Open
Source Total Cost of Ownership 2.0
Published 11:35, 07
December 11, by Glyn
Moody
Bài được đưa lên
Internet ngày: 07/12/2011
Lời
người dịch: Từ trước tới nay, mỗi khi đề cập tới
sự cân nhắc chuyển đổi từ nguồn đóng sang nguồn mở,
là người ta nói tới tổng chi phí sở hữu TCO. Từ trước
tới nay, các nghiên cứu về TCO hầu như đều do Microsoft
trả tiền để làm, và chúng đều có lợi cho Microsoft.
Tài liệu mới về TCO của phần
mềm nguồn mở lần này được chuẩn bị cho Văn phòng
Nội các Chính phủ Anh có
nhiều điểm khác biệt. TCO theo tài liệu tính tới 14
động lực và 5 giai đoạn trong toàn bộ vòng đời của
phần mềm, bao gồm: (1) Lựa chọn; (2) Mua sắm; (3) Tích
hợp; (4) Sử dụng và (5) Từ bỏ. Bạn hãy lưu ý: “Các
chi phí chuyển đổi/thoát ra hầu hết không bao giờ được
tính tới – chắc chắn không trong các nghiên cứu TCO
trước đó do Micrsoft đẩy ra – mà đây lại là một
khía cạnh thực sự quan trọng mà các công ty cần nhớ
trong đầu”. Xem thêm: “Bộ
công cụ mua sắm nguồn mở của Văn phòng Nội các Chính
phủ Anh”. Bạn có thể tải về bản dịch sang tiếng
Việt của tài liệu “Tổng chi phí sở hữu của phần
mềm nguồn mở” ở
đây.
Ngược về năm 2006,
tôi đã viết một mẩu cho LXer có đầu đề: “Lịch sử
tóm tắt của Microsoft FUD” (FUD – Sợ hãi, Không chắc
chắn, Nghi ngờ). Điều đó đã đi qua những nỗ lực
thành công của Microsoft để gạt bỏ GNU/Linux theo một
loạt cách thức. Một trong những nghiên cứu được biết
tới nhiều từng là một loạt bài về các nghiên cứu
“Tổng chi phí sở hữu” (TCO). Bằng một sự trùng khớp
thú vị, tất cả những thứ đó đã chỉ ra rằng
Microsoft Windows là rẻ hơn so với GNU/Linux được cho là
rẻ.
May thay, mọi người
sớm hiểu ra một thực tế rằng các nghiên cứu đó, do
Microsoft trả tiền, đã khá là vô dụng (ở đây, ví dụ,
là một sự
lật tẩy lớn cái dạng FUD mà đã được đưa ra vào
năm 2005). Tuy nhiên, một trong những hậu quả ập tới
của câu chuyện đó là việc các nghiên cứu TCO thường
nằm ngoài sự ích lợi.
Vì thế điều thú vị
để thấy báo cáo mới này được chuẩn bị cho Văn
phòng Nội các với đầu đề “Tổng chi phí sở hữu
của Phần mềm nguồn mở”, mà đã được tung ra theo
Giấy phép Chính phủ Mở tự do cho thông tin của khu vực
nhà nước. Đây là nền tảng:
Báo cáo này có mong
đợi cung cấp một đánh giá cân bằng về tiềm năng của
phần mềm nguồn mở trong khu vực nhà nước dựa vào
những bằng chứng thu thập được từ những người đã
đi theo con đường này và từ những thành viên của cộng
đồng các công ty đưa ra các dịch vụ hỗ trợ cho các
cơ quan nhà nước như vậy. Khán thính phòng chúng tôi đề
cập tới bao gồm cả các chính trị gia và những người
ra quyết định cấp cao ở khắp chính phủ trung ương và
địa phương, các lãnh đạo cao cấp về CNTT và các cộng
đồng các nhà cung cấp.
