 2023. Như một bước trung gian, Hội
nghị Quốc tế về Giáo dục Người trưởng thành lần
thứ 7 - CONFINTEA
VII (International
Conferences on Adult Education VII[30])
sẽ
được tổ chức năm 2022
có thể đưa ra
cơ hội xem
xét các cân nhắc của các
quốc
gia thành
viên, chuyên gia và các bên liên quan đến quyền phổ cập
học tập suốt đời.”
TNGDM
hầu
hết là các tài
nguyên giáo dục
được
cấp phép mở bằng các giấy
phép Creative
Commons. Bản
thân cụm từ Creative
Commons có
nghĩa là những
điều chung có tính sáng tạo.
Trong kỷ nguyên số, việc học
tập suốt đời luôn
song hành với TNGDM cùng nhiều khái niệm và thực hành MỞ
khác, thậm chí nó có thể phát
triển để trở
thành
hàng hóa công cộng hay
một
trong những điều chung của giáo dục (Education Commons),
bên cạnh các
điều chung khác,
như
truy
cập mở,
dữ
liệu mở, phần mềm nguồn mở.
Ngày
nay, một xu thế với khái niệm bao trùm lên cả TNGDM và
những điều MỞ được liệt kê ở trên đang nổi lên,
là Khoa học Mở. Trong các ngày 9-24/11/2021, Hội nghị Toàn
thể phiên thứ 41 của UNESCO diễn ra và ở đó, Khuyến
nghị Khoa học Mở dự kiến sẽ được gần 200 quốc gia
thành viên của UNESCO phê chuẩn, một lần nữa nhấn mạnh
tới TNGDM như một thành phần nền tảng của Khoa học
Mở.
Ở
Việt Nam hiện nay, việc học tập suốt đời đang ở vào
thời điểm chuyển giai đoạn, có thể gọi như là việc
chuyển từ xóa mù chữ sang xóa mù số, khi mà chiến lược
chuyển đổi số quốc gia đã được công bố tháng
6/2020. Tương tự, việc ứng dụng và phát triển TNGDM ở
Việt Nam theo các chuẩn mực của thế giới như được
nêu trong Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019 cũng mới
chỉ ở vạch xuất phát, hầu hết chúng đang nằm trong
các Đề án chờ được phê duyệt, cần nhiều thời gian
hơn trong những năm tới để được chứng minh tính hiệu
quả trong thực tế triển khai.
Đường
hướng được chọn cho việc học tập suốt đời đi
cùng với TNGDM là đúng theo xu thế của thế giới, dù để
hiện thực hóa nó là đầy thách thức. Có thể gợi ý,
cách nhanh nhất và hiệu quả nhất, là nghiên cứu thật
kỹ tài liệu Khuyến nghị TNGDM của UNESCO và điều chỉnh
nó cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam với lưu ý
là những đối sánh được nêu trong bài viết này, chỉ
mới dừng ở tiêu đề của 5 khía cạnh ưu tiên thúc
đẩy, trong khi tài liệu Khuyến nghị TNGDM đó chi tiết
hóa các hoạt động của từng trong tất cả 5 khía cạnh
đó. Một gợi ý khác với mức ưu tiên cao nhất ở thời
điểm hiện nay, là có chính sách cấp phép mở ở mức
quốc gia, vì không có cấp phép mở, với thực tế ở
Việt Nam hiện nay như được nêu trong bài, sẽ không tài
nguyên nào là TNGDM!
E.
Các chú giải
[1]
UNESCO, 2020:
Ôm
lấy
văn hóa học tập suốt đời - Đóng góp cho sáng kiến
Tương lai của Giáo dục.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tai-lieu-dich/om-lay-van-hoa-hoc-tap-suot-doi-dong-gop-cho-sang-kien-tuong-lai-cua-giao-duc-ban-dich-sang-tieng-viet-509.html
[2]
UNESCO, 2019:
Khuyến
nghị Tài nguyên giáo dục Mở.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/khuyen-cao-ve-tai-nguyen-giao-duc-mo-cua-unesco-ban-dich-sang-tieng-viet-90.html
[3]
Sarah
Hare, Jessica Kirschner, và Michelle Reed biên tập: Đánh
dấu khóa học mở và kham được: Các thực hành tốt
nhất và các trường hợp điển hình.
