Thứ Hai, 26 tháng 8, 2019

Xây dựng Khung năng lực CNTT-TT và năng lực Tài nguyên Giáo dục Mở cho các giảng viên đáp ứng các yêu cầu của CMCN4 ở Việt Nam


Building ICT Capacities Framework and OER Capacity for Teachers Meeting IR4 requirements in Vietnam
Bài viết cho hội thảo: “Phát triển Giáo dục nghề nghiệp trong kỷ nguyên số” do Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 24/08/2019 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bài đăng trong kỷ yếu hội thảo, các trang 7-18.

----------------------------------------------------------------------------------------

Tóm tắt: UNESCO xuất bản Khung năng lực CNTT-TT cho các giảng viên phiên bản 3 năm 2018 (ICT CFT v3), nhấn mạnh tiềm năng và các thách thức cách tân CNTT-TT cùng các công nghệ đang nổi lên, bao gồm tài nguyên giáo dục mở, nhằm đáp ứng các yêu cầu giảng dạy trong kỷ nguyên số. Các yêu cầu đó là trùng khớp với các yêu cầu của CMCN4 được nêu lên trong các hội nghị trong thời gian gần đây ở Việt Nam. Vì vậy, việc xây dựng Khung năng lực CNTT-TT dựa vào ICT CFT v3 cho các giảng viên, cũng như ứng dụng và phát triển tài nguyên giáo dục mở, là cấp bách hiện nay đối với khu vực giáo dục Việt Nam, cũng như trong khối các trường đại học sư phạm.
Các từ khóa: Khung năng lực CNTT-TT; ICT CFT v3; giảng viên; tài nguyên giáo dục mở (OER); tiềm năng và các thách thức; công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT- TT); đại học sư phạm.
Summary: UNESCO published ICT competency Framework for teachers version 3 in 2018 (ICT CFT v3) highlighting potential and challenges of ICT innovations with emerging technologies, including Open Educational Resources (OER), in order to meet teaching requirements in a digital age. The requirements are the ones for the 4th Industrial Revolution (IR4) recently raised at many conferences in Vietnam. So building ICT CFT based on ICT CFT v3 for teachers in Vietnam, as well as application and development OER, is imperative for Education sector in Vietnam, especially in the technical education universities.
Keywords: ICT competency Framework; ICT CFT v3; teacher; Open Educational Resources (OER); potential and challenges; information and communication technologies (ICT); technical education universities.






A. Đặt vấn đề
Nhân hội thảo ‘Xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế’ - hội thảo lần thứ 4 của Câu lạc bộ khối Sư phạm Kỹ thuật - Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam, được tổ chức ngày 17/05/2019 tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định, nhiều tham luận của các lãnh đạo các trường[1] đã nêu lên những trăn trở về những thách thức trong việc xây dựng chương trình đào tạo sao cho cung cấp đầy đủ năng lực cho các giảng viên và sinh viên đáp ứng được các yêu cầu nguồn nhân lực trong bối cảnh các công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) đang thay đổi nhanh chóng mặt, với những công nghệ mới đang nổi lên, như được liệt kê trong một số bài trình bày, như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet của vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data)[2], môi trường thực tế ảo và thực tế tăng cường (VR và AR)[3] và những công nghệ quan trọng khác trong kỷ nguyên số, nhằm đáp ứng các yêu cầu do CMCN4 đặt ra.
Bài viết này có ý định gợi ý một cách tiếp cận để giải quyết vấn đề thách thức được nêu ở trên.


