Các ví dụ được thu
thập cho Hướng dẫn này chỉ ra rằng DigComp đang được
các chủng loại các bên tham gia đóng góp chính sau đây
sử dụng:
Những người làm chính sách
là các bộ của quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế
(như, Ủy ban châu Âu, Liên
hiệp quốc) và các cơ quan, viện
và các thực thể tương tự có liên quan tới nghiên cứu
và hỗ trợ của họ. Họ phát
triển các sáng kiến năng
lực số trong các lĩnh vực chính
sách khác nhau: giáo dục và đào
tạo, tuyển
dụng việc làm, phát triển kinh
tế, hành chính công, và chương
trình nghị sự số. Trong
trường hợp của giáo dục và
đào tạo,
họ tiến hành các hành động
phát triển số
ở tất cả các mức và họ nhằm vào quan
điểm học
tập suốt đời trong giáo dục
người lớn.
Các cơ sở giáo dục và đào
tạo phát triển các sáng kiến năng lực số hoạt
động độc lập, trong các mạng quốc gia (cả trong mối
liên quan tới các cơ sở nghề nghiệp và của chính phủ)
hoặc trong các dự án của châu Âu với các dạng các đối
tác khác nhau. Họ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo và khác, nhưng với các chức năng nghiên cứu
và hỗ trợ. Vài ví dụ được các trường học triển
khai, thường trong ngữ cảnh các dự án của châu Âu.
Bên thứ 3 và doanh nghiệp là
các quỹ, các hiệp hội và các tổ chức phi lợi nhận
khác mà quản lý các hoạt động và chào các dịch vụ
trong giáo dục và đào tạo không chính quy, bao gồm các
trung tâm năng lực số chuyên nghiệp (như, Tất cả là Số
- All Digital – AllDigital.org).
Các tổ chức không vì lợi nhuận nhằm
vào những người sử dụng đích khác nhau như: thanh thiếu
niên để cải thiện khả năng tuyển dụng việc làm của
họ, trẻ em trong giáo dục (không chính quy) có triển vọng
và những người cao tuổi, những người thất nghiệp và
người lớn nói chung trong việc học tập suốt đời và
hòa nhập. DigComp cũng
đang được sử dụng để phát
triển năng lực số cho
các nhân viên các công ty và các tổ chức công đối mặt
với các thách thức của chuyển
đổi số.
1 Những người làm
chính sách
Các
bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan có liên quan
khác ở mức quốc gia và khu vực là những người áp
dụng DigComp. Những người làm chính sách cũng phát triển
các năng lực số về tuyển dụng việc làm, phát triển
kinh tế, hành chính công, xã hội thông tin và chương
trình nghị sự số. Kinh nghiệm chính sách của châu Âu
bao gồm DESI, ESCO, Europass, DigCompConsumers, và Digital Skills
(Các kỹ năng số) và Jobs Coalition (Liên minh việc làm).
T13. Các bên tham gia đóng góp - Người làm
chính sách/ các hạng mục liên quan
Hiện hành sự phát
triển năng lực số của
các giảng viên (cũng như các nhà quản lý và các nhân
viên khác), thường được ưu tiên như là điều kiện
tiên quyết để lan tỏa giáo dục được kỹ thuật
số cải thiện rộng rãi hơn và để phát triển năng lực
số cho những người học (T15), bằng việc nhúng năng lực
số vào chương trình giảng dạy các môn ở trường phổ
thông (C26).
Đại học Anglia Ruskin đang nhúng năng lực
số vào chương trình giảng dạy của giáo dục đại học.
Những người làm chính sách đã sử dụng
DigComp để:
Nâng cao nhận thức và hiểu biết về
năng lực số và các nhu cầu và các mục tiêu có liên
quan trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Ngoài hầu hết
các kinh nghiệm được minh họa trong Hướng dẫn này,
một ví dụ khác là Sách Xanh về Sáng Số dựa vào
DigComp được Bộ Giáo dục và Việc làm Malta xuất bản
tháng 04/2015;
Nhằm vào năng lực số của các giảng
viên các trường phổ thông (C3, C4, T20) và/hoặc để
thiết lập các hành động phát triển năng lực cho các
giảng viên, như việc đánh giá năng lực ban đầu của
họ (T6, C12), thiết kế và phân phối các cơ hội đào
tạo liên tục (T5, C4) và thừa nhận các thành tích học
tập của họ (T6). Trên thực tế, kinh nghiệm (C4) xem xét
các năng lực số không chỉ của các giảng viên, mà còn
của các nhà quản lý và các nhân viên hành chính các
trường phổ thông;
Giúp các giảng viên thiết kế và
phân phối các hoạt động phát triển và/hoặc đánh giá
năng lực số của sinh viên (T15), bằng việc nhúng năng
lực số vào chương trình giảng dạy các môn học của
nhà trường (C26). Đại học Anglia Ruskin đang nhúng năng
lực số vào chương trình giảng dạy giáo dục đại
học;
Rà soát lại các chương trình đào
tạo CNTT-TT trong quá khứ và phát triển bản chào mới
năng lực số trong giáo dục người lớn (C5);
Phát triển đánh giá năng lực số và
các nền tảng học tập cho các sinh viên, làm cho chúng
thành mở cả cho toàn bộ dân cư (C12).
