(Bài được đăng
trên tạp chí Tia Sáng số 17 phát hành ngày 05/09/2018, các
trang 8-10. Phiên bản điện tử của bài được
phát hành ngày 09/09/2018 tại địa chỉ:
http://www.tiasang.com.vn/-dien-dan/Luat-an-ninh-mang-Khoang-trong-ve-dien-toan-dam-may-12749)
Luật An Ninh
Mạng (LANM) mới được Quốc hội thông qua vào ngày
12/06/2018. Nhưng để có thể thực hiện được những gì
ghi trong luật, cần một cái nhìn thấu đáo và cẩn trọng
hơn về mặt công nghệ trong các văn bản dưới luật.
Thuyết minh lần
cuối về Dự luật LANM trước khi Quốc hội thông qua
biểu quyết, tướng Võ Trọng Việt, Chủ nhiệm Ủy ban
Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa 14, đã nêu đại
ý như sau: Hiện nay, Google và Facebook đang lưu giữ dữ
liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam tại trung
tâm dữ liệu đặt tại Hồng Kông và Singapore. Nếu quy
định của luật này có hiệu lực thì các doanh nghiệp
này phải dịch chuyển đám mây điện toán, đám mây ảo
về Việt Nam để mở trung tâm dữ liệu tại Việt Nam.
Và điều đó là hoàn toàn khả thi… Những
gì ông Võ Trọng Việt nói ở trên, được ghi tại khoản
3, điều 26 trong LANM đã được phê duyệt.
Đúng là hiện
nay, nhiều dịch vụ trên Internet được cung cấp là các
dịch vụ điện toán đám mây (ĐTĐM). Để tìm hiểu về
qui mô khả thi của điều 26 và ĐTĐM trước hết chúng
ta cần tìm hiểu về kiến trúc của loại hình công nghệ
này.
Google, Facebook chỉ là trường hợp đặc biệt
Thị trường
mua-bán đám mây không đơn giản chỉ bao gồm nhà cung cấp
và người sử dụng. Trong tài liệu ‘Kiến
trúc tham chiếu điện toán đám mây của NIST’ do Viện
Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia - NIST (National Institute
of Standards and Technology) của nước Mỹ phát hành tháng
09/2011 đã đưa ra mô hình kiến trúc tham chiếu với ba
lớp dịch vụ tương ứng với ba dạng nhà cung cấp dịch
vụ ĐTĐM cùng với năm đối tượng tham gia hệ sinh thái
ĐTĐM với các vai trò khác nhau.
Nhà cung cấp đám
mây là một người hoặc một tổ chức giành quyền nắm
và quản lý hạ tầng tính toán, các phần mềm và phân
phối các dịch vụ trên đám mây cho những người sử
dụng. Ba dạng nhà cung cấp bao gồm: (3) Phần mềm như
một dịch vụ - SaaS (Software as a Service) theo đó, nhà cung
cấp sẽ quản lý và kiểm soát các phần mềm và ứng
dụng chạy trên đám mây. Chẳng hạn như các ứng dụng
của Google như Google docs, Google drives…đều là ví dụ về
SaaS (2) Nền tảng như một dịch vụ - PaaS (Platform as a
Service) cung cấp nền tảng và môi trường cho phép các
nhà phát triển phần mềm xây dựng các ứng dụng và
dịch vụ trên internet. Google App Engine, bộ công cụ để
các nhà lập trình tự xây dựng và phát triển các ứng
dụng đám mây là một ví dụ của PaaS. Nhà cung cấp này
có thể kiểm soát cả các ứng dụng, phần mềm trên đám
mây và có thể một số môi trường đặt chỗ hosting,
nhưng không có hoặc chỉ có quyền hạn chế truy cập tới
hạ tầng mạng, các máy chủ, các hệ điều hành, hạ
tầng lưu trữ (1) Hạ tầng như một dịch vụ - IaaS
(Infrastructure as a Service) nhà cung cấp nắm quyền quản lý
tài nguyên vật lý tính toán cho các phần mềm, bao gồm
các máy chủ, các mạng, hạ tầng lưu trữ và đặt chỗ
hosting.
Mô hình tham
chiếu điện toán đám mây của NIST.
Tương
tác giữa các tác nhân trong điện toán đám
mây.
Hơn nữa, việc
vận hành thị trường đám mây không chỉ có người sử
dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ đám mây, mà
còn có tới ba đối tượng khác gồm Nhà kiểm toán (một
bên tiến hành đánh giá độc lập về các dịch vụ đám
mây, các hoạt động hệ thống thông tin, hiệu năng và
an ninh của triển khai đám mây); Nhà môi giới (một tổ
chức quản lý sử dụng, hiệu năng và phân phối các
dịch vụ đám mây, và kết nối giữa các nhà cung cấp
đám mây và những người sử dụng đám mây); và Nhà vận
chuyển đám mây (tổ chức cung cấp kết nối và vận
chuyển các dịch vụ đám mây từ nhà cung cấp đến
người sử dụng).
Tất cả các
tương tác có thể giữa 5 tác nhân trong điện toán đám
mây.
Ông Võ Trọng Việt
có nhắc đến trường hợp của Google, Facebook cần phải
đặt máy chủ tại Việt Nam, nhưng đây là hai trường
hợp cá biệt, là các tập đoàn với nguồn lực khổng
lồ và sở hữu nhiều trung tâm dữ liệu, là đơn vị đủ
khả năng cung cấp tất cả các loại hình dịch vụ đám
mây mà không cần ký hợp đồng với bên thứ 3. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc mua bán các dịch vụ liên
quan đến đám mây sẽ chồng chéo và đa phần sẽ phải
thông qua các bên trung gian. Vấn đề là, các bên trung
gian này không có chức năng thu thập hay xử lý dữ liệu
được quy định trong điều 26 nhưng không thể đảm bảo
rằng, họ không chứa các thông tin của người sử dụng
một cách vô tình hay hữu ý và cũng rất khó có thể
kiểm tra được điều này (ví dụ, nhà cung cấp đám mây
điện toán phải sử dụng đường truyền của nhà vận
chuyển đám mây, không ai chắc chắn là nhà vận chuyển
này hoàn toàn không có thông tin của người sử dụng).
Xét một ví dụ, người sử dụng dịch vụ không ký hợp
đồng trực tiếp với nhà cung cấp đám mây mà kí thông
qua nhà môi giới đám mây, thì trong trường hợp này rất
cần LANM làm rõ xem ai, nhà môi giới đám mây hay tất cả
các nhà cung cấp dịch vụ đám mây, sẽ phải đặt chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam. Điều này
cũng tương tự như trường hợp thay nhà môi giới đám
mây bằng nhà vận chuyển đám mây. Vì có tất cả năm
tác nhân trong hệ sinh thái ĐTĐM, có nghĩa là từ góc độ
của người sử dụng hoặc nhà cung cấp hay bất kỳ tác
nhân nào khác, chúng ta đều nên tính tới tất cả các
tình huống có thể xảy ra đối với các mối liên hệ
giữa các tác nhân đó, cả trực tiếp lẫn gián tiếp,
để đảm bảo LANM sẽ không bỏ sót bất kỳ trường
hợp nào vì sự đơn giản hóa, như các trường hợp ví
dụ được nêu ở trên.
Ngay cả giữa các
nhà cung cấp dịch vụ ĐTĐM với nhau - bao gồm cả IaaS,
PaaS và SaaS có mức độ tiếp cận và lưu trữ dữ liệu
rất khác nhau và cũng sẽ có rất nhiều trường hợp
“lai ghép”, chẳng hạn như người sử dụng dịch vụ
ký hợp đồng với một nhà cung cấp SaaS, nhưng nhà cung
cấp SaaS này lại ký hợp đồng với một nhà cung cấp
SaaS khác (vì họ không có dịch vụ mà người sử dụng
cần) hoặc sử dụng dịch vụ của một nhà cung cấp
PaaS (điều này là đương nhiên). Vậy thì, các văn bản
dưới LANM cũng cần làm rõ để hiểu liệu trong thực tế
có các dạng kết hợp nào tồn tại giữa họ hay không,
có thể quy về một đầu mối mà không gây ra sự bất
tiện khó có khả năng tuân thủ cho các nhà cung cấp đó
hay không?