Và đây là cách mà
thông tin đã được thu thập:
Nghiên cứu này đã
được cấu trúc thành 2 pha. Pha 1 đã dựa vào công cụ
thu thập dữ liệu theo mẫu đã được hoàn tất và được
32 người đưa trở lại (xem Phụ lục C). Theo mẫu biểu
đã được thiết lập cho sự truy cập như một tài liệu
điện tử in ra được (sẵn sàng ở các định dạng odt,
pdf và doc) và một phiên bản trực tuyến trong
SurveyMonkey. Theo mẫu biểu đã có trên trực tuyến trong
khoảng thời gian 2 tháng. Chúng tôi đã nhận được 25
câu trả lời trực tuyến cộng với 7 câu trả lời bằng
thư điện tử. Pha 2 đã có liên quan tới những cuộc
phỏng vấn sâu sắc với 20 người tại 14 tổ chức.
Trong cả 2 pha một sự pha trộn các tổ chức của cả
khu vực tư nhân và nhà nước đã được bao gồm, với
những nghiên cứu sâu (pha 2) có liên quan tói một ưu thế
trội hơn các cơ quan nhà nước.
Back
in 2006, I wrote a piece for LXer called "A
Brief History of Microsoft FUD". This ran through successive
attempts by Microsoft to dismiss GNU/Linux in various ways. One of
the better-known was a series of "Total Cost of Ownership"
(TCO) studies. By an amazing coincidence, these all showed that
Microsoft Windows was cheaper than that supposedly cheap GNU/Linux.
Fortunately,
people soon cottoned on to the fact that these studies, paid for by
Microsoft, were pretty worthless (here, for example, is a great
debunking
of the kind of FUD that was being put out in 2005.) However, one
knock-on consequence of that episode is that TCO studies rather fell
from favour.
So
it's interesting to see this new report prepared for the Cabinet
Office with the title "Total
Cost of Ownership of Open Source Software", which has been
released under the liberal Open
Government Licence for public sector information. Here's the
background:
This
report is intended to provide a balanced assessment of the potential
of open source software within the public sector based on evidence
collected from those who have taken this path and from members of the
community of firms offering support services to such public bodies.
The audience we are addressing includes politicians and senior
decision makers across central and local government, senior IT
managers and the supplier communities.
And
here's how the information was gathered:
This
study was structured in two phases. Phase 1 was based around a
pro-forma data collection instrument that was completed and returned
by 32 people (see Appendix C). The pro-forma was set up for access as
an electronic and printable document (available in odt, pdf and doc
formats) and an online version in SurveyMonkey. The pro-forma was
online for a period of two months. We received twenty-five responses
online plus seven returned by email. Phase 2 was concerned with
in-depth interviews with 20 people in 14 organisations. In both
phases a mix of public sector and private sector organisations were
included, with the in-depth studies (phase 2) involving a
preponderance of public bodies.
Rõ ràng, một vấn đề
sống còn là cái gì có nghĩa là “TCO” trong ngữ cảnh
này:
Định nghĩa được
chúng tôi phát triển là thế này, “TCO phản ánh không
chỉ chất lượng trực tiếp của một sản phẩm phần
mềm (giá, chức năng, trách nhiệm), mà còn cả mối quan
hệ của phần mềm đối với tập hợp rộng lớn hơn
của tổ chức về các nền tảng công nghệ, các hệ
thống được cài đặt, các kỹ năng và các mục tiêu
chiến lược, cũng như thị trường và cộng đồng sẵn
sàng dựa trên các dịch vụ”.
Trong mục tiêu đó,
báo cáo đưa ra điểm quan trọng sau:
Trong nhiều khía cạnh
có liên quan, phần mềm nguồn mở (PMNM) là khác so với
phần mềm sở hữu độc quyền) các bên có thể đồng ý
về điều đó). Nó đặt ra những yêu cầu khác nhau, và
đưa ra những lợi ích khác nhau cho tổ chức chủ và nó
được nhúng vào trong các hệ sinh thái phần mềm khác
nhau một chút và được các chuỗi cung ứng khác nhau phục
vụ. Câu hỏi về TCO vì thế trở nên ít được tập
trung vào những gì các chi phí phần mềm cho việc mua sắm
hoặc qua vòng đời của nó. TCO phải cân nhắc tới các
câu hỏi về cách mà phần mềm phù hợp trong tổ chức
và có liên quan tới các tài nguyên khác bao gồm các hệ
thống đã có trước đó, các nền tảng công nghệ và
các hạ tầng, tập hợp các kỹ năng và kiểu quản lý,
cũng như chiến lược nghiệp vụ.