Những người làm chính sách bên ngoài
lĩnh vực giáo dục chính quy đã sử dụng DigComp để:
Thúc đẩy và hỗ trợ học tập suốt
đời của dân cư nói chung trong lĩnh vực năng lực chủ
chốt này và đấu tranh chống các rủi ro bị loại trừ
số. Họ đã làm điều này thông qua các chương trình
sáng số trong các chương trình nghị sự số của họ,
được các mạng của các trung tâm năng lực số không
vì lợi nhuận cả của công và tư phân phối (như những
người đại diện ở châu Âu từ All Digital,
ALL-DIGITAL.ORG ). Trong ngữ cảnh này, DigComp được sử
dụng để thiết kế các biện pháp đào tạo cho những
người tạo thuận lợi số, các bài kiểm tra đầu vào
và các bản chào đào tạo cho các công dân nói chung và
đặc biệt những người gặp rủi ro bị loại trừ (C2,
C15, C21, C23, T13);
Cải thiện khả năng được tuyển
dụng làm việc của thanh niên, người thất nghiệp, và
thúc đẩy việc nâng cao kỹ năng chuyên nghiệp của lực
lượng lao động và tạo ra các dạng công việc mới. Vì
các mục đích đó, DigComp đã được sử dụng để đánh
giá các năng lực hiện có, để xác định các yêu cầu
năng lực số của các công việc hiện hành và mới và
để cung cấp hơn nữa hướng dẫn đào tạo (C2). Các
kinh nghiệm chứng thực có liên quan tới DigComp, bằng
việc tăng cường giá trị thị trường và thừa nhận
năng lực số giành được cũng đóng góp cho các mục
tiêu đó (T14, T17).
Tạo thuận lợi cho việc nâng cao các
kỹ năng của các nhân viên như một phần của hiện đại
hóa các yêu cầu các chủng loại năng lực của các nhân
viên (C28), để đo đếm mức hiện hành của họ và phát
triển các hành động đào tạo (C8, C27). Ngoài ra, Ban
Tổng Giám đốc về Dịch vụ Dân sự của Chính quyền
Khu vực Murcia ở Tây Ban Nha đã sử dụng DigComp 2.0 để
xác định năng lực số của các nhân viên công:
TINYURL.COM/YCBSYWU5
2
Giáo dục và đào tạo
Các
nhà cung cấp giáo dục và đào tạo ở tất cả các mức
thiết kế và phân phối kinh nghiệm năng lực số cho
những người học, các nhân viên, như các cơ sở nghiên
cứu và như các nhà cung cấp dịch vụ cho các khách hàng
khác.
T14. Các bên tham gia đóng góp - Giáo dục
và đào tạo/ các hạng mục liên quan
Các nhà cung cấp giáo dục và đào tạo
đã sử dụng DigComp để:
Thiết kế các chiến lược năng lực
số và/hoặc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ có liên
quan (đánh giá năng lực, đào tạo, .v.v.) cho các nhân
viên giảng dạy, các nhà nghiên cứu, các sinh viên, hành
chính và quản lý trong giáo dục đại học (C1 + T1) và
cho hệ thống trường phổ thông rộng lớn hơn. Ví dụ,
ở Estonia, theo sau sự giới thiệu năng lực số trong
chương trình giảng dạy của trường học năm 2014, Quỹ
CNTT vì Giáo dục (HITSA) và các thành viên đại học của
nó vào năm 2017 sử dụng DigComp để đánh giá các sinh
viên độ tuổi 16-19;
Thiết kế các dự án giáo dục có
liên quan tới đánh giá năng lực số và/hoặc đào tạo
để có khả năng được tuyển dụng làm việc của các
sinh viên các trường nghề (C13) và thanh niên nói chung
(C16), cho tất cả các công dân theo quan điểm học tập
suốt đời (C14), và để phát triển các hồ sơ số cho
các nghề mới trong các hoạt động văn hóa (C6).