Làm việc cộng tác xuyên biên giới qua mạng
Làm việc cộng tác xuyên biên giới qua mạng
Việc kiểm soát
thông tin, dữ liệu trên mạng theo điều 26 nói trên sẽ
ngày càng khó khăn hơn trong một thế giới mở. Ngày nay,
nhiều công việc, bao gồm cả công việc nghiên cứu khoa
học, đòi hỏi sự cộng tác làm việc của các cá nhân,
tổ chức không chỉ ở một quốc gia, mà trên phạm vi
toàn cầu. Hơn nữa, công việc của họ nhiều khi được
thực hiện qua nhiều chứ không phải chỉ một ứng dụng,
dịch vụ trên điện toán đám mây. Thông qua công việc
nghiên cứu như vậy, chắc chắn các nhà khoa học Việt
Nam cũng sẽ tạo ra các thông tin, nội dung và/hoặc dữ
liệu bên trong các ứng dụng - dịch vụ có khả năng nằm
trong các máy chủ khác nhau nằm rải rác trên toàn cầu.
Liệu chúng ta có phải yêu cầu mỗi nhà khoa học tạo ra
dữ liệu phải có một máy chủ đặt ở Việt Nam? Và
ngay cả yêu cầu như vậy, làm sao chúng ta kiểm soát được
các dữ liệu họ trao đổi với đồng nghiệp nằm trong
máy chủ khác trên toàn thế giới?
Điều 23, Khoản 3
của LANM có liên quan tới các tình huống khác nhau khi mọi
người làm việc trong thực tế hàng ngày hiện nay với
các ứng dụng - dịch vụ dựa vào web trên trực tuyến
và/hoặc công nghệ ĐTĐM. Giả sử, trong trường hợp có
sự vi phạm và phải xóa thông tin - dữ liệu theo LANM quy
định, và giả sử, công ty/hãng nước ngoài đặt chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện của họ ở Việt Nam
cũng đã xóa đi các bản ghi trên tất cả các máy tính
họ quản lý, làm thế nào để các nhà quản lý chắc
chắn được sẽ không còn bản sao nào tồn tại trên
Internet nữa? Khi này, ai sẽ là người phải chịu trách
nhiệm pháp lý theo LANM?
Điều
26, Khoản 3 của LANM hiện hành có lẽ áp dụng được
trong một vài trường hợp với những điều kiện cụ
thể nhất định, nhưng không chắc áp dụng được với
đa số các trường hợp khác của ĐTĐM và làm việc cộng
tác có sử dụng các ứng dụng - dịch vụ dựa vào web
trên trực tuyến. Vì vậy, rất cần được nghiên cứu
kỹ lưỡng tất cả các trường hợp có khả năng xảy
ra trong đời sống thực khi làm việc với các công nghệ
như được nêu ở đây trong giai đoạn xây dựng các văn
bản dưới luật, tránh việc luật hóa chỉ dựa vào vài
trường hợp cụ thể, không đủ đại diện cho đa số
lớn các trường hợp khác có liên quan, để khi đưa LANM
vào cuộc sống sẽ không cản trở dòng chảy thông tin -
dữ liệu, làm khó cho các doanh nghiệp và các thành phần
khác làm ăn chính đáng trong kỷ nguyên số và hội nhập
toàn cầu.
Giấy phép nội dung: CC BY 4.0 Quốc tế.
———-
Lê Trung Nghĩa
PS: Nội dung bài
trên Blog được chỉnh sửa một chút so với nội dung
trên Tia Sáng Online.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.