Nhà xuất
bản
Mavs, 2020, CC BY 4.0. Đoạn dịch trích
dẫn:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/loi-ich-cua-tai-nguyen-giao-duc-mo-290.html
[4]
Cánh
Buồm. Sách
mở:
https://canhbuom.edu.vn/sachmo/
[5]
Lê
Trung Nghĩa, 2021: Công
nghệ mở trong các cơ sở văn hóa và giáo dục:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cong-nghe-mo-trong-cac-co-so-van-hoa-va-giao-duc-513.html
[6]
Cổng thông tin điện tử Chính phủ: Quyết
định số 1296/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê
duyệt Chương trình "Nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ
liệu và công bố tác phẩm văn học nghệ thuật Việt
Nam trên nền tảng cách mạng công nghiệp lần thứ tư":
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&mode=detail&document_id=200827
[7]
Cổng
thông tin điện tử Chính phủ: Quyết
định số 206/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê
duyệt "Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030":
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&mode=detail&document_id=202657
[8]
Lê
Trung Nghĩa, 2020: Chuyển
đổi số của ngành văn hóa trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư và khía
cạnh chuyển thể các tác phẩm và di sản văn hóa đang
nằm trong phạm vi công cộng sang dạng kỹ thuật số:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/chuyen-doi-so-cua-nganh-van-hoa-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-va-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-va-khia-canh-chuyen-the-cac-tac-pham-va-di-san-van-hoa-dang-nam-trong-pham-vi-cong-cong-sang-dang-ky-thuat-so-312.html
[9]
UNESCO, 12/05/2021:
Bản
thảo Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tai-lieu-dich/ban-thao-khuyen-cao-khoa-hoc-mo-cua-unesco-ban-dich-sang-tieng-viet-411.html
[10]
Software
Heritage: https://www.softwareheritage.org/
[11]
Lê
Trung Nghĩa, 2021: Những
điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1):
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html
[12]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở, 2019: ‘Khuyến
cáo về Tài nguyên Giáo dục Mở’ của UNESCO - bản dịch
sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/khuyen-cao-ve-tai-nguyen-giao-duc-mo-cua-unesco-ban-dich-sang-tieng-viet-90.html
[13]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Các
bài trình chiếu tại hội nghị và hội thảo tới hết
năm 2020:
https://giaoducmo.avnuc.vn/hoi-thao/cac-bai-trinh-chieu-tai-hoi-nghi-va-hoi-thao-toi-het-nam-2020-372.html
[14]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Các
lớp tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục
mở’ tới hết năm 2020:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tap-huan/cac-lop-tap-huan-thuc-hanh-khai-thac-tai-nguyen-giao-duc-mo-toi-het-nam-2020-370.html
[15]
Lê
Trung Nghĩa, 2021:
Những
điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1):
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html,
xem phần B. Triết lý của nguồn mở và văn hóa của
người Việt Nam.
[16]
Lê
Trung Nghĩa, 2020: Chuyển
đổi số: Cách tiếp cận mới về mở:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/chuyen-doi-so-cach-tiep-can-moi-ve-mo-280.html
[17]
Trang
web của AODP: About:
https://opendata.tca.org.tw/asia/about.php
[18]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Đối
thoại của Đối tác Dữ liệu Mở châu Á 2019:
https://giaoducmo.avnuc.vn/hoi-thao/doi-thoai-cua-doi-tac-du-lieu-mo-chau-a-tai-dai-hoc-tokyo-nhat-ban-45.html
[19]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Hội
nghị thượng đỉnh của Đối tác Dữ liệu Mở châu Á
2019:
https://giaoducmo.avnuc.vn/hoi-thao/hoi-nghi-thuong-dinh-du-lieu-mo-quoc-te-2019-tokyo-nhat-ban-8-10-2019-46.html
[20]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Đối
thoại của Đối tác Dữ liệu Mở châu Á 2020:
https://giaoducmo.avnuc.vn/hop-tac/doi-thoai-cua-doi-tac-du-lieu-mo-chau-a-2020-qua-hinh-anh-320.html
[21]
Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2021: Tổng
kết đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2012-2020:
https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-thuong-xuyen/Pages/default.aspx?ItemID=7376
[22]
Cổng thông tin điện tử Chính phủ: Quyết
định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê
duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030":
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&mode=detail&document_id=200163
[23]
OE Global 2021 Online Conference: Pre-recorded
Presentations:
https://connect.oeglobal.org/t/pre-recorded-presentations/2197
[24]
Gomathi Shridhar, Annapurna Madhuri Kadiyala, Praveen Raj, Mahesh
Deshmukh, Vinodkumar Didwana, Deepa Verma, 2021:
Exploring
the possibilities of OER in improving the effectiveness of higher
education and promoting lifelong learning.
Bản
dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/ifeka1e3hkrddxs/OE%20Global%20-%20Background%20of%20the%20study_Vi-10102021.pdf?dl=0
[25]
Mohammadreza Tavakoli (TIB), Abdolali Faraji (TIB), Gábor Kismihók
(TIB): OER
Recommendations to Support Lifelong Learning.
Bản
dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/io8fkijlv3man4o/OE_Global_2021_paper_27_Vi-09102021.pdf?dl=0
[26]
EC, 30/09/2020:
Digital
Education Action Plan 2021-2027: Resetting Education and Training for
the Digital Age.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tai-lieu-dich/ke-hoach-hanh-dong-giao-duc-so-2021-2027-thiet-lap-lai-giao-duc-va-dao-tao-cho-ky-nguyen-so-cua-lien-minh-chau-au-ban-dich-sang-tieng-viet-393.html
[27]
EC, JRC,
2020: LifeComp: The
European Framework for Personal, Social and Learning to Learn Key
Competence.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://publications.jrc.ec.europa.eu/repository/bitstream/JRC117987/jrc117987_lifecomp_technical_report.pdf
[28]
UNESCO,
2021: UNESCO
Science Report: the Race Against Time for Smarter Development.
S. Schneegans, T. Straza and J. Lewis (eds). UNESCO Publishing:
Paris. https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000377433.locale=en.
Xem trang 350, Hình 13.2: Funding and focus of Russian national
projects, 2019–2024, xem cột EDUCATION; và các
trang 409-411,
mục 16. Israel.
[29]
UNESCO, UIL, 2020:
Embracing
a Culture of Lifelong Learning: Contribution to the Futures of
Education initiative.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tai-lieu-dich/om-lay-van-hoa-hoc-tap-suot-doi-dong-gop-cho-sang-kien-tuong-lai-cua-giao-duc-ban-dich-sang-tieng-viet-509.html
[30]
UNESCO Institute for
Lifelong Learning:
Towards
CONFINTEA VII: Adult learning and education and the 2030 Agenda:
https://uil.unesco.org/adult-education/confintea/towards-confintea-vii-adult-learning-and-education-and-2030-agenda-0
Giấy
phép nội dung: CC
BY 4.0 Quốc tế
Lê
Trung Nghĩa
PS:
Xem thêm: