Cho tới bây giờ, Việt Nam vẫn chưa có những tài liệu chính thức về Chuẩn và Kiến trúc cho các ứng dụng Chính phủ điện tử (CPĐT) ở mức Chính phủ - Quốc gia, một trong những yêu cầu sống còn cho việc xây dựng các ứng dụng - dịch vụ CPĐT thành công đối với một quốc gia, vì nó chính là Luật và Quy hoạch trong lĩnh vực CPĐT. Không có nó, việc xây dựng các ứng dụng - dịch vụ CPĐT sẽ không thể thành công.
Bài viết này sẽ
đề cập tới một khía cạnh quan trọng trong tổng thể
một kiến trúc CPĐT: Kiến trúc phần
mềm tham chiếu. Kiến trúc
phần mềm tham chiếu là một nội dung quan trọng
trong quan điểm ứng dụng, một trong những quan điểm có
liên quan tới khía cạnh kỹ thuật công nghệ trong toàn
bộ Kiến trúc CPĐT. Các quan điểm khác và tổng thể
kiến trúc CPĐT sẽ không được đề cập tới ở đây,
hy vọng sẽ được đề cập tới trong những bài khác
tiếp sau.
XÂY DỰNG PHẦN MỀM THEO CÁCH TRUYỀN THỐNG
Từ
trước tới nay, khi xây dựng một phần mềm, ngoài việc
chúng ta phải tuân thủ các bước khảo sát, phân tích,
thiết kế, lập trình, kiểm thử, triển khai... nhằm đáp
ứng các yêu cầu chức năng nghiệp vụ của cơ quan, tổ
chức người sử dụng thì chúng ta không mấy khi phải
chú tâm tới các thành phần khác cùng nằm trong hệ thống
thông tin.
Một
ví dụ dễ thấy nhất là khi làm theo cách này, trong mọi
ứng dụng phần mềm đều phải có module quản trị người
sử dụng với khả năng tạo mới, cập nhật, sửa, xóa
các thông tin liên quan tới người (nhóm người) sử dụng.
Đối với người sử dụng thì để có thể sử dụng
được ứng dụng phần mềm, họ sẽ phải đăng nhập
vào chương trình thông qua một tài khoản sử dụng
(account) mà thông thường được xác định bởi một cặp
giá trị về tên sử dụng (user name) và mật khẩu
(password).
Kết
quả là, với một người sử dụng, khi số lượng các
ứng dụng phần mềm tăng lên thì số lượng các tài
khoản cũng tăng lên tương ứng. Chỉ có điều các giá
trị về tên sử dụng và mật khẩu đối với chính
người sử dụng này nhưng trong các ứng dụng khác nhau
lại có thể sẽ rất khác nhau. Điều này là khó có thể
chấp nhận được. Sẽ tồi tệ hơn nữa, nếu các ứng
dụng như vậy lại phải triển khai các chữ ký điện tử
đi kèm với việc sử dụng các thẻ an ninh với các cặp
khóa cá nhân và công khai dựa vào hạ tầng khóa công
khai PKI (Public Key Infrastructure). Vì nhiều ứng dụng khác
nhau với các cặp tên và mật khẩu có thể khác nhau đó
có thể sẽ làm gia tăng số lượng các thẻ an ninh một
cách không đáng có, thậm chí có thể tới mức không
chịu nổi, khi ứng với mỗi ứng dụng CPĐT phải có 1
thẻ an ninh riêng biệt đi kèm, điều mà không một người
sử dụng hay nhà quản lý nào chấp nhận được.
Câu
hỏi đặt ra là: khi xây dựng các ứng dụng - dịch vụ
phần mềm cho CPĐT, chúng ta phải chú tâm tới các thành
phần nào khác của hệ thống? Kiến
trúc phần mềm tham chiếu có ý nghĩa gì?
GIỚI
THIỆU KIẾN TRÚC PHẦN MỀM THAM CHIẾU
Hình
1 cho ta thấy kiến trúc phần mềm
tham chiếu với các thành phần khi xây dựng các
ứng dụng và dịch vụ phần mềm cho CPĐT. Ban đầu, kiến
trúc này bao gồm 2 thành phần hạ tầng, 5 thành phần cơ
bản, 1 ứng dụng đặc thù tượng trưng cho tất cả các
ứng dụng nghiệp vụ được xây dựng cho các mục đích
CPĐT, 1 dịch vụ “một cho tất cả” tượng trưng cho
tất cả dịch vụ dùng chung được xây dựng cho các mục
đích CPĐT và một số thành phần khác.
