(Bài viết cho Hội thảo:‘Nâng cao hiệu quả hoạt động thư viện trong giai đoạn hiện nay’ do trường Đại học Đồng Tháp tổ chức ngày 18/04/2022. Bài đăng trong Kỷ yếu Hội thảo các trang 48-61)
----------------------------------------------
Tóm
tắt: Để trả lời cho câu hỏi ‘Làm gì để nâng
cao hiệu quả hoạt động thư viện trong giai đoạn hiện
nay’, bài viết này nêu bối cảnh các xu thế không thể
đảo ngược của thế giới ngày nay về Tài nguyên Giáo
dục Mở (TNGDM) và Khoa học Mở (KHM) và tương lai của
giáo dục thời kỳ hậu COVID-19,
cùng với nhiệm vụ triển khai các nội dung của Chương
trình Chuyển đổi số của Chính phủ Việt Nam. Qua đó
khẳng định việc các thư viện triển khai các nội dung
Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019 vào thực tế cuộc
sống chính là một trong những cách thiết thực để nâng
cao hiệu quả hoạt động của thư viện trong giai đoạn
hiện nay.
A.
Đặt vấn đề
Để
các hoạt động của thư viện có hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay, thiết nghĩ, một mặt, các hoạt động
đó cần phải góp phần thúc đẩy sự phát triển của
Việt Nam hướng tới việc hoàn thành các mục tiêu phát
triển bền vững (SDG) đến năm 2030 đã được Liên hiệp
quốc thiết lập năm 2015, trong đó có SDG 4 về “Đảm
bảo chất lượng giáo dục hòa nhập và bình đẳng và
thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi
người”. Mặt khác, các hoạt động đó cũng cần phải
góp phần tạo ra nguồn nhân lực được giáo dục và đào
tạo đủ các năng lực và các kỹ năng cần thiết để
hướng tới việc hoàn thành các mục tiêu mà Chương
trình Chuyển đổi số quốc gia đặt ra, đặc biệt trong
bối cảnh hậu COVID-19.
Triển khai các nội dung Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm
2019 trong các hoạt động của thư viện có thể giúp đạt
được các mục tiêu đó.
B.
Bối cảnh thế giới
Việt
Nam là một quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc và
vì vậy, tương tự như các quốc gia thành viên khác, nó
có trách nhiệm thúc đẩy việc hoàn thành các mục tiêu
phát triển bền vững – SDG (Sustainable Development Goals)
đến năm 2030 của Liên hiệp quốc.
Ngày
25/11/2019, 193 quốc gia thành viên của UNESCO, mà Việt Nam
cũng là một quốc gia thành viên của nó, đã thông qua
Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở của UNESCO, khẳng
định TNGDM là một xu thế không thể đảo ngược của
thế giới ngày nay[1].
Định nghĩa TNGDM được 193 quốc gia thành viên của
UNESCO đồng thuận thông qua bằng 2 đoạn như sau:
Tài
nguyên Giáo dục Mở là các tư liệu dạy, học và nghiên
cứu ở bất kỳ định dạng và phương tiện nào mà nằm
trong phạm vi công cộng hoặc có bản quyền đã được
phát hành theo một giấy phép mở, cho phép những người
khác không mất chi phí để truy cập, sử dụng lại, tái
mục đích, tùy chỉnh và phân phối lại.
Giấy
phép mở tham chiếu tới giấy phép tôn trọng các quyền
sở hữu trí tuệ của người nắm giữ bản quyền và
đưa ra sự cho phép trao cho công chúng các quyền để
truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh và
phân phối lại các tư liệu giáo dục.
Để
đi tới được sự đồng thuận này của thế giới,
phong trào TNGDM đã trải qua một quãng đường dài gần
20 năm, ít nhất là kể từ năm 2002, khi lần đầu tiên
UNESCO đưa ra khái niệm TNGDM tại Diễn đàn TNGDM toàn cầu
lần thứ nhất[2]. Một trong những căn cứ để thông qua
tài liệu Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019 là việc
tài liệu đó khẳng định TNGDM sẽ giúp cho các quốc gia
đạt được vài trong số 17 SDG của Liên hiệp quốc đến
năm 2030, bao gồm SDG 4 về giáo dục chất lượng:
“Lồng
ghép TNGDM vào để giúp cho tất cả các quốc gia thành
viên tạo ra các xã hội tri thức bao hàm toàn diện và
đạt được Chương trình nghị sự Phát triển Bền vững
2030, đó là SDG 4 (Giáo dục chất lượng), SDG 5 (Bình đẳng
giới), SDG 9 (Công nghiệp, đổi mới sáng tạo và hạ
tầng), SDG 10 (Giảm bất bình đẳng bên trong và xuyên
khắp các quốc gia), SDG 16 (Hòa bình, các thể chế công
bằng và mạnh mẽ) và SDG 17 (Quan hệ đối tác vì các
mục tiêu)”
Một
sự kiện khác diễn ra gần đây hơn, Hội
nghị Giáo dục Mở toàn cầu[3]
năm 2021 trên trực tuyến đã diễn ra trong 5 ngày từ
27/09/2021 tới 01/10/2021, với
mỗi ngày tập trung vào 1 trong 5 lĩnh vực hành động được
nêu trong
Khuyến
nghị TNGDM
của
UNESCO năm
2019:
(1)
xây dựng năng lực TNGDM; (2) phát
triển chính sách hỗ trợ cho TNGDM;
(3)
khuyến
khích TNGDM
chất
lượng hòa nhập toàn diện và công bằng; (4)
nuôi
dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM;
và
(5) thúc
đẩy và tăng cường hợp tác quốc tế về TNGDM;
với nhiều
webinar và nhiều bài trình bày tham luận tới từ khắp
nơi trên thế giới, để chuẩn bị cho Hội nghị Giáo
dục Mở toàn cầu bằng hình thức trực tiếp dự kiến
sẽ diễn ra trong các ngày 23-25/05/2022 tại Nantes, nước
Pháp, nơi sẽ là một diễn đàn lớn cho cộng đồng giáo
dục mở toàn cầu để trực tiếp tham gia cộng tác quốc
tế để tiếp tục tiến hành triển khai Khuyến
nghị
TNGDM của UNESCO năm
2019.
Điều này
khẳng
định thêm
tính liên
tục của xu thế không thể đảo ngược này của thế
giới về ứng dụng và phát
triển TNGDM.
Một
sự kiện quan trọng khác, đó là sau
gần 2 năm tham vấn toàn cầu[4]
liên tục với các quốc
gia thành viên của
UNESCO theo vùng địa lý và theo chủ đề có liên quan tới
Khoa học Mở,
ngày
23/11/2021, 193 quốc
gia thành viên UNESCO đã nhất
trí thông qua[5]
Khuyến
nghị Khoa học Mở của
UNESCO[6],
khẳng
định Khoa
học Mở cũng
là
xu thế không thể đảo ngược của thế giới ngày nay,
với
TNGDM
là 1
trong 5
thành phần không thể thiếu của kiến thức Khoa học Mở,
và khuyến
nghị các
quốc gia tiếp
tục ứng dụng và phát triển TNGDM để giành
được nhiều lợi ích tiềm
tàng
từ việc
đó:
“Thúc
đẩy sử dụng TNGDM
như
được định nghĩa trong Khuyến
nghị Tài
nguyên Giáo dục Mở của
UNESCO năm 2019, như là công cụ cho việc xây
dựng khả
năng của khoa học mở. Tài
nguyên Giáo dục Mở vì
thế nên được sử dụng để gia tăng sự truy cập tới
các tài nguyên nghiên cứu và giáo dục khoa học mở,
cải
thiện các kết quả đầu ra học tập, tối đa hóa tác
động của việc cấp vốn nhà nước và trao quyền cho
các nhà
giáo dục và
những người học để trở thành các nhà đồng sáng tạo
kiến thức.”
Hình
1. TNGDM
là 1
trong 5
thành phần cơ bản của Kiến thức Khoa học Mở
Tóm
tắt: Nói một cách khác, việc đặt các hoạt động
của thư viện vào bối cảnh của cả 2 xu thế không thể
đảo ngược của thế giới ngày nay, TNGDM và Khoa học
Mở, và điều chỉnh các hoạt động đó cho phù hợp với
nội dung của 2 tài liệu khuyến nghị đó, là tiếp cận
hợp lý trong giai đoạn hiện nay, nó sẽ giúp cho ngành
giáo dục nói riêng, Việt Nam nói chung có thể đạt được
các SDG, bao gồm SDG 4 (Giáo dục chất lượng) và nhiều
lợi ích tiềm tàng khác.
Sự
xuất hiện của đại dịch COVID-19
vào đầu năm 2020 đã làm thay đổi nhiều điều
trong đời sống kinh tế và xã hội của toàn thế giới,
trong đó có Việt Nam, và giáo dục là một trong các lĩnh
vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất cho tới tận bây giờ
và có thể còn tiếp tục trong những năm tới. Đại dịch
cũng làm bộc lộ ra những điểm yếu và dễ bị tổn
thương trong các xã hội, đặc biệt là với các hệ
thống chăm sóc sức khỏe và giáo dục, làm trầm trọng
thêm các bất bình đẳng giữa các nhóm người khác nhau
trong xã hội, ví dụ như, trong việc tiếp cận tới
Internet và các thiết bị và/hoặc công nghệ thông tin và
truyền thông, cũng như các tài nguyên giáo dục, nhất là
các tài nguyên giáo dục ở dạng kỹ thuật số, cản trở
lớn hoặc có thể làm thất bại kỳ vọng ‘không để
ai bị bỏ lại phía sau’ của Liên hiệp quốc khi đặt
ra các SDG vào năm 2015. Và một lần nữa, TNGDM (nhất là
ở dạng kỹ thuật số), và kiến thức Khoa học Mở cùng
với tiếp cận hướng tới học tập suốt đời như là
định hướng tương lai của giáo dục đến năm 2050, có
thể giúp giảm nhẹ các bất bình đẳng đó:
Tài
liệu ‘Giáo dục trong thế giới hậu COVID: Chín ý
tưởng cho hành động công’ do Ủy ban Quốc tế về
Tương lai của Giáo dục, một đơn vị trực thuộc
UNESCO, xuất bản năm 2020, đã gợi ý cho thế giới 9 ý
tưởng cho hành động công, một trong số đó được nêu
như sau[7]:
“Làm
cho các công nghệ tự do
không mất tiền và nguồn mở sẵn sàng cho các giảng
viên và học sinh. Các
TNGDM và
các công cụ số truy cập mở phải được hỗ trợ.
