The Principles of Open Scholarly Infrastructure
Theo: https://openscholarlyinfrastructure.org/
Điều hành
Bao trùm khắp các doanh nghiệp nghiên cứu - ngày càng rõ ràng rằng nghiên cứu đi vượt qua các lĩnh vực, địa lý, cơ sở và các bên liên quan. Hạ tầng mà hỗ trợ cho nó cần phải làm điều y hệt.
Do bên liên quan điều hành - một tổ chức do hội đồng quản trị bổ nhiệm từ cộng đồng các bên liên quan xây dựng niềm tin hơn rằng tổ chức đó sẽ thực hiện các quyết định dựa trên sự đồng thuận của cộng đồng và xem xét các lợi ích khác nhau.
Cơ chế thành viên không phân biệt đối xử - chúng tôi thấy lựa chọn tốt nhất như một tiếp cận ‘chọn tham gia’ với nguyên tắc không phân biệt đối xử nơi mà bất kỳ nhóm các bên liên quan nào cũng có thể trình bày các mối quan tâm và cần được chào đón. Quy trình đại diện trong điều hành hàng ngày cũng phải là toàn diện cùng với sự điều hành mà phản ánh tính nhân khẩu học của cơ chế thành viên.
Hoạt động minh bạch - việc đạt được sự tin cậy trong lựa chọn các đại diện cho các nhóm điều hành sẽ đạt được tốt nhất qua các quy trình và hoạt động minh bạch nói chung (trong sự ràng buộc của các luật về quyền riêng tư).
Không thể vận động hành lang - cộng đồng, chứ không phải các tổ chức hạ tầng, cần cùng nhau dẫn dắt sự thay đổi luật lệ. Vai trò của một tổ chức hạ tầng là để cung cấp cơ sở cho những người khác làm việc và cần phụ thuộc vào cộng đồng của nó để hỗ trợ cho sự tạo lập môi trường pháp lý có ảnh hưởng tới nó.
Ý chí sống - cách mạnh mẽ để tạo lập lòng tin là mô tả công khai kế hoạch đề cập tới điều kiện theo đó tổ chức có thể điều kiện theo đó một tổ chức sẽ bị hủy bỏ, điều này sẽ xảy ra như thế nào và làm thế nào để lưu trữ và bảo quản bất kỳ tài sản đang hoạt động nào khi được chuyển cho một tổ chức kế nhiệm. Bất kỳ tổ chức nào như vậy cũng cần phải tôn trọng bộ nguyên tắc tương tự y hệt này.
Các động lực chính thức để hoàn thành sứ mệnh & kết thúc - hạ tầng tồn tại vì một mục đích cụ thể và mục đích đó có thể được đơn giản hóa triệt để hoặc thậm chí không cần thiết do sự thay đổi công nghệ hoặc xã hội. Nếu có thể thì tổ chức (và các nhân viên) cần có các động lực trực tiếp để thực hiện nhiệm vụ và kết thúc.
Tính bền vững
Các nguồn vốn có giới hạn về thời gian chỉ được sử dụng cho các hoạt động có giới hạn về thời gian - các hoạt động thường ngày cần được hỗ trợ bằng các nguồn doanh thu bền vững thường ngày. Sự phụ thuộc vào trợ cấp đối với các hoạt động cấp vốn làm cho chúng mong manh dễ vỡ và dễ dàng hơn đi trệch khỏi việc xây dựng hạ tầng cốt lõi.
Mục tiêu sinh lãi - các tổ chức xác định tính bền vững chỉ đơn thuần dựa trên việc trang trải được cho chi phí thì rất dễ hỏng và trì trệ. Là không đủ chỉ sống sót, phải có khả năng thích nghi và thay đổi. Để chống lại sự biến động kinh tế, xã hội và công nghệ, họ cần nguồn lực tài chính ngoài chi phí hoạt động tức thời.
Mục tiêu tạo quỹ dự phòng để hỗ trợ hoạt động trong 12 tháng - ưu tiên cao là tạo ra một quỹ dự phòng có thể hỗ trợ hoàn thành, dừng có trật tự (12 tháng trong hầu hết các trường hợp). Quỹ này cần tách biệt với các quỹ được phân bổ để trang trải cho việc vận hành rủi ro và đầu tư trong phát triển.
Tạo doanh thu phù hợp với sứ mệnh - các nguồn doanh thu tiềm năng cần được xem xét để nhất quán với sứ mệnh của tổ chức và không đi ngược lại với mục tiêu của tổ chức. Ví dụ…
Doanh thu dựa vào các dịch vụ, không dựa vào dữ liệu - dữ liệu có liên quan tới việc vận hành doanh nghiệp nghiên cứu nên là tài sản của cộng đồng. Các nguồn doanh thu đúng có thể bao gồm các dịch vụ giá trị gia tăng, tư vấn, các Hợp đồng Mức Dịch vụ Giao diện Lập trình Ứng dụng (API) hoặc các khoản phí thành viên.
Bảo hiểm
Nguồn mở - Tất cả các phần mềm được yêu cầu để chạy hạ tầng cần phải sẵn sàng theo một giấy phép nguồn mở. Điều này không bao gồm các phần mềm khác mà có thể tham gia trong việc vận hành tổ chức.
Dữ liệu mở (trong các ràng buộc của các luật về quyền riêng tư) - Đối với một hạ tầng sẽ được rẽ nhánh (forked), nó cần phải được nhân bản tất cả các dữ liệu có liên quan. Giấy phép CC0 là thực hành tốt nhất để làm cho dữ liệu sẵn sàng một cách hợp pháp. Các luật bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư sẽ hạn thế mức độ theo đó điều này là có thể.
Dữ liệu sẵn sàng (trong các ràng buộc của các luật về quyền riêng tư) - Là không đủ để dữ liệu được làm thành “mở” nếu không có cách thức thực tế để thực sự có được nó. Dữ liệu nằm bên dưới cần được làm cho sẵn sàng dễ dàng qua việc kết xuất dữ liệu định kỳ.
Không khẳng định bằng sáng chế - Tổ chức cần cam kết với một giao ước không khẳng định bằng sáng chế. Tổ chức có thể có được các bằng sáng chế để bảo vệ các hoạt động của riêng nó, nhưng không sử dụng chúng để ngăn cản cộng đồng khỏi việc nhân bản hạ tầng đó.
Trích dẫn như là Bilder
G, Lin J, Neylon C (2020), Các nguyên tắc của Hạ tầng Học
thuật Mở (The Principles of Open Scholarly Infrastructure),
truy
cập ngày 14/06/2022
,
https://doi.org/10.24343/C34W2H
Coverage across the research enterprise – it is increasingly clear that research transcends disciplines, geography, institutions and stakeholders. The infrastructure that supports it needs to do the same.
Stakeholder Governed – a board-governed organisation drawn from the stakeholder community builds more confidence that the organisation will take decisions driven by community consensus and consideration of different interests.
Non-discriminatory membership – we see the best option as an “opt-in” approach with a principle of non-discrimination where any stakeholder group may express an interest and should be welcome. The process of representation in day to day governance must also be inclusive with governance that reflects the demographics of the membership.
Transparent operations – achieving trust in the selection of representatives to governance groups will be best achieved through transparent processes and operations in general (within the constraints of privacy laws).
Cannot lobby – the community, not infrastructure organisations, should collectively drive regulatory change. An infrastructure organisation’s role is to provide a base for others to work on and should depend on its community to support the creation of a legislative environment that affects it.
Living will – a powerful way to create trust is to publicly describe a plan addressing the condition under which an organisation would be wound down, how this would happen, and how any ongoing assets could be archived and preserved when passed to a successor organisation. Any such organisation would need to honour this same set of principles.
Formal incentives to fulfil mission & wind-down – infrastructures exist for a specific purpose and that purpose can be radically simplified or even rendered unnecessary by technological or social change. If it is possible the organisation (and staff) should have direct incentives to deliver on the mission and wind down.
Time-limited funds are used only for time-limited activities – day to day operations should be supported by day to day sustainable revenue sources. Grant dependency for funding operations makes them fragile and more easily distracted from building core infrastructure.
Goal to generate surplus – organisations which define sustainability based merely on recovering costs are brittle and stagnant. It is not enough to merely survive, it has to be able to adapt and change. To weather economic, social and technological volatility, they need financial resources beyond immediate operating costs.
Goal to create contingency fund to support operations for 12 months – a high priority should be generating a contingency fund that can support a complete, orderly wind down (12 months in most cases). This fund should be separate from those allocated to covering operating risk and investment in development.
Mission-consistent revenue generation – potential revenue sources should be considered for consistency with the organisational mission and not run counter to the aims of the organisation. For instance…
Revenue based on services, not data – data related to the running of the research enterprise should be a community property. Appropriate revenue sources might include value-added services, consulting, API Service Level Agreements or membership fees.
Open source – All software required to run the infrastructure should be available under an open source license. This does not include other software that may be involved with running the organisation.
Open data (within constraints of privacy laws) – For an infrastructure to be forked it will be necessary to replicate all relevant data. The CC0 waiver is best practice in making data legally available. Privacy and data protection laws will limit the extent to which this is possible
Available data (within constraints of privacy laws) – It is not enough that the data be made “open” if there is not a practical way to actually obtain it. Underlying data should be made easily available via periodic data dumps.
Patent non-assertion – The organisation should commit to a patent non-assertion covenant. The organisation may obtain patents to protect its own operations, but not use them to prevent the community from replicating the infrastructure.
Cite as Bilder
G, Lin J, Neylon C (2020), The Principles of Open Scholarly
Infrastructure, retrieved [date], https://doi.org/10.24343/C34W2H
Dịch: Lê Trung Nghĩa
letrungnghia.foss@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.