Điều này chỉ ra
nhiều sắc thái hơn khái nhiệm TCO đã trở nên kể từ
các nghiên cứu của Microsoft, mà có ý định chỉ tập
trung vào các vấn đề rõ ràng hơn.
Một trong những thứ
nổi lên từ báo cáo này là một đánh giá giữa những
người sử dụng phần mềm tự do (PMTD) hưởng lợi vượt
ra khỏi những tiết kiệm đơng giản:
những người áp
dụng sớm các ứng dụng nguồn mở trong khu vực nhà nước
trích ra những lợi ích như giảm sự khóa trói vào nhà
cung cấp như một trong những lý do chính của họ cùng
với chi phí thấp hơn.
Obviously,
a critical issue is what is meant by "TCO" in this context:
Our
developed definition is thus, “TCO reflects a measure of all the
costs of identifying and acquiring software, away from the software.
TCO reflects not just the direct qualities of a software product
(price, functionality, reliability) but also the relationship of the
software to the organization‟s broader set of technology platforms,
installed systems, skills and strategic goals, as well as available
market and community based services.”
On
that subject, the report makes the following important point:
In
many relevant respects open source software is different to
proprietary software (both parties would probably agree on that). It
places different demands on, and offers different benefits to, the
host organisation and it is embedded in somewhat different software
ecosystems and is served by different supply chains . The question of
TCO thus becomes less focused on what software costs per se to
purchase or over its lifetime. TCO has to consider questions of how
software fits into the organisation and relates to the other
resources including legacy systems, technology platforms and
infrastructures, skill sets and management style, as well as business
strategy.
This
shows how much more nuanced the concept of TCO has become since those
Microsoft studies, which tended to focus on more obvious issues.
One
of the things that emerges from the report is an appreciation amongst
users of free software that the benefits go well beyond simple
savings:
early
adopters of open source applications in the public sector quote
benefits such as reduced vendor lock-in as one of their key arguments
alongside lower costs.
Đó là thứ gì đó
mà tôi đã luôn nhắc khi mọi người đã yêu cầu tôi
nói về lợi ích chủ yếu của việc sử dụng nguồn mở
– sự tự do khỏi bị khóa trói và khả năng kiểm soát
số phận điện toán của bạn. Thật tốt để thấy rằng
được đưa ra ở đây.
Tôi cũng vui mừng
thấy điều sau đây được chỉ ra:
Nhiều
người được phỏng vấn đã giải thích rằng những
tiết kiệm chi phí của nguồn mở được vật chất hóa
trong trung và dài hạn hơn là trong ngắn hạn. Vì thế, họ
báo cáo, điều quan trọng phải quản lý những mong đợi
để đảm bảo rằng một dự án chọn PMNM không được
xem là thất bại một cách hấp tấp vội vã nếu nó
không đưa ra được dịch vụ tuyệt hảo ở chi phí thấp
hơn đáng kể vào ngày đầu.
Điều
đó là quan trọng sống còn nếu chúng ta muốn tránh những
câu truyện cổ tích về chuyển đổi “thất bại” của
nguồn mở: các dự án phải được đưa ra đủ thời
gian để tự bản thân chúng chứng minh được.
Đây
là một thứ khác:
Khi
chuyển đổi giữa các sản phẩm nguồn mở cần phải
hiểu rằng chi phí có thể thấp hơn vì sự gắn kết tới
các tiêu chuẩn mở cho phép tính tương hợp lớn hơn. Các
tổ chức đóng góp cho nghiên cứu này đã có quan điểm
dài hạn hơn về áp dụng phần mềm nguồn mở đã đưa
ra các bình luận cho tác động hơn là các chi phí chuyển
đổi (các chi phí thoát ra) là có lợi hơn cho nguồn mở
và vì thế điều này đã trở thành một trong những yếu
tố quyết định có lợi cho PMNM.
Các
chi phí chuyển đổi/thoát ra hầu hết không bao giờ được
tính tới – chắc chắn không trong các nghiên cứu TCO
trước đó do Micrsoft đẩy ra – mà đây lại là một
khía cạnh thực sự quan trọng mà các công ty cần nhớ
trong đầu.