Giáo dục không thể thịnh vượng với nội
dung được làm sẵn rồi
được xây dựng bên
ngoài không gian sư phạm và bên ngoài các mối quan hệ
của con người giữa các giảng viên và học sinh.
Giáo dục không thể phụ
thuộc vào các nền tảng kỹ thuật số do các công ty tư
nhân kiểm soát. ”
Tài
liệu ‘Ôm lấy văn hóa học tập suốt đời - Đóng
góp cho sáng kiến Tương lai của Giáo dục’ do Viện
Học tập Suốt đời của UNESCO xuất bản năm 2020 nhấn
mạnh rằng học tập suốt đời cần phải là một quyền
cơ bản của con người, và đưa ra 10 thông điệp chính
hướng tới điều đó, một trong số đó là:
“Làm
cho việc học tập suốt đời trở thành hàng hóa công
cộng. Quan
điểm này bắt nguồn từ ý tưởng các hàng hóa chung
(Common
Goods), được định nghĩa như là các hàng hóa làm lợi
cho xã hội như một tổng thể và là nền tảng cho cuộc
sống của mọi người. Xây dựng những
điều
chung của giáo dục
(Education
Commons) -
tính sẵn sàng tự do không mất tiền của các tài nguyên
dạy và học - các bài học học được từ kinh nghiệm
của các sáng kiến của chính phủ và xã hội dân sự
xung quanh khái
niệm những điều chung (như truy cập mở, nguồn mở,
TNGDM,
và các nền tảng tập thể trên trực tuyến)
cần được áp dụng cho các sáng kiến học tập suốt
đời.”
Việc
tóm tắt vừa
nêu ở
trên cũng phù hợp với định hướng
tương
lai giáo dục đến 2050 với học
tập suốt đời trở
thành một quyền cơ bản mới của con người;
và
cũng phù
hợp để giúp
khắc phục hậu quả cũng
như sự
bất bình đẳng do đại
dịch COVID-19
và
các thảm họa tương tự có thể xảy ra trong tương lai,
khi
mà TNGDM
sẽ trở thành hàng hóa chung hay những điều chung của
giáo dục
nhằm giúp lấp đi các bất bình đẳng đó, và tạo cơ
hội cho bất kỳ ai cũng có khả năng học tập suốt đời
và làm
thỏa mãn
quyền được giáo dục của mình.
C.
Bối cảnh trong nước
Ngày
03/06/2020, Thủ
tướng chính phủ đã ban hành Quyết
định số 749/QĐ-TTg: Phê duyệt "Chương trình Chuyển
đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030" với
mục tiêu cơ bản xây
dựng chính phủ số,
nền kinh tế số và xã hội số. Tiếp
theo Quyết định này, chính phủ đã ban hành một
số
quyết định khác có liên quan tới ngành thư viện nói
chung, thư viện đại học nói riêng, như:
Ngày
24/08/2020, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1296/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình "Nghiên cứu,
xây dựng cơ sở dữ liệu và công bố tác phẩm văn học
nghệ thuật Việt Nam trên nền tảng cách mạng công
nghiệp lần thứ tư";
Ngày
11/02/2021, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 206/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số
ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm
2030”.
Lý
tưởng là thông qua việc xây dựng các khung năng lực số
cùng với việc giáo dục và đào tạo chúng để mọi
công dân, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức và cá nhân
thuộc mọi thành phần trong xã hội đều có đủ các
năng lực số cần thiết để thực hành thành công việc
xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số,
điều chúng ta có thể học hỏi được từ kinh nghiệm
của các quốc gia đi trước, ví dụ như các quốc gia
thuộc Liên minh châu Âu[8], khi họ, liên tục từ 2005 cho
tới nay, đã có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu, phát triển
và triển khai vào thực tế một loạt các khung năng lực
số cho nhiều thành phần trong xã hội, như các khung năng
lực số cho công dân, tổ chức giáo dục, nhà giáo dục,
khởi nghiệp, người tiêu dùng, bên cạnh các khung năng
lực số khác cho trẻ em hay cho việc học tập suốt đời.
Một
lưu ý quan trọng là, tính
mở luôn
được tích hợp vào trong tất
cả các
khung năng
lực số được nêu
ở trên[9],
tối
thiểu là dưới
dạng các năng
lực và/hoặc
kỹ
năng TNGDM
và cấp phép mở (thường với các giấy phép Creative
Commons)
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, bên
cạnh những điều mở khác có
thể có.
