(Bài
đăng trên tạp chí Tia Sáng, số 4
năm 2022, xuất bản ngày 20/02/2022,
các trang 42-45.
Phiên bản điện tử có tại địa chỉ:
https://drive.google.com/file/d/1IB-TlowZf-auk5oPBDRD8vidEd5hwCVo/view?usp=sharing và tại địa chỉ: https://tiasang.com.vn/-giao-duc/Goi-y-ve-chu-MO-trong-giao-duc-nuoc-nha-29838)
Trong
bối cảnh của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
thời kỳ hậu COVID-19, phù hợp với các xu thế của
thế giới về Tài nguyên Giáo dục Mở và Khoa học Mở
thì đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo theo hướng mở, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhu cầu cấp
thiết.
Bối
cảnh thế giới
Tài
nguyên giáo dục mở đã trở thành xu hướng không thể
đảo ngược trên thế giới. Kể từ năm 2019, UNESCO và
193 thành viên của nó (trong đó có Việt Nam) đã nhất
trí với Khuyến nghị Tài nguyên giáo dục mở [1]. Điều
này đồng nghĩa với việc đại đa số các nước trên
thế giới ủng hộ và sẽ cam kết phát triển chính sách
và hỗ trợ để các mô hình tài nguyên giáo dục mở
phát triển bền vững.
Khoa
học Mở và TNGDM - các xu thế không thể đảo ngược của
thế giới!
Tới
hết năm 2021, từ 70% các xuất bản phẩm bị khóa sau bức
tường thanh toán giảm xuống chỉ còn 30% trong và sau đại
dịch COVID-19. Tốc độ nhiều nghiên cứu trên thế giới
đáng lẽ có thể đi nhanh hơn, nhiều người được hưởng
lợi hơn. Đó là một phần lí do mà các quốc gia nói
trên đã tiến thêm một bước là thông qua Khuyến nghị
khoa học mở [2] vào cuối năm 2021. Với khuyến nghị này,
theo như thông cáo báo chí của UNESCO[3], các quốc gia đã
“nhất trí tuân theo các tiêu chuẩn chung cho khoa học mở”
và hơn nữa là thống nhất một lộ trình để không chỉ
các công trình khoa học mà tất cả các dữ liệu và cơ
sở vật chất phục vụ học tập và nghiên cứu sẽ đều
mở và miễn phí cho bất kì ai cũng có thể tiếp cận.
Một trong những yêu cầu của lộ trình này là các quốc
gia cần ưu tiên đầu tư vào nhân lực, giáo dục đào
tạo kĩ năng số (digital skills) cùng với tính mở.
Tài
nguyên giáo dục mở, Khoa học mở và Truy cập mở tới
các Kiến thức khoa học mở là một trong những nền tảng
quan trọng để học tập suốt đời trở thành hiện thực
với đại đa số người dân. Báo cáo “Tiếp nhận văn
hóa học tập suốt đời: Đóng góp cho sáng kiến Tương
lai của giáo dục” [4] của Viện Học tập Suốt đời
của UNESCO – UIL cho rằng quyền được học tập của
người dân cần phải được làm mới, nó không chỉ nên
dừng lại ở quyền được đến trường, mà phải mở
rộng ra thành quyền được học suốt đời. Nói cách
khác, học tập suốt đời sẽ phải trở thành quyền cơ
bản của con
người, là tiêu chí đánh giá công bằng xã hội.
Từ
trước tới nay, việc học tập suốt đời luôn nằm
trong khuôn khổ của các lĩnh vực chính sách giáo dục và
thị trường lao động. Nhưng từ bây giờ trở đi, nó có
thể sẽ rất khác, biên giới của học tập suốt đời
sẽ bao phủ hầu hết tất cả các lĩnh vực: “tiềm
năng của học tập suốt đời không chỉ để biến đổi
lĩnh vực giáo dục, mà còn tạo ra tương lai bền vững,
lành mạnh và hòa nhập hơn” cho tất cả mọi người
và tương lai của giáo dục.
Khái
niệm học tập suốt đời đầy đủ giờ đây ngụ ý
việc học tập từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi (bất
kỳ lúc nào), tồn tại bên trong và bên ngoài hệ
thống giáo dục (bất kỳ ở đâu), được mọi
người ở mọi lứa tuổi triển khai (bất kỳ ai, bất
kỳ lứa tuổi nào), thông qua một dải rộng lớn các
phương thức, bao gồm mặt đối mặt, từ xa, trực tuyến
(bất kỳ cách gì), và liên quan tới tất cả các
lĩnh vực kiến thức (bất kỳ điều gì). Việc học
tập suốt đời như vậy sẽ kéo theo việc phát triển
năng lực của người học, cá nhân hóa việc học tập,
việc thừa nhận các kết quả học tập giành được
trong các bối cảnh khác nhau và thúc đẩy lộ trình học
tập mở rất linh hoạt. Điều này, tới lượt nó, sẽ
dẫn tới việc xây dựng chính sách học tập suốt đời
dịch chuyển từ cung sang cầu.
Hãy
tưởng tượng về tương lai của giáo dục đến năm
2050, khi mà, từ phía cầu, người học có thể yêu cầu
tham gia một khóa học với đầy đủ đặc tính ‘bất
kỳ’ mà người học mong muốn, liệu từ phía cung,
các cơ sở giáo dục và các nhà cung cấp giáo dục khác
sẽ phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu đó như thế
nào?
Hãy
nghĩ về một trường đại học ảo tồn tại trên
Internet trực tuyến, không có một mét vuông đất nào,
được vận hành hoàn toàn bằng phần mềm máy tính, chắc
chắn sẽ làm được việc này, chỉ là vấn đề của
thời gian!
Bối
cảnh trong nước
Việt
Nam thực ra cũng ý thức được xu hướng mở trong giáo
dục từ đầu những năm 2010. Nghị quyết 29-NQ/TW
năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” đã yêu cầu cần: “Đổi mới hệ
thống giáo dục theo hướng mở”. Luật Giáo dục năm
2019 cũng nhắc lại ý này “Phát triển
hệ thống giáo dục mở,
xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi
người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở
mọi trình độ, mọi hình thức, học
tập suốt đời”.
Tương
tự như với thế giới, đại dịch COVID-19 đã tác động
tới tất cả mọi người, tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội, và tác động sâu sắc nhất tới
giáo dục. Đã có rất nhiều thay đổi, kể cả trong nhận
thức của xã hội và của mọi người trong việc việc
dạy và học, nhất là việc thừa nhận/công nhận/chấp
nhận sự cần thiết của việc dạy và học kết hợp:
vừa trực tiếp theo cách truyền thống mặt đối mặt và
vừa trực tuyến qua Internet với sự trợ giúp của các
công cụ công cụ công nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT-TT). Sau này, việc học theo hướng trực tuyến sẽ
ngày càng được tăng cường, trong khi học trực tiếp sẽ
được chỉ triển khai khi cần thiết như trong các giờ
học thực hành khi các công cụ CNTT-TT như các video, mô
phỏng tương tác hoặc thực tế ảo/thực tế tăng cường
còn chưa có điều kiện để thay thế được. Có lẽ
đúng khi nói, chính đại dịch COVID-19 đã xúc tác cho
phát triển việc học tập mở và từ xa - ODL (Open and
Distance Learning)[5], một cách học được cho là ngày càng
phù hợp với học tập suốt đời.
Thử
bàn về chữ mở trong giáo dục ở Việt Nam những năm
qua
Đã
và đang có các hoạt động nhất định của các bên liên
quan tới giáo dục (và cả khoa học nữa) ở Việt Nam
hướng tới TNGDM và Khoa học Mở (KHM)
từ những năm đầu thế kỷ 21. Tuy nhiên, các hoạt động
này chủ yếu tập trung vào việc ứng dụng và phát triển
phần mềm nguồn mở và cũng không ổn định theo
thời gian. Điều tích cực
là trong vài năm trở lại đây, các hoạt động liên quan
tới MỞ đã mở rộng hơn để vươn tới những
khái niệm mới, phong trào mới hơn của thế giới mở.