That's
something that I've always mentioned when people have asked me for
the key benefit of using open source - the freedom from lock in and
the ability to take control of your computing destiny. It's good to
see that coming out here.
I
was also pleased to see the following point raised:
Many
interviewees explained that open source cost savings materialize mid
to long term rather than in the short-term. Thus, they report, it is
important to manage expectations to ensure that a project that
chooses open source software is not considered a failure prematurely
if it does not deliver excellent service at substantially lower cost
on day one.
That's
crucially important if we are to avoid tales of open source migration
"failures": the projects must be given enough time to prove
themselves.
Here's
another:
When
migrating between open source products it is understood that costs
may be lower because adherence to open standards allows greater
interoperability. The organizations contributing to this study who
had a more long term view of their open source software adoption gave
comments to the effect that the migration costs (exit costs) were
more favourable for open source and so this had for them become one
of the deciding factors in favour of OSS.
Those
migration/exit costs are almost never considered - certainly not in
the early TCO studies pushed by Microsoft - but it's a really
important aspect that companies need to bear in mind.
Nhưng theo nhiều cách
thức thì kết quả thú vị và hứng thú nhất nổi lên
từ nghiên cứu mới này là:
Khía cạnh được
thấy như là có lợi những không được mong đợi là
cách mà một văn hóa đổi mới sáng tạo và hành vi nắm
lấy rủi ro hơn có thể được khuyến khihcs khi nguồn mở
được sử dụng. Sự áp dụng nguồn mở đã, ví dụ, ép
các cơ quan hành chính địa phương phải trở nên chấp
nhận hơn những “sai sót” mà có thể được xác định
và chứng minh nhanh chóng bằng sự truy cập cầm tay chỉ
việc tới mã nguồn và cấu hình. Kinh nghiệm của tính
lanh lẹ và quyền năng như vậy có thể thúc đẩy sự
thay đổi có lợi của nguồn mở.
Tôi đã lưu ý trước
cách mà việc dập tắt nỗi sợ hãi thất bại này đã
có trong điện toán của khu vực kinh doanh và nhà nước,
và vì sao, kết quả là, sự áp dụng nguồn mở vẫn là
chậm tại quốc gia này. Thứ thú vị là nghiên cứu mới
này gợi ý là một khi nỗi sợ hãi thất bại đó được
vượt qua đủ để cho phép sử dụng phần mềm tự do,
thì hành động triển khai nó sẽ giúp sinh ra được một
văn hóa chấp nhận những sai lầm và những vấn đề như
là một cách tự nhiên.
Đáng tiếc, những gì
làm mọi người dừng đi tới được tình trạng hạnh
phúc này của công việc là một vòng lặp các ý kiến
phản hồ tiêu cực giữ cho họ bị khóa trói cả vào các
phần mềm sở hữu độc quyền và một nỗi lo sợ thất
bại được cường điệu hóa. Tất cả nhiều lý do hơn
cho chính phủ Anh để giúp thúc đẩy nguồn mở trong các
văn phòng của mình để phá vỡ được vòng xấu xa đó.
Hãy hy vọng báo cáo mới đáng giá này sẽ khuyến khích
được họ làm thế.
But
in many ways the most interesting and exciting result to emerge from
this new study is the following:
A
facet that is seen as beneficial but rather unexpected is how a
culture of innovation and more risk taking behaviour can be promoted
as open source is used. Open source adoption has, for example, forced
local authorities to become more accepting of "mistakes"
that can be identified and rectified quickly by hands-on access to
code and configurations. Experience of such agility and empowerment
can spur the change in favour of open source.
I've
noted before how deadening this fear of failure has been in business
and public sector computing, and why uptake of open source has been
so slow in this country as a result. The fascinating thing this new
study suggests is that once that fear of failure is overcome enough
to permit the use of free software, the very act of deploying it
helps engender a culture that accepts mistakes and problems as
natural.
Unfortunately,
what stops people arriving at this happy state of affairs is a
negative feedback loop that keeps them locked into both proprietary
software and an exaggerated fear of failure. All the more reason for
the UK government to help push open source into its offices to break
that vicious circle. Let's hope this valuable new report encourages
them to do that.
Dịch tài liệu: Lê
Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.