Bổ
sung thêm cho điều này, trong tài liệu ‘Khung
năng lực CNTT-TT của UNESCO cho các giảng viên,
phiên
bản 3’
được UNESCO xuất bản năm 2018[10]
đã cho
thấy
TNGDM xếp hạng 1 trong số 9 hạng mục về công
nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT-TT)
mà bất kỳ giảng viên nào ngày nay cũng cần phải có để
có thể biến các giảng viên thành các nhà đổi mới
sáng tạo[11],
bên
cạnh năng
lực về
các công nghệ quan trọng khác như: mạng xã hội, các
công nghệ di động, Internet của Vạn vật - IoT (Internet
of Things), Trí tuệ nhân tạo - AI (Artificial Intelligence),
Thực tế ảo – VR (Virtual Reality) và Thực tế tăng cường
- AR (Augmented Reality), dữ liệu lớn, lập
trình, và
đạo đức và bảo vệ tính riêng tư.
Điều
này cho thấy, để chuyển
đổi số thành
công, bên cạnh những điều khác, năng lực
và/hoặc các kỹ
năng về
TNGDM và cấp phép mở là không thể thiếu đối với bất
kỳ các tổ chức hay cá nhân nào, đặc biệt
đối với các nhà
giáo dục/các
giảng viên.
Hình
2.
Tích
hợp TNGDM
trong
Khung năng lực số cho các tổ chức giáo dục[12]
Hiện
trạng ứng dụng và phát triển TNGDM ở Việt Nam cho tới
nay đã được nêu khá chi tiết trong bài viết vào cuối
tháng 11/2021 ‘Thực trạng tài nguyên giáo dục mở ở
Việt Nam và gợi ý giải pháp cho học tập suốt đời’[13],
khi nó cho thấy mức độ ứng dụng và phát triển TNGDM ở
Việt Nam hiện nay là rất sơ khai khi so với 5 lĩnh
vực hành động được nêu trong Khuyến nghị TNGDM của
UNESCO năm 2019 dù vẫn có những tiến bộ nhất định. Bổ
sung thêm vào hiện trạng đó của bài viết đó, dưới
đây chỉ nêu lên vài ý chính và bổ sung thêm vài sự
kiện mới nhất diễn ra rất gần đây, ví dụ:
Hầu
hết tất cả các tài nguyên giáo dục của Việt Nam có
sẵn trên trực tuyến ở thời điểm hiện tại đều
không phải là TNGDM[14] khi đối chiếu với định nghĩa
TNGDM được nêu trong tài liệu Khuyến nghị TNGDM của
UNESCO năm 2019 (như được nêu ở phần đầu bài viết
này), ngoại trừ một số lượng vô cùng nhỏ tuân thủ
với định nghĩa đó. Rất ít hoặc chưa có hoạt động
gì được triển khai theo 5 lĩnh vực hành động như được
nêu trong Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019. Điều
tích cực là hiện một số Đề án có liên quan tới ứng
dụng và phát triển TNGDM đang ở trong giai đoạn hoàn
chỉnh để trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt, dự
kiến trong năm 2022 này.
Từ
cuối năm 2017 cho tới hết năm 2021, Hiệp hội các trường
đại học cao đẳng Việt Nam đã tổ chức gần 60 khóa
thực hành khai thác TNGDM cho hơn 1.200 học viên là các
cán bộ, giảng viên của một số trường đại học,
cao đẳng khắp cả nước, một con số rất khiêm tốn
nếu so với số lượng toàn bộ các giảng viên trong
ngành giáo dục ở Việt Nam cần phải có các năng lực
và kỹ năng về TNGDM là khoảng 1,5 triệu người, chưa
nói gì tới các bên liên quan chính khác với TNGDM. Tháng
2/2022, đã có thêm một khóa như vậy được tiến hành
do Hội Điều dưỡng Việt Nam lần đầu tiên tổ chức
cho một số cán bộ và giảng viên của các cơ sở thành
viên của Hội[15].
Gần
đây nhất, Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia
Hà Nội đã ban hành quyết định số 558/QĐ-ĐHNN ngày
02/03/2022 về việc thành lập cộng đồng chuyên môn phát
triển học liệu mở hỗ trợ học sinh lớp 12 trên
toàn quốc[16], một dấu hiệu tích cực nữa cho ứng
dụng và phát triển TNGDM ở Việt Nam.
Ngày
1/10/2021,
Trung tâm Tri thức Số
- Digital Knowledge Hub đã làm lễ ra mắt trực tuyến[17].