Phát triển phương pháp luận đánh
giá dựa vào nhiệm vụ xác thực để hỗ trợ cho các
giảng viên trong các trường trung học cơ sở/phổ thông
trong đánh giá năng lực số của các học sinh. Trong số
các kinh nghiệm có trong Hướng dẫn này, có đối tác dự
án vài trường học châu Âu, một viện nghiên cứu, và
hiệp hội các Bộ trưởng Giáo dục (C11).
3 Bên thứ 3 và doanh
nghiệp
Các
quỹ, hiệp hội và các tổ chức không vì lợi nhuận
khác thúc đẩy và tạo thuận lợi giành được năng lực
số trong dân cư. Trong chuyển đổi số, hầu hết các
công ty đối mặt với thách thức chiến lược nâng cấp
nhanh cả các kỹ năng CNTT-TT đặc thù và các năng lực
số xuyên suốt của lực lượng lao động của họ.
T15. Các bên tham gia đóng góp - Bên thứ 3
và doanh nghiệp / các hạng mục liên quan
Các tác nhân bên thứ ba phát triển các
sáng kiến năng lực số cho những người sử dụng đích
khác nhau, đặc biệt cho thanh niên thất nghiệp và thanh
niên nói chung, để cải thiện khả năng được tuyển
dụng làm việc của họ.
Các cái đích khác bao gồm trẻ em theo
quan điểm giáo dục (không chính quy).
Họ cũng nhằm vào người
lớn tuổi, người thất nghiệp và những người lớn
khác theo quan điểm học tập suốt
đời và hòa nhập. Họ vì
thế hoạt động trong tất cả 3 lĩnh vực phát triển
năng lực số.
Các tác nhân của bên
thứ 3 đã sử dụng DigComp
để:
Họ sử dụng
DigComp để xác định, đánh giá và phát triển năng lực
số của các huấn luyện viên và các nhà giáo dục trong
các nhân viên của họ (C20), và những người chuyên
nghiệp khác như các nhân viên xã hội làm việc chủ yếu
với thanh niên bên ngoài ngữ cảnh trường phổ thông
(C24) và các công nhân trẻ. Các huấn luyện viên và các
nhà giáo dục của doanh nghiệp cũng đã được giúp để
cải thiện năng lực số của riêng họ và lan truyền các
hành động năng lực số và hỗ trợ số trong các SME
(C29);
Họ sử dụng
DigComp để xác định, đánh giá và chào các cơ hội học
tập năng lực số vì khả năng được tuyển dụng làm
việc (C10, C20), bao gồm cả tự khởi nghiệp và ‘văn
phòng làm việc ảo’ (C19), và giữa các SME;
Họ sử dụng
DigComp để đánh giá năng lực số của các công dân theo
quan điểm đánh tín hiệu cho các cơ hội học tập (T14,
T16, T18) và để thúc đẩy chứng nhận năng lực số (C7,
C22).
Các công ty dịch vụ doanh nghiệp tư nhân
đã bắt đầu sử dụng DigComp để cung cấp các dịch vụ
phát triển năng lực số cả cho các công ty tư nhân và
các khách hàng nhà nước, từ các bộ, tới các trường
phổ thông địa phương. Có 3 ví dụ trong Hướng dẫn này
do một doanh nghiệp kinh tế xã hội quản lý, một nhà
cung cấp dịch vụ đào tạo và là một công ty tư vấn
doanh nghiệp.
Các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo và
kinh doanh đã sử dụng DigComp để:
Thiết kế và phân phối các dịch vụ
đánh giá và đào tạo năng lực số cho các nhân viên
(C27), cho các trường phổ thông và cho các học sinh của
họ (C17) và các thực thể khác có quan tâm.
Đánh giá năng lực số trong các công
ty tư nhân khác theo quan điểm thúc đẩy và hỗ trợ cho
các sáng kiến chuyển đổi số (C18).
Thừa nhận:
Dịch và trích dẫn từ:
Kluzer S., Pujol Priego L. (2018). DigComp trong Hành động - Lấy
cảm hứng, biến nó thành hiện thực (DigComp
into Action: GET INSPIRED MAKE IT HAPPEN). S. Carretero, Y.
Punie, R. Vuorikari, M. Cabrera, và O’Keefe, W. (Eds.). Báo cáo
Khoa học cho Chính sách của JRC, EUR 29115 EN, Văn phòng Xuất
bản của Liên minh châu Âu, Luxembourg, 2018. ISBN
978-92-79-79901-3, doi:10.2760/112945.
Tham chiếu: Khung Năng lực Số cho
các Công dân (DigComp).
Xem thêm: Chuyển
đổi số/Năng lực số