B. Mục đích của ‘Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO’
Năm 2018, UNESCO đã xuất bản tài liệu ‘Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO’, phiên bản 3, gọi tắt là ICT CFT v3.
Một cách ngắn gọn, để đáp ứng được các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên hiệp quốc tới năm 2030 và vượt qua được những thách thức đương thời, UNESCO đã phát triển ICT CFT v3 với mục đích để nó như là công cụ hướng dẫn trước và trong khi phục vụ huấn luyện giảng viên sử dụng CNTT-TT khắp hệ thống giáo dục. ICT CFT có ý định được tùy biến thích nghi để hỗ trợ cho các mục tiêu của quốc gia và cơ sở bằng việc cung cấp khung được cập nhật để phát triển chính sách và xây dựng năng lực trong lĩnh vực [CNTT-TT] năng động này”. ICT CFT v3 cũng “là câu trả lời cho các phát triển công nghệ và sư phạm gần đây trong lĩnh vực CNTT-TT và Giáo dục”[4].
Nhận thấy 3 điểm nhấn từ trích đoạn ở trên, gồm:
1. ICT CFT v3 nên được tích hợp vào 3 pha phát triển nghề nghiệp của giảng viên, gồm:
  • Trước khi phục vụ (pre-service) - tập trung vào chuẩn bị ban đầu về sư phạm, tri thức theo vấn đề chủ đề, các kỹ năng quản lý và sử dụng các công cụ dạy học khác nhau, bao gồm các công cụ và tài nguyên số;
  • Trong khi phục vụ (in-service) - bao gồm các cơ hội huấn luyện từ xa và mặt đối mặt, xây dựng dựa vào các chương trình trước khi phục vụ và trực tiếp phù hợp với các nhu cầu dạy học cả bên trong và bên ngoài các lớp học; và
  • Hỗ trợ liên tục kỹ thuật và sư phạm, chính quy và phi chính quy, được CNTT-TT xúc tác, để sử dụng CNTT-TT có tính cách tân của các giảng viên nhằm giải quyết các nhu cầu hàng ngày và tạo thuận lợi cho việc học tập với các yêu cầu cao hơn của sinh viên.[5]”
Điều này cho thấy, ICT CFT v3 nhằm vào việc phát triển nghề nghiệp của các giảng viên trong cả quá trình học tập suốt đời, chứ không là sự kiện một lần rồi hết.
2. Các phát triển công nghệ và sư phạm gần đây trong lĩnh vực CNTT-TT và Giáo dục được nêu ở phần ‘Tiềm năng và các thách thức cách tân CNTT-TT’[6] của tài liệu là như sau:
  • Tài nguyên Giáo dục Mở (OER)
  • Các mạng xã hội
  • Các công nghệ di động
  • Internet của Vạn vật - IoT (Internet of Things)
  • Trí tuệ nhân tạo - AI (Artificial Intelligence)
  • Thực tế ảo – VR (Virtual Reality) và Thực tế tăng cường - AR (Augmented Reality)
  • Dữ liệu lớn
  • Lập trình
  • Đạo đức và bảo vệ tính riêng tư
Có thể nói, nhiều trong số các công nghệ gần đây trong lĩnh vực CNTT-TT được ICT CFT v3 nêu trong phần 3 tài liệu như được liệt kê ở trên là đặc biệt trùng khớp với những gì các tham luận của các lãnh đạo các trường đang trăn trở, và tài nguyên giáo dục mở - OER (Open Educational Resources) nằm ở vị trí số 1 của danh sách đó.


3. ICT CFT v3 có thể được tùy biến thích nghi để hỗ trợ cho các mục tiêu của quốc gia và cơ sở bằng việc cung cấp khung được cập nhật để phát triển chính sách và xây dựng năng lực trong lĩnh vực [CNTT-TT] năng động này.
Điều này là rất quan trọng cho cả Việt Nam như một quốc gia, cho từng tổ chức và/hoặc cơ sở giáo dục để có thể xây dựng ICT CFT cho mình phù hợp với các mục đích và cấu trúc thành phần của ICT CFT v3 của UNESCO, và quan trọng nhất, để các giảng viên, và vì thế các sinh viên của họ, có đủ các năng lực đáp ứng các nhu cầu của CMCN4.
Trước khi đi vào mục 3 quan trọng này, dưới đây sẽ giới thiệu qua về các thành phần của ICT CFT v3.


C. Các thành phần của ICT CFT v3
ICT CFT v3 được tổ chức với các thành phần như được minh họa trên Hình 1, gồm:
  • 3 mức độ sử dụng sư phạm CNTT-TT của giảng viên: (1) Chiếm lĩnh tri thức; (2) Đào sâu tri thức; và (3) Sáng tạo tri thức;
  • 6 khía cạnh thực hành của nghề giảng viên, gồm: (1) Hiểu CNTT-TT trong Chính sách Giáo dục; (2) Chương trình giảng dạy và Đánh giá; (3) Sư phạm; (4) Ứng dụng các Kỹ năng Số; (5) Tổ chức và Quản trị; và (6) Học tập Nghề Giảng viên.
  • 18 năng lực được tổ chức theo 6 khía cạnh thực hành của nghề giảng viên, với từng mức độ sử dụng sư phạm CNTT-TT của giảng viên, như được nêu ở trên.
Để có thông tin chi tiết về các thành phần, xem Chương III tài liệu ICT CFT v3[7].