Đây là lần đầu tiên có một hệ thống giúp các thư
viện số của các trường đại học ở Việt Nam kết
nối và chia sẻ dữ liệu. Ở thời
điểm ra mắt Trung tâm, đã có 6 đơn vị thành viên của
Liên
chi hội các Thư viện Đại học khu vực phía Bắc (NALA)
đã kết
nối với nhau. Được
biết,
vào thời điểm bài báo này được viết, đã có thêm 5
thư viện đại học tham gia kết nối với Trung tâm, nâng
tổng số đơn vị tham gia kết nối lên con số 11. Đây
là con số rất khiêm tốn, nếu đem ra so sánh với con số
hàng
chục ngàn
nhà cung cấp nội dung, nhiều
trong số họ là các thư viện số tại các trường đại
học và các viện nghiên cứu khắp châu Âu, kết nối
với nhau trong nền
tảng truy cập mở OpenAIRE[18]
của châu Âu. Sẽ
còn
rất nhiều công việc phải làm để biến Trung tâm Tri
thức Số này thành một nền tảng truy cập mở như
OpenAIRE, hay
một nền tảng kỹ
thuật số theo
tiếp cận OpenGLAM (GLAM
và chữ cái đầu trong tiếng Anh của: Phòng trưng bày –
Galleries; Thư viện – Libraries; Kho lưu trữ – Archives;
Viện bảo tàng – Museums)
của Europeana, một hệ thống đã tập hợp được hơn
57 triệu đối tượng số từ các bộ sưu tập trên trực
tuyến của hơn 3.500 phòng trưng bày, thư viện, viện bảo
tàng, các bộ sưu tập nghe nhìn và các kho lưu trữ từ
hầu
hết
các quốc gia Châu Âu[19],
đa phần trong số đó được cấp phép mở bằng các
giấy phép Creative
Commons.
Tóm
tắt:
Việc
xây
dựng các
khung năng
lực số là
rất
cần thiết và
sau đó đưa chúng vào giáo dục và đào tạo cho
các tổ chức và cá nhân liên quan để
đánh giá tổ chức và cá nhân nào thực sự có năng
lực số cũng
như giúp họ giành được và không ngừng nâng cao các
năng lực số/kỹ năng số để có khả năng hoàn thành
các mục tiêu của Chương trình Chuyển đổi số quốc
gia, ấy là xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số và
xã hội số. Việc các năng lực và
kỹ
năng TNGDM
và cấp phép mở luôn
được tích hợp vào trong tất cả các khung năng lực số
khẳng định tầm
quan trọng không thể thiếu của
TNGDM nhằm
giúp cho các tổ chức và cá nhân có liên quan hoàn thành
được các mục tiêu đó.
D.
Kinh nghiệm từ các hoạt động hiện nay trong các
thư viện đại học và mạng các thủ thư giáo dục mở
châu Âu
Tháng
11/2021, Liên
minh Xuất bản Học thuật và Tài nguyên Hàn lâm châu Âu
(SPARC Europe) đã xuất
bản tài liệu ‘Báo
cáo: Giáo dục Mở trong các thư viện giáo dục đại học
của châu Âu’[20].
Bám
sát 5 lĩnh vực hành động được nêu trong tài liệu
Khuyến
nghị TNGDM
của UNESCO năm 2019,
báo
cáo trình bày các kết quả
khảo sát hàng loạt các thư viện ở các quốc
gia thành viên của
Liên
minh châu Âu,
sau
đó đã
đưa các
khuyến
nghị như
được liệt
kê bên dưới đây
cho các thư viện hàn
lâm với
lưu ý là sự
thích hợp của các
khuyến
nghị đó
phụ thuộc vào bối
cảnh thực tế của thư viện và cơ sở giáo dục của
bạn:
Nâng
cao nhận thức về Giáo
dục Mở và Khuyến
nghị Tài nguyên Giáo dục Mở
của UNESCO trong các thư viện hàn
lâm và các cơ sở của
chúng.
Giúp
thay đổi nhẹ nhàng tư duy của cơ sở về Giáo dục Mở
bằng việc khai phá, chia sẻ, áp dụng và tùy chỉnh các
thực hành Giáo dục Mở để thể hiện giá trị của
mở, và thay đổi văn hóa xung quanh mở.
Giúp
khởi xướng và phát triển các chính sách Giáo dục Mở
đứng một mình hoặc tổng thể dựa vào các ví dụ
chính sách tốt và kinh nghiệm làm chính sách thực tế
từ các bạn đồng nghiệp.
Cung
cấp các hướng dẫn và đào
tạo về các kỹ
năng mở, sử dụng
lại, tùy chỉnh, pha trộn, tạo lập TNGDM
và thiết kế chỉ
dẫn để phát triển
các thực hành Giáo
dục Mở cho các cán
bộ thư viện sao cho họ có thể cộng tác hiệu quả hơn
với các nhân viên giảng dạy.
Tham
gia trong việc sử dụng lại,
áp dụng, tùy
chỉnh, pha trộn và đồng tạo lập TNGDM
cùng
với các giảng viên như các sách giáo khoa mở, các sách
hướng dẫn, các video,
.v.v.
Tạo
lập các chương
trình phát triển
nghề nghiệp về
Giáo dục Mở cho
các nhân viên thư viện,
bao gồm các module
về sự đa dạng, công bằng và hòa nhập – DEI
(Diversity, Equity,
Inclusion) để giúp
họ đề cập DEI trong TNGDM
và các dịch vụ
thư viện.
Tạo
lập các cộng đồng thực hành của các nhà thực hành
khác nhau (các thư viện, các đơn vị hỗ trợ giảng
dạy, các hiệp hội sinh viên và các dịch vụ CNTT-TT) để
phát triển các giải pháp Giáo dục Mở làm việc cho
nhiều bên liên quan và cho các quan hệ đối tác dài lâu.
Khai
phá các mô hình bền vững để sử dụng lại,
tùy
chỉnh và tạo lập TNGDM
từ
việc thiết lập chương
trình trợ
cấp tới việc cộng tác với các cộng đồng và các
hiệp hội thành viên.
Làm
việc trong xây dựng và cấp vốn cho một hệ sinh thái
Giáo dục Mở kỹ thuật tương hợp được hơn giữa các
kho của cơ sở và các nền tảng giáo dục khác vì tính
bền vững dài hạn.
Khuyến
khích các thủ thư tham gia vào các mạng và các dự án
Giáo dục Mở quốc tế để giành được kiến thức mới
và làm việc cùng nhau về các mục tiêu chung. Cộng tác
về Giáo dục Mở sẽ đạt được nhiều hơn.
Tương
tự, bám sát 5 lĩnh vực hành động được nêu trong
Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019, Liên minh Xuất bản
Học thuật và Tài nguyên Hàn lâm châu Âu (SPARC Europe) và
Mạng các Thủ thư Giáo dục Mở châu Âu (ENOEL) đã xuất
bản trong năm 2021 tài liệu‘Các thủ thư trong Hành
động về Giáo dục Mở: Triển khai Khuyến nghị Tài
nguyên Giáo dục Mở của UNESCO’[21] khuyến nghị các
thủ thư triển khai kế hoạch chiến lược trong các
năm 2021-2023 với các hành động cụ thể:
Lĩnh
vực 1 – xây dựng năng lực:
Nâng
cao nhận thức về những lợi ích của Giáo dục Mở
(với nền tảng cơ bản của nó là TNGDM), và Cấp phép
Mở để gia tăng sử dụng lại, sao cho truy cập tới
giáo dục công bằng xã hội thành hiện thực.
Liên
hệ với các thư viện và các tổ chức Giáo dục Mở
khác để hình thành các quan hệ đối tác nhằm xây dựng
năng lực ở châu Âu, và xây dựng dựa vào các bài học
học được về Khoa học Mở.
Giám
sát sự tiến bộ về Giáo dục Mở bằng việc tiến
hành khảo sát bức tranh thường niên chào hỗ trợ Giáo
dục Mở trong các thư viện giáo dục đại học.
Hỗ
trợ các thủ thư trong các hoạt động ngang hàng về
nâng cao kỹ năng Giáo dục Mở để cải thiện phát
triển tài năng trong cộng đồng ENOEL để duy trì và cải
thiện Giáo dục Mở qua việc xây dựng quan hệ đối
tác, trao đổi kiến thức và hướng dẫn.
Tham
gia tích cực với những người học như là các bên liên
quan chính để xây dựng các cách thức học tập của
riêng họ.
Lĩnh
vực 2 - Phát triển chính sách hỗ trợ cho TNGDM:
Khuyến
khích phát triển chính sách Giáo dục Mở và TNGDM ở mức
quốc tế, châu Âu dựa vào bằng chứng giành được từ
khảo sát thường niên về Giáo dục Mở.
Thiết
kế các hướng dẫn chính sách và các chiến lược triển
khai hiệu quả ở các mức địa phương, quốc gia, quốc
tế để hỗ trợ cho các nỗ lực của cơ sở.
Lĩnh
vực 3 - khuyến khích TNGDM chất lượng hòa nhập toàn
diện và công bằng:
Hỗ
trợ cho sự tiến hóa các định nghĩa “chất lượng”
sao cho các tài nguyên học tập là truy cập được, tùy
chỉnh được và kham được và các tiếp cận có thể
dễ dàng kết nối được tới, thích nghi được và truy
cập được, cả với nhiều ngôn ngữ.
Khai
phá với các bên liên quan khác cách để làm cho TNGDM hòa
nhập toàn diện và công bằng hơn.
Lĩnh
vực 4 - Nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững
cho TNGDM:
Nâng
cao nhận thức về nhu cầu đảm bảo hạ tầng Giáo dục
Mở, và hành động để tìm cách đảm bảo cho nó, như
thông qua các nền tảng đặt chỗ cộng tác, bền vững,
các dịch vụ siêu dữ liệu và các định dạng phân
phối.
Lĩnh
vực 5 - Thúc đẩy và tăng cường hợp tác quốc tế về
TNGDM:
E.
Kết luận và vài gợi ý một số việc thư viện nên làm
để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình
trong giai đoạn hiện nay
Từ
quan điểm chung là giáo dục nước nhà nên có chiến lược
phát triển phù hợp với các xu thế không thể đảo
ngược của thế giới và Khoa học Mở và TNGDM, cũng như
phù hợp với nhiệm vụ triển khai Chương trình chuyển
đổi số quốc gia của chính phủ đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030, bao gồm cả Chương trình chuyển
đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030, nhất là trong bối cảnh trong và sau đại dịch
COVID-19, gợi ý rằng
các hoạt động của thư viện nói chung, thư viện đại
học nói riêng, cũng nên được đặt trong bối cảnh
chung đó. Biết rằng, TNGDM là một trong năm thành phần
cơ bản của Kiến thức Khoa học Mở như được rõ ràng
chỉ ra trong tài liệu Khuyến nghị Khoa học Mở của
UNESCO năm 2021, gợi ý các hoạt động của thư viện
trước mắt nên tập trung vào việc triển khai vào thực
tế cuộc sống theo 5 lĩnh vực hành động cùng với những
gợi ý chi tiết của chúng trong Khuyến nghị TNGDM của
UNESCO năm 2019 và tùy chỉnh chúng cho phù hợp với bối
cảnh cụ thể của ngành thư viện nói chung, của từng
thư viện và cơ sở giáo dục của nó nói riêng.