Các
thành phần hạ tầng là các thành phần mà toàn bộ hệ
thống dựa vào chúng khi vận hành. Vì vậy, chúng là
những thành phần được sử dụng và sử dụng lại liên
tục không ngưng nghỉ trong suốt toàn bộ sự tồn tại
của toàn bộ hệ thống CPĐT.
Các
thành phần cơ bản là các thành phần được sử dụng
và sử dụng lại thường xuyên, liên tục cho vài, nhiều
hoặc tất cả các ứng dụng - dịch vụ CPĐT của nhiều
hoặc tất cả các cơ quan hành chính nhà nước trong (các)
hệ thống CPĐT. Khác với các thành phần hạ tầng được
sử dụng không ngưng nghỉ, thì các thành phần cơ bản
có thể có tuần suất sử dụng ít hay nhiều là khác
nhau, phụ thuộc vào sự cần thiết, chức năng và những
vấn đề khác đối với các nhóm thủ tục hành chính
và/hoặc nhóm người sử dụng khác nhau. Ví dụ, đối
với các nhóm thủ tục hành chính chỉ liên quan tới việc
trao đổi và tìm kiếm thông tin thì sẽ khác với các
nhóm thủ tục hành chính có liên quan tới việc thanh toán
phí dịch vụ của các thủ tục hành chính. Nhóm trao đổi
và tìm kiếm thông tin sẽ không sử dụng một số thành
phần cơ bản mà nhóm thanh toán phí dịch vụ phải sử
dụng, ví dụ, như thành phần cơ bản “Thanh toán trực
tuyến” hoặc một vài module nhất định nào đó của
thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” như được trình
bày ở đây.
Hình
1: Kiến trúc phần mềm tham chiếu
Các
thành phần mà mỗi một ứng dụng và dịch vụ phần mềm
cho CPĐT khi xây dựng phải được tính tới ngay từ đầu
bao gồm:
- Thành phần hạ tầng “Mạng hành chính của Chính phủ”
Thành
phần này kết nối tất cả các cơ quan hành chính nhà
nước, ở các mức hành chính khác nhau như trung ương -
tỉnh - bộ - ngành, thành một thể thống nhất và dù các
dịch vụ của hạ tầng này không là đặc thù đối với
các ứng dụng - dịch vụ CPĐT cụ thể nào, chúng vẫn
đóng một vai trò chính trong việc cung cấp giao tiếp
truyền thông điện tử giữa các cơ quan nhà nước với
nhau. Theo quan điểm về kiến trúc CPĐT, sẽ không
thể có việc một cơ quan nhà nước xây dựng một hệ
thống mạng CPĐT mà lại độc lập và/hoặc không nằm
trong tổng thể của thành phần hạ tầng “Mạng
hành chính của Chính phủ”
ngay từ lúc thiết kế.
- Thành phần hạ tầng “Dịch vụ thư mục”.
Thành phần này
thường sử dụng tiêu chuẩn LDAP (Lightweight Directory
Access Protocol) để quản lý các thông tin về người sử
dụng và các thông tin liên quan khác trong toàn bộ hệ
thống. Thành phần này chính là nền tảng của hệ thống
đăng nhập duy nhất (Single Sign On) đối với tất cả các
thành phần khác và các ứng dụng - dịch vụ trong hệ
thống thông tin CPĐT.
- Thành phần cơ bản “Cổng điện tử” (Portal).
Thành phần này
sử dụng để làm môi trường cho việc tích hợp với
các qui trình nghiệp vụ, với người sử dụng và đặc
biệt là với các thông tin từ các nguồn thông tin khác
nhau, với các định dạng dạng thông khác nhau với các
công nghệ xây dựng khác nhau. Ví dụ để tích hợp các
thông tin phi cấu trúc từ các trang thông tin điện tử
(website), từ các ứng dụng và dịch vụ phần mềm được
xây dựng trên bất cứ nền tảng nào – bất kể là
Windows hay GNU/Linux, nguồn mở hay nguồn đóng, sử dụng
bất cứ hệ quản trị cơ sở dữ liệu nào – bất kể
là MS SQL Server, Oracle, DB2, Informix, Sybase, MySQL, PostgreSQL
..., bằng bất cứ ngôn ngữ lập trình nào – bất kể
là Java, Visual Basic, Perl, PHP...
Thành phần này
chính là nền tảng để người sử dụng có thể truy cập
các thông tin, dịch vụ của các cơ quan khác nhau thông
qua một địa chỉ duy nhất trên Internet.
- Thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung” hay CMS (Content Management System).