Về
Tài nguyên Giáo dục mở: Từ năm 2015 trở lại đây, các
hiệp hội ngành giáo dục và truyền thông đã tham gia và
tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo và tập huấn về
vấn đề này. Sắp tới, Đề án ứng dụng và phát triển
Tài nguyên Giáo dục mở trong giáo dục thường xuyên,
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học sẽ được
hoàn thiện để chuẩn bị trình Thủ tướng phê duyệt.
Đây là minh chứng rõ ràng cho bước triển khai ban đầu
rất cụ thể cho ứng dụng và phát triển Tài nguyên giáo
dục mở ở Việt Nam.
Về
Khoa học Mở: Đáng chú ý Bộ Khoa học và Công nghệ
năm ngoái đã tham gia các cuộc thảo luận đóng góp ý
kiến cho bản Khuyến nghị Khoa học mở của UNESCO và tổ
chức một vài hoạt động hội nghị, hội thảo có liên
quan.
Về
công nghệ mở: Nhân sự kiện Ngày Công nghệ Mở Việt
Nam lần thứ nhất 18/11/2020, Bộ trưởng Bộ Thông tin và
Truyền thông (Bộ TTTT) Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định [6]
“Công
nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ
công nghệ mà mình sử dụng. Không còn như trước đây,
chúng ta mua một ‘Hộp đen’ từ một quốc gia khác và
phó mặc số phận của quốc gia mình cho một quốc gia
khác. Hiện nay, nhiều quốc gia đã tuyên bố chỉ mua công
nghệ khi công nghệ là mở, nhất là khi các công nghệ đó
dùng để xây dựng các hạ tầng nền tảng quốc gia”,
và ông cũng nói thêm:
“Việc
lựa chọn phát triển công nghệ mở,
lựa chọn phát triển phần mềm nguồn mở, lựa chọn mở
dữ liệu để các cá nhân, doanh nghiệp tham gia sáng tạo
giá trị mới là định hướng của chúng ta.”
Công
nghệ Mở không là khái niệm mới. Nó đã từng được
quân đội Mỹ phát triển từ những năm đầu thế kỷ
21, gồm những thành phần[7]: (1) Tiêu chuẩn mở và giao
diện mở; (2) Phần mềm nguồn mở và thiết kế mở; (3)
Văn hóa cộng tác/phân phối và các công cụ hỗ trợ
trên trực tuyến; (4) Sự lanh lẹ của công nghệ. Họ
cũng đã nêu lên những bài học cần thiết cho sự thành
công của phát triển công nghệ mở, quan trọng nhất phải
ghi nhớ là: (1) Cộng đồng trước, công nghệ sau; (2) Mở
là mặc định, đóng chỉ khi cần[8].
Về
nền tảng mở: Để hướng dẫn cho các tổ chức khắp
cả nước có được những kiến thức cơ bản về chuyển
đổi số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xuất bản
website ‘Cẩm nang chuyển đổi số’, khẳng định
rằng [9]: “Sử dụng nền tảng số được xác định
là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số
nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được
tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc,
cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới
dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành”.
Tại
hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”
ngày 09/12/2020 với sự có mặt của cả hai bộ trưởng
Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ
trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng có
nói [10]: “Ngành Giáo dục hiện còn ‘thiếu một công
cụ thực thi hiệu quả’, đó chính là các nền tảng
số. Đây phải là nền tảng mở, để
liên tục được cập nhật và tốt lên từng ngày. Nền
tảng này không chỉ là nội dung mà còn là cách thức
giảng dạy, cách học, cách thi kiểm tra, hay nói cách khác
là các quy trình. Các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam
có thể giúp ngành giáo dục xây dựng được những nền
tảng như thế.”
Không
phải phần mềm nào cũng có thể được gắn nhãn ‘Nền
tảng’; cũng không phải nền tảng nào cũng có thể được
gắn nhãn ‘Nền tảng Mở’; vì một ‘Nền tảng Mở’
thường có những đặc tính riêng của nó, ví dụ
như[11]: (1) Được chuẩn hóa dựa vào các tiêu chuẩn mở;
hoặc (2) Trung lập về công nghệ. Hai trong số tám đặc
tính nêu trên của một ‘Nền tảng Mở’ là đủ để
đảm bảo rằng nền tảng đó sẽ là sân chơi của tất
cả các doanh nghiệp/công ty bất kỳ nào và không bị phụ
thuộc, không bị khóa trói vào một (vài) nhà cung cấp
độc quyền duy nhất nào, để các Kiến thức khoa học
mở và Tài nguyên giáo dục mở không bị bắt làm con tin
của bất kỳ doanh nghiệp/tập đoàn độc quyền nào, vì
nó sẽ hủy hoại tính mở của chính các Kiến thức Khoa
học mở và/hoặc Tài nguyên giáo dục mở đó.
Về
các khung năng lực số: Khung
năng lực số là khung nhằm xác định khả năng kỹ thuật
số của một cá nhân hoặc nhóm người
nhất định cả về kiến thức, các kỹ năng và thái độ
về một lĩnh vực nhất định, và được đặt trong bối
cảnh cụ thể của một quốc gia hoặc một tổ chức
nhất định. Các mục tiêu của Chương trình Chuyển
đổi số cần các công dân, tổ chức và doanh nghiệp có
các năng lực số/kỹ năng số thông qua Giáo dục Số với
các Khung năng lực số. Cho tới thời điểm hết năm
2020, đã chưa có nghiên cứu nào xây dựng các khung năng
lực số tại Việt Nam. Trong khi đó, ví dụ, tại châu
Âu, từ năm 2005 cho tới nay đã có hàng
chục nghiên cứu và hàng trăm tài liệu là kết quả của
các nghiên cứu đó[12] về khung năng lực số ở
khu vực này. Điều tích cực là trong các tài liệu dự
thảo các Đề án ứng dụng và phát triển Tài nguyên
giáo dục mở trong những năm tới đều có đề cập tới
việc xây dựng các khung năng lực số.
Để
hiện thực hóa những điều MỞ được nêu ở trên là
rất không dễ, dù chúng có thể giúp cho Việt Nam hoàn
thành các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên
hiệp quốc tới năm 2030, nhất là SDG 4 về giáo dục như
được nêu ở đầu bài viết này, thì giáo dục Việt
Nam chắc sẽ còn cần phải MỞ hơn nữa, để có thể
bắt kịp với các xu thế mới, ví dụ như những gì đang
được UNESCO dẫn dắt để thảo luận về học tập suốt
đời với sáng kiến ‘Tương lai của giáo dục’
đến năm 2050, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời
của người học bằng việc cung cấp giáo dục đổi mới
sáng tạo hơn nữa.
Vài
gợi ý để thảo luận tiếp về chữ MỞ trong giáo dục
ở Việt Nam thời gian tới
Mở,
đó là hướng theo những gì được nêu
trong Khuyến nghị Tài nguyên giáo dục mở và Khuyến
nghị Khoa học mở của UNESCO, đã được 193 quốc gia
thành viên của nó thông qua lần lượt vào các năm 2019
và 2021, mà Việt Nam, với tư cách là một quốc gia thành
viên của nó, sẽ tuân thủ với các tùy chỉnh cho phù
hợp với bối cảnh của mình, và sẽ có các báo cáo về
sự tiến bộ về ứng dụng và phát triển Tài nguyên
giáo dục mở và Khoa học mở
cho UNESCO mỗi bốn năm một lần như được nêu trong các
Khuyến nghị đó.
Mở,
đó là ưu tiên hàng đầu phải có chính sách cấp phép
mở quốc gia. Cấp phép mở là cách để các tác
giả/người nắm giữ bản quyền cho phép trước
bất kỳ ai sử dụng các tài nguyên/tác phẩm của mình
một cách rõ ràng để tránh cho người sử dụng khỏi
việc vi phạm bản quyền/các quyền tác giả. Không có
cấp phép mở, sẽ không có Tài nguyên giáo dục mở hay
Kiến thức Khoa học mở!
Mở,
đó là việc sử dụng tiền của người đóng thuế thông
qua việc nhà nước cấp vốn cho nghiên cứu khoa học để
tạo ra các Kiến thức khoa học mở, Tài nguyên giáo dục
mở phục vụ trở lại cho người đóng thuế, phục vụ
cho công chúng và xã hội. Có lẽ câu hỏi: Lấy tiền
từ ai để tiến hành nghiên cứu và tạo ra các Kiến
thức Khoa học mở và Tài nguyên Giáo dục mở? nên được
đặt ra trước khi có bàn luận bất kỳ nào về Luật sở
hữu trí tuệ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan tới sở hữu trí tuệ, bản quyền, quyền tác giả
và các quyền liên quan.
Mở,
đó là hiện thực hóa chương trình chuyển đổi số ở
Việt Nam bằng công nghệ mở và nền tảng mở
với sự hỗ trợ tích cực của các Khung Năng lực Số
được tích hợp trong Giáo dục Số nhằm giúp hình thành,
nâng cao và đánh giá được năng lực số của các tổ
chức, các cá nhân và các doanh nghiệp để có được các
năng lực số cần thiết, bao gồm các năng lực số mở
như Tài nguyên Giáo dục mở, Khoa học mở, Cấp phép mở,
để xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội
số - các mục tiêu của Chương trình Chuyển đổi số -
cho Việt Nam.
Mở,
đó là sẵn sàng trong tư thế hướng tới xu thế mới
của thế giới, như hướng tới việc học tập suốt đời
có thể trở thành một quyền mới cơ bản của con người,
nơi mà các Kiến thức Khoa học mở, Tài nguyên Giáo dục
mở có thể trở thành hàng hóa chung của xã hội và/hoặc
những điều chung của giáo dục. Hãy nghĩ về việc phát
triển Kiến thức Khoa học mở, Tài nguyên Giáo dục mở
trong tương lai của Việt Nam cũng giống như việc phát
triển hệ thống đường giao thông, các thư viện, viện
bảo tàng, vườn hoa, công viên,… để phục vụ cho mọi
công dân, bất kể họ là ai, chứ không phải là tài sản
riêng của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào, vì cái đích
xa hơn là ‘không để ai bị bỏ lại phía sau’, đặc
biệt khi Kiến thức Khoa học mở, Tài nguyên Giáo dục mở
được tạo ra từ tiền của người đóng thuế.
Ngược
lại, nếu không là MỞ, có nghĩa là giáo dục và khoa học
Việt Nam đang giậm chân tại chỗ, đi giật lùi hoặc đi
lạc hướng với xu thế không thể đảo ngược của thế
giới về Tài nguyên Giáo dục mở và Khoa học mở, gây
hại cho sự hòa nhập với thế giới và sự phát triển
của Việt Nam.
Hai
từ khóa trong những năm tới ở Việt Nam sẽ là MỞ và
SỐ để phù hợp được với kỷ nguyên số/Chương trình
Chuyển đổi số của Việt Nam và định hướng MỞ của
thế giới ngày nay. Sự kết hợp giữa MỞ và SỐ có thể
sẽ tạo ra nhiều đổi mới sáng tạo và nhiều điều
chưa từng thấy, đáp ứng nhu cầu học tập của bất kỳ
ai, cũng như đáp ứng kỳ vọng ‘đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa’. MỞ
và SỐ sẽ song hành với nhau! Không thể nào khác!