TNGDM
bản thân nó là xu thế không thể đảo ngược của thế
giới ngày nay, thường được tích hợp trong các khung
năng lực số, ví dụ như của Liên minh châu Âu hay trong
‘Khung năng lực CNTT-TT của UNESCO cho các giảng viên,
phiên bản 3’ được UNESCO xuất bản năm 2018,
gợi ý rằng TNGDM là một trong những năng lực và kỹ
năng số cần thiết và không thể thiếu cho các thư viện,
các cán bộ thư viện và các thủ thư, bên cạnh các năng
lực và các kỹ năng khác. Các năng lực và kỹ năng về
TNGDM, vì thế, chắc chắn góp phần thiết thực để nâng
cao hiệu quả hoạt động thư viện trong giai đoạn hiện
nay, phù hợp với nhiệm vụ triển khai Chương trình
chuyển đổi số quốc gia nói chung và ngành thư viện nói
riêng.
Đã
có những gợi ý sâu sát hơn, cụ thể hơn bằng chiến
lược cho các thư viện để triển khai các nội dung của
Khuyến nghị TNGDM của UNESCO năm 2019 vào thực tế cuộc
sống, như của Mạng các Thủ thư Giáo dục Mở châu Âu
(ENOEL) hay của Liên minh Xuất bản Học thuật và Tài
nguyên Hàn lâm châu Âu (SPARC Europe) như được nêu ở
trên. Đây là những gợi ý cụ thể rất tốt để từng
thư viện có thể cân nhắc, tùy chỉnh và/hoặc lựa chọn
các hoạt động cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
mình.
Gợi
ý
các
thư viện đại học tạo
các điều kiện thuận lợi để tham
gia kết nối với Trung tâm Tri thức Số để chia
sẻ các tài nguyên giáo dục giữa các hệ thống thư viện
điện tử của các cơ
sở giáo dục đại học với
nhau. Ở
thời
điểm hiện tại, Trung
tâm Tri thức Số
giải quyết được vấn đề liên thông giữa các thư
viện số dựa vào tiêu chuẩn mở của Giao thức Sáng
kiến Lưu trữ Mở cho việc Thu thập Siêu dữ liệu –
OAI-PMH (Open Archives Initiative Protocol for Metadata Harvesting).
Đây là
cơ sở công nghệ cần thiết để hy vọng các
bước tiếp sau hệ thống sẽ hướng tới việc chia
sẻ các TNGDM và kiến thức Khoa học Mở gắn
với việc
cấp phép mở (như với các giấy phép Creative
Commons)
cho các tài nguyên được các cơ
sở thành
viên tham gia cùng đóng góp.
Cuối
cùng, như một cách thức để nâng cao năng lực TNGDM một
cách cụ thể và thực tế, gợi ý các thư viện tổ chức
và/hoặc tham gia các khóa huấn luyện huấn luyện viên
thực hành khai thác TNGDM hiện đang được Hiệp hội các
trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức để có
được một số kỹ năng và năng lực TNGDM không thể
thiếu như việc cấp phép mở, tìm kiếm, tải về để
sử dụng, tùy chỉnh, pha trộn, tạo lập, phân phối và
phân phối lại TNGDM, cũng như tạo lập các video truy cập
mở sạch bản quyền và các kỹ năng thực hành và/hoặc
các thông tin cần thiết liên quan khác[22].
F.
Các chú giải
[1]
UNESCO, 2019: Recommendation on Open Educational Resources (OER):
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000373755/PDF/373755eng.pdf.multi.page=3.
Bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0
[2]
Lê Trung Nghĩa, 29/12/2015: Tổng quan về tài nguyên giáo
dục mở - OER (Open Educational Resources) và một kịch bản
giả tưởng về tương lai của giáo dục Việt Nam:
http://vnfoss.blogspot.com/2015/12/tong-quan-ve-tai-nguyen-giao-duc-mo-oer_26.html
[3]
OE Global, 2021: OE Global Conference:
https://conference.oeglobal.org/2021/.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/giao-duc/hoi-nghi-giao-duc-mo-toan-cau-2021-503.html
[4]
UNESCO: Towards a UNESCO Recommendationon Open ScienceBuilding a
Global Consensus on Open Science:
https://en.unesco.org/sites/default/files/open_science_brochure_en.pdf.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/yyv5vhd54m2mp0i/open_science_brochure_en_Vi-15082020.pdf?dl=0
[5]
UNESCO, 26/11/2021: UNESCO sets ambitious international standards
for open science:
https://www.unesco.org/en/articles/unesco-sets-ambitious-international-standards-open-science.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/khoa-hoc-mo/unesco-thiet-lap-cac-tieu-chuan-quoc-te-day-tham-vong-cho-khoa-hoc-mo-555.html
[6]
UNESCO, 23/11/2021: UNESCO Recommendation on Open Science:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0
[7]
Ủy ban Quốc tế về Tương lai Giáo dục, UNESCO, 2020:
Education in a post-COVID world: Nine ideas for public action:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000373717/PDF/373717eng.pdf.multi.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/3mko7h0x20g7q3w/373717eng_Vi-08032022.pdf?dl=0
[8]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Các khung năng lực số của Liên
minh châu Âu và vài gợi ý cho Việt Nam để chuyển đổi
số thành công:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cac-khung-nang-luc-so-cua-lien-minh-chau-au-va-vai-goi-y-cho-viet-nam-de-chuyen-doi-so-thanh-cong-534.html
[9]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Tính mở trong các khung năng lực số
của châu Âu và vài gợi ý triển khai chương trình
“Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030”:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/tinh-mo-trong-cac-khung-nang-luc-so-cua-chau-au-va-vai-goi-y-trien-khai-chuong-trinh-chuyen-doi-so-nganh-thu-vien-den-nam-2025-dinh-huong-den-nam-2030-532.html
[10]
UNESCO, 2018: UNESCO ICT Competency Framework for Teachers,
version 3: https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000265721.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0
[11]
Lê Trung Nghĩa, 2019: Xây dựng Khung năng lực CNTT-TT và
năng lực Tài nguyên Giáo dục Mở cho các giảng viên đáp
ứng các yêu cầu của CMCN4 ở Việt Nam:
https://vnfoss.blogspot.com/2019/08/xay-dung-khung-nang-luc-cntt-tt-va-nang.html
[12]
Ảnh được tùy chỉnh từ tài liệu của Panagiotis
Kampylis, Yves Punie, Jim Devine, EC, 2015: Promoting Effective
Digital-Age Learning - A European Framework for Digitally-Competent
Educational Organisations:
https://publications.jrc.ec.europa.eu/repository/bitstream/JRC98209/jrc98209_r_digcomporg_final.pdf.
Bản dịch sang tiếng Việt của Lê Trung Nghĩa:
https://www.dropbox.com/s/6o09lzdmcqomo4q/jrc98209_r_digcomporg_final_Vi-18032021.pdf?dl=0
[13]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Thực trạng tài nguyên giáo dục mở
ở Việt Nam và gợi ý giải pháp cho học tập suốt đời:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/thuc-trang-tai-nguyen-giao-duc-mo-o-viet-nam-va-goi-y-giai-phap-cho-hoc-tap-suot-doi-554.html
[14]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Giải pháp chính sách nào để phát
triển tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học
ở Việt Nam:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/giai-phap-chinh-sach-nao-de-phat-trien-tai-nguyen-giao-duc-mo-trong-giao-duc-dai-hoc-o-viet-nam-562.html
[15]
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở, AVU&C: Tập
huấn trực tuyến ‘Khai thác Tài nguyên Giáo dục Mở’
với Hội Điều dưỡng Việt Nam:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tap-huan/tap-huan-truc-tuyen-khai-thac-tai-nguyen-giao-duc-mo-voi-hoi-dieu-duong-viet-nam-588.html
[16]
https://www.facebook.com/vnu.ulis/posts/4925055520914871
[17]
Tạp chí Khoa học và Phát triển: Thư viện số của
các đại học đã được kết nối:
https://khoahocphattrien.vn/tin-tuc/thu-vien-so-cua-cac-dai-hoc-da-duoc-ket-noi/20211001034434549p1c882.htm
[18]
https://explore.openaire.eu/
[19]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Công nghệ mở trong các cơ sở văn
hóa và giáo dục:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cong-nghe-mo-trong-cac-co-so-van-hoa-va-giao-duc-513.html
[20]
SPARC Europe, November 2021: Report - Open Education in European
Libraries of Higher Education:
https://zenodo.org/record/5734980#.YirDwjwxVsB.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/tx22dcpb0x7s5jw/Open%20Education%20in%20European%20Libraries%20of%20Higher%20Education_2021_Vi-08022022.pdf?dl=0
[21]
SPARC Europe and ENOEL, 2021: Librarians in Action for Open
Education - Implementing the UNESCO OER Recommendation:
https://sparceurope.org/download/9718/.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/rjogzpb166yyo68/ENOEL-Strategic-Plan-2021-2023_Vi-12022022.pdf?dl=0
[22]
Trang Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Nội dung
Chương trình đào tạo huấn luyện huấn luyện viên về
Tài nguyên Giáo dục Mở - OER (Open Educational Resources) hỗ
trợ chuyển đổi số quốc gia:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tap-huan/noi-dung-chuong-trinh-dao-tao-huan-luyen-huan-luyen-vien-ve-tai-nguyen-giao-duc-mo-oer-open-educational-resources-ho-tro-chuyen-doi-so-quoc-gia-387.html
Giấy
phép nội dung: CC
BY 4.0 Quốc tế
Lê
Trung Nghĩa
PS:
Tự do tải về bài trình chiếu tại địa chỉ:
https://www.dropbox.com/s/g4unjigkntu7snn/Implement_OER_Recommend.pdf?dl=0