 Hình 1. ICT CFT v3 năm 2018 của UNESCO[8]
Cũng cần nhấn mạnh ở đây rằng năng lực tài nguyên giáo dục mở (OER) được tích hợp vào trong ICT CFT v3 ở vài khía cạnh của cả 3 mức độ sử dụng sư phạm CNTT-TT của giảng viên[9], như năng lực tìm kiếm OER để sử dụng bằng các máy tìm kiếm; năng lực tùy biến thích nghi và/hoặc tạo mới OER bằng các công cụ CNTT-TT và/hoặc năng lực phát hành/xuất bản OER với các giấy phép mở thích hợp (ví dụ, như một vài giấy phép thích hợp trong hệ thống cấp phép mở Creative Commons), cụ thể như sau:
Mức độ chiếm lĩnh tri thức - KA (Knowledge Accquisition)
KHÍA CẠNH 2: Chương trình giảng dạy và đánh giá, OER có trong các cột sau:
Các mục tiêu (các giảng viên nên có khả năng để …): KA.2.b. Tìm kiếm và xác định OER để hỗ trợ các tiêu chuẩn của chương trình giảng dạy.
Các hoạt động ví dụ: Tìm kiếm OER, sử dụng cả các máy tìm kiếm chuyên dụng và phổ biến, và lựa chọn các tài nguyên mở để dạy các tiêu chuẩn chương trình giảng dạy đặc thù.
KHÍA CẠNH 6: Việc học tập nghề nghiệp của giảng viên, OER có trong các cột sau:
Các mục tiêu (các giảng viên nên có khả năng để …): KA.6.e. Phân tích và đánh giá các tài nguyên dạy học số.
Các hoạt động ví dụ: Đánh giá tính phù hợp của các tài nguyên dạy và học số, đặc biệt về các khía cạnh ‘quyền’, ‘mục đích’, ‘độ phủ’, ‘tính thịnh hành’, ‘tính khách quan’ và ‘tính chính xác’. Sử dụng OER và mạng xã hội để tìm kiếm tài nguyên.
Mức độ đào sâu tri thức - DA (Deeping Knowledge)
KHÍA CẠNH 2: Chương trình giảng dạy và đánh giá
Các mục tiêu (các giảng viên nên có khả năng để …): KD.2.d. Tùy biến thích nghi OER để hỗ trợ các ngữ cảnh địa phương và các tiêu chuẩn của chương trình giảng dạy.
Các hoạt động ví dụ: Tìm kiếm trên Internet các OER, phân tích tính phù hợp của các tài nguyên đối với các ngữ cảnh mới bằng việc áp dụng các tiêu chí chất lượng, và tùy biến thích nghi chúng để hỗ trợ học tập.
Mức độ sáng tạo tri thức - KC (Knowledge Creation)
KHÍA CẠNH 6: Việc học tập nghề nghiệp của giảng viên
Các mục tiêu (các giảng viên nên có khả năng để …): KC.6.e. Cấp phép và phân phối các tài nguyên dạy học gốc của họ như là OER.
Các hoạt động ví dụ: Chia sẻ các tài nguyên mẫu dạy và học - như các kế hoạch bài giảng, các bảng tính, các ghi chép và kiểm thử trong phòng thí nghiệm - với cộng đồng giáo dục rộng lớn hơn bằng việc phát hành các tài nguyên đó với giấy phép mở.


D. STEM - vấn đề Việt Nam rất quan tâm - có nhiều tài nguyên ở dạng OER
Có 2 tham luận[10] đề cập tới xu hướng giáo dục Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học - STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematic) hiện cũng đang khá thịnh hành ở Việt Nam. Được biết, trên thế giới có rất nhiều (hàng chục ngàn/hàng trăm ngàn) các tài nguyên STEM là các tài nguyên mở, được cấp phép mở, cho phép chia sẻ tự do trên Internet, bao gồm cả các tài nguyên mở là các OER, cho phép sửa đổi, pha trộn và, trong một số trường hợp, thương mại hóa mà không vi phạm bản quyền của bất kỳ ai[11], điều ít được quan tâm ở Việt Nam, trong khi chúng ta có thể khai thác chúng để ứng dụng và phát triển STEM ở Việt Nam nhanh hơn.


E. Tùy biến ICT CFT v3 để xây dựng ICT CFT cho Việt Nam và/hoặc cơ sở
Việc tùy biến ICT CFT v3 thành ICT CFT cho một quốc gia như Việt Nam hoặc cho một tổ chức hay cơ sở giáo dục như một trường đại học sư phạm kỹ thuật hay bất kỳ tổ chức hoặc cơ sở giáo dục nào khác sẽ là khả thi hơn nhiều nếu có được những phiên bản và/hoặc các tài nguyên mẫu để có thể dựa vào đó mà tạo ra được nhanh hơn và dễ hơn.
May thay, các tài nguyên như vậy là có sẵn như được minh họa trên Hình 2[12]. Vì vậy, có thể cũng bằng phương thức 3 bước Chiếm lĩnh tri thức - Đào sâu tri thức - Sáng tạo tri thức, chúng ta có thể xây dựng được ICT CFT cho quốc gia, tổ chức và/hoặc cơ sở của riêng mình.
Trên Hình 2, từng trong số 18 năng lực thành phần của ICT CFT v3 đều có số lượng cụ thể các tài nguyên sẵn có với đường liên kết tới từng tài nguyên đó, và quan trọng hơn, chúng hầu hết, nếu không nói là tất cả, đều là các tài nguyên giáo dục mở và được được cấp giấy phép CC BY-SA, cho phép bạn tùy biến thích nghi chúng vì bất kỳ mục đích gì, kể cả thương mại hóa, miễn là bạn thừa nhận ghi công các tác giả và gắn cho bản phái sinh bạn đã sửa đổi giấy phép y hệt bản gốc, nghĩa là cũng CC BY-SA.
Điều này còn cho thấy, năng lực tài nguyên giáo dục mở là không thể thiếu và cần thiết phải tùy biến ICT CFT v3 để xây dựng ICT CFT cho quốc gia, tổ chức hay cơ sở giáo dục của bạn dựa vào những tài nguyên được cấp phép mở sẵn có của các quốc gia, tổ chức hoặc cơ sở khác. 

 
Hình 2. Tài nguyên được cấp phép mở và sẵn có để tùy biến xây dựng ICT CFT
Cho tới nay, đã có các quốc gia, tổ chức và đại học tùy biến ICT CFT v3 để xây dựng chính sách và/hoặc ICT CFT cho mình, cụ thể:
  • 10 quốc gia: Kenya, Guana, Rwanda, Djibouti, Philippines, Ai cập, Togo, Mozambique, Nam Phi, Zimbabwe
  • 2 tổ chức: Tổ chức Liên đoàn A rập về Giáo dục, Văn hóa và Khoa học - ALECSO (Arab League Educational, Cultural and Scientific Organization) và Khối Thịnh vượng chung về Học tập - COL (Commonwealth of Learning)
  • 1 trường đại học: chương trình OER4Schools của Đại học Cambridge
F. Kết luận
Thực trạng với nhiều trăn trở trong xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng CMCN4 với nhiều công nghệ đang nổi lên trong lĩnh vực CNTT-TT ở các trường đại học sư phạm nói chung, các trường đại học sư phạm kỹ thuật nói riêng, có thể được giải quyết thông qua việc tùy biến ICT CFT v3 năm 2018 của UNESCO để xây dựng (các) ICT CFT nhằm đáp ứng được các nhu cầu ứng dụng và phát triển các công nghệ thông tin và truyền thông đang nổi lên cho các giảng viên và phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng cơ sở, hệt như những gì nhiều quốc gia, tổ chức và đại học trên thế giới đã thực hiện rồi.
Việc tùy biến ICT CFT v3 để tạo ra (các) ICT CFT cho các cơ sở, các tổ chức giáo dục và/hoặc cho toàn bộ ngành giáo dục Việt Nam sẽ còn dễ dàng hơn nữa vì các tài nguyên của các quốc gia, tổ chức và đại học trên thế giới đó đều là các tài nguyên được cấp phép mở, cho phép chúng ta sửa đổi, thậm chí, trong nhiều trường hợp, chúng là các tài nguyên giáo dục mở, cho phép không chỉ sửa đổi, mà còn sử dụng cho bất kỳ mục đích gì, kể cả thương mại hóa.
Không phải ngẫu nhiên mà tài nguyên giáo dục mở (OER) lại đứng ở vị trí số 1 trong danh sách các phát triển công nghệ và sư phạm gần đây trong lĩnh vực CNTT-TT và Giáo dục được UNESCO đặc biệt quan tâm, được nêu trong tài liệu như được liệt kê ở phần B mục 2 ở trên. Điều này cho thấy tài nguyên giáo dục mở không phải là công nghệ khu vực giáo dục của Việt Nam thích giáo dục đào tạo và huấn luyện hay không, mà là năng lực công nghệ từng giảng viên trong hệ thống giáo dục của Việt Nam MẶC ĐỊNH PHẢI CÓ để có thể đáp ứng được các yêu cầu về CNTT-TT của thế kỷ 21 và đáp ứng nhu cầu tiếp cận CMCN4 hiện nay.
Trách nhiệm xây dựng và triển khai ICT CFT cũng như ứng dụng và phát triển tài nguyên giáo dục mở ở Việt Nam, dù ở mức quốc gia, tổ chức hay cơ sở giáo dục, trước hết, nằm trên vai của khối các trường đại học sư phạm nói chung, và đặc biệt là các trường sư phạm kỹ thuật nói riêng, do các nét đặc trưng kỹ thuật công nghệ của CNTT-TT và của tài nguyên giáo dục mở.
Ở một khía cạnh khác, trong chương trình nghị sự của mình, các ngày 12-27/11/2019 sắp tới, tại phiên họp toàn thể của UNESCO, nhiều khả năng khuyến cáo chính thức về tài nguyên giáo dục mở của UNESCO sẽ được thông qua, nó “ủng hộ cho sự đầu tư toàn cầu vào 5 lĩnh vực hỗ trợ tài nguyên giáo dục mở: (1) xây dựng năng lực; (2) phát triển chính sách hỗ trợ; (3) đảm bảo truy cập bình đẳng và có sự tham gia tới OER chất lượng; (4) các mô hình bền vững cho OER; và (5) hợp tác quốc tế“[13] [14]. Hy vọng là Việt Nam, một quốc gia thành viên của UNESCO, sẽ sớm hội nhập với phong trào tài nguyên giáo dục mở của thế giới vì sự phát triển bền vững của mình.
Để kết thúc bài viết, xin được nêu ra sau đây kết luận của một nghiên cứu gần đây về tương lai của Khoa học và Giáo dục[15]: (1) Truy cập Mở là mặc định; (2) Khoa học Mở là mặc định; (3) Tài nguyên Giáo dục Mở là mặc định; (4) Sư phạm Mở là mặc định.


Bảng chú giải
[1] Kỷ yếu hội thảo: Xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập Quốc tế; Hội thảo lần thứ 4 của Câu lạc bộ khối Sư phạm Kỹ thuật được tổ chức ngày 17/5/2019 tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định.
[2] TS. Đặng Quyết Thắng - Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSPKT Nam Định: Giải pháp phát triển CTĐT tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong thời kỳ CMCN4 và hội nhập quốc tế; Kỷ yếu hội thảo, trang 8-9.
[3] Nguyễn Hữu Hợp - Trường ĐHSPKT Hưng Yên: Những yêu cầu đối với giáo viên dạy nghề ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN4; Kỷ yếu hội thảo, trang 52-54.
[4] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, trang 7
[5] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, trang 11
[6] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, trang 4
[7] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, Chương III - Cấu trúc của ICT CFT v3, các trang 32-40
[8] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, trang 16
[9] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO: https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0, trang 42-71
[10] Tham luận của Trường ĐHSPKT Nam Định; và Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội thảo, trang 8-20.
[11] Ví dụ về trang các tài nguyên STEM được cấp phép mở: https://www.oercommons.org/oer
[12] ICT-CFT Aligned Resource: https://www.oercommons.org/hubs/UNESCO#ict-cft-aligned-resource, truy cập ngày 22/06/2019.
[13] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Cuộc họp của các chuyên gia liên chính phủ thông qua Khuyến cáo Phác thảo được làm lại về Tài nguyên Giáo dục Mở: https://vnfoss.blogspot.com/2019/07/cuoc-hop-cua-cac-chuyen-gia-lien-chinh.html
[14] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Khuyến cáo chính thức của UNESCO về Tài nguyên Giáo dục Mở đi thêm một bước xa hơn: https://vnfoss.blogspot.com/2019/07/khuyen-cao-chinh-thuc-cua-unesco-ve-tai.html
[15] Lê Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Mở - Triết lý và các thực hành đang cách mạng hóa giáo dục và khoa học: https://www.dropbox.com/s/q3bmrh9wjgntjes/Open_Vi-01052019.pdf?dl=0, trang 407-416






Lê Trung Nghĩa
PS: Tự do tải về bài viết toàn văn ở dạng PDF tại địa chỉ:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.