Các
chú giải
[1]
UNESCO, 2019: Certified
Copy of the Recommendation on Open Educational Resources (OER):
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000373755/PDF/373755eng.pdf.multi.page=3.
Bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0
[2]
UNESCO, 2021: UNESCO Recommendation on Open Science:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0
[3]
UNESCO, Press Release, 26/11/2021: UNESCO
sets ambitious international standards for open science:
https://www.unesco.org/en/articles/unesco-sets-ambitious-international-standards-open-science.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/khoa-hoc-mo/unesco-thiet-lap-cac-tieu-chuan-quoc-te-day-tham-vong-cho-khoa-hoc-mo-555.html
[4]
UNESCO, UIL, 2020: Embracing
a Culture of Lifelong Learning: Contribution to the Futures of
Education initiative.
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000374112.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tai-lieu-dich/om-lay-van-hoa-hoc-tap-suot-doi-dong-gop-cho-sang-kien-tuong-lai-cua-giao-duc-ban-dich-sang-tieng-viet-509.html
[5]
UNESCO, UIL, 2021: Guidelines
on Open and Distance Learning for Youth and Adult Literacy:
https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379397.
Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/xr5bxxr5mew88dh/379397eng_Vi-26122021.pdf?dl=0,
xem phần ‘Phát
triển các tư liệu dạy và học - Các nguyên tắc phát
triển tư liệu,
trang 72.
[6]
Vietnamnet: Toàn
văn phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại
diễn đàn công nghệ mở Việt Nam:
https://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-truyen-thong/toan-van-phat-bieu-cua-bo-truong-nguyen-manh-hung-tai-dien-dan-cong-nghe-mo-viet-nam-689681.html
[7]
Bộ Quốc phòng Mỹ, tháng 4/2006: Open
Technology Development - Roadmap Plan:
https://www.acqnotes.com/Attachments/Open%20Open%20Technology%20Development%20Roadmap%20-%20April%202006.pdf,
Open
Technology Development,
p. 7. Bản dịch sang tiếng Việt có tại địa chỉ:
https://www.dropbox.com/s/ildow3b0qx39f59/OTD-Roadmap-Final-Vi-29122011.pdf?dl=0,
trang 6.
[8]
Bộ Quốc phòng Mỹ, 2011: Open
Technology Development - Lessons Learned and Best Practices for
Military Software:
https://dodcio.defense.gov/Portals/0/Documents/FOSS/OTD-lessons-learned-military-signed.pdf,
OTD
Success Checklist,
p. 33. Bản dịch sang tiếng Việt:
https://www.dropbox.com/s/7dr3l68df0n8qkd/OTD-Lessons-Learned-And-Best-Practices-For-Military-Software-Vi.pdf,
trang 42-43.
[9]
Trang tin của Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm
nang chuyển đổi số:
https://dx.mic.gov.vn/. Xem phần
câu hỏi: ‘Chuyển đổi số như thế nào?’, mục ‘Sử
dụng nền tảng để chuyển đổi số như thế nào?’
[10]
Trang tin của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2020: Hội
thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”:
https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/tang-cuong-ung-dung-cntt/Pages/Default.aspx?ItemID=7123
[11]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Cần
một nền tảng mở cho chuyển đổi số trong giáo dục:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/can-mot-nen-tang-mo-cho-chuyen-doi-so-trong-giao-duc-504.html
[12]
Lê Trung Nghĩa, 2021: Các
khung năng lực số của Liên minh châu Âu và vài gợi ý
cho Việt Nam để chuyển đổi số thành công:
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cac-khung-nang-luc-so-cua-lien-minh-chau-au-va-vai-goi-y-cho-viet-nam-de-chuyen-doi-so-thanh-cong-534.html
Giấy
phép nội dung: CC
BY-SA 4.0 Quốc tế
Lê
Trung Nghĩa
Xem
thêm: Các
bài toàn văn