Thành phần này
có nhiệm vụ chính là cung cấp các thông tin đã được
tiêu chuẩn hóa từ các ứng dụng, dịch vụ phần mềm
lên thành phần nền tảng “Cổng
điện tử” thông qua bộ công cụ quản lý các
bước xử lý thông tin từ việc tìm kiếm, thu thập, xem,
kiểm duyệt, xuất bản thông tin để mọi người có thể
sử dụng được trên Internet. Sẽ là tốt cho một hệ
thống CPĐT, nếu các ứng dụng đặc thù được xây dựng
dựa vào phần mềm gốc ban đầu là một CMS
để tận dụng được mọi chức năng sẵn có một CMS.
Trường hợp không thực hiện được việc này, thì ứng
dụng đặc thù cho CPĐT sẽ phải tích hợp các tính năng
cần thiết của CMS vào
trong ứng dụng để có thể làm việc được với thành
phần nền tảng “Cổng điện tử”
một cách thích hợp.
- Thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” (Data security)
Có thể có nhiều
cách khác nhau để đảm bảo an ninh dữ liệu, nhưng thông
thường thì người ta sử dụng hạ tầng cơ sở khóa
công khai PKI (Public key Infrastructure) và thẻ thông minh
(Smart card) cùng với các đầu đọc thẻ để làm những
công cụ cho việc xác thực người sử dụng và mã hóa –
giải mã đối với nội dung thông tin được truyền đi
trên Internet. Điều này là hết sức quan trọng trên
Internet để trả lời cho 2 câu hỏi: Ai là ai thực sự
trên mạng và liệu thông tin ta truyền qua mạng từ máy
tính này tới máy tính khác có còn giữ được tính toàn
vẹn dữ liệu hay không? (có bị ai đó can thiệp và sửa
đổi trên đường truyền hay không?).
- Thành phần cơ bản “Máy chủ mẫu biểu” (Form server)
Thành phần này
cung cấp cho người sử dụng trên Internet các mẫu biểu
hành chính của các cơ quan hành chính các cấp. Thông
thường việc triển khai thành phần này được chia làm 2
giai đoạn. Giai đoạn đầu cung cấp các mẫu biểu điện
tử dạng có thể in ra được để mọi người điền
thông tin vào đó như đối với một mẫu biểu thông
thường bằng giấy rồi được đưa vào qui trình xử lý
như các phương pháp truyền thống tại các cơ quan hành
chính. Trong giai đoạn tiếp sau, các mẫu biểu này sẽ
được thiết kế thành các mẫu biểu điện tử có khả
năng tương tác để mọi người có thể điền trực tiếp
các thông tin cần thiết một cách trực tuyến trên
Internet rồi các thông tin đó được lưu giữ trong các cơ
sở dữ liệu và được tiếp tục xử lý trong hệ thống
mạng CPĐT của các cơ quan hành chính.
- Thành phần cơ bản “Thanh toán điện tử” (e-payment)
Thành
phần này thường kết hợp với thành phần “An
ninh dữ liệu” làm cơ sở để tạo nên hệ
thống thanh toán trực tuyến trên Internet một cách an toàn
thông qua các cổng thanh toán (Payment gateway) phục vụ cho
các mục tiêu của CPĐT.
- Ứng dụng đặc thù
Đây
là thành phần biểu tượng cho một ứng dụng nghiệp vụ
được xây dựng không theo cách thức truyền thống, mà
theo cách thức để trở thành một ứng dụng nghiệp vụ
không chỉ hoàn thành các qui trình thủ tục nghiệp vụ
của (các) cơ quan hành chính nhất định nào đó, mà còn
để sử dụng như một ứng dụng CPĐT trong tổng thể
kiến trúc phần mềm tham chiếu.
Vì mang tính chất biểu tượng, nên ứng dụng đặc thù
này có thể là một ứng dụng xuất nhập khẩu động
thực vật, xin phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký kết
hôn, xây dựng nhà hay bất kỳ ứng dụng nghiệp vụ nào
khác, được xây dựng đặc thù trong môi trường CPĐT.
- Dịch vụ “Một cho tất cả” (dịch vụ OFA)
Đây
là thành phần biểu tượng cho một dịch vụ có thể
được xây dựng và sử dụng trong một vài, nhiều
và/hoặc tất cả cơ quan hành chính nhà nước trong môi
trường CPĐT, có tính tới - tham chiếu tới những thành
phần hạ tầng và cơ bản khác trong kiến
trúc phần mềm tham chiếu. Chúng được xây dựng
trên cơ sở tích hợp với các thành phần tích hợp của
(các) ứng dụng đặc thù để có thể sử dụng - tham
chiếu được tới tất cả các thành phần hạ tầng
và/hoặc cơ bản trong kiến trúc phần
mềm tham chiếu.
- Hệ thống đã có từ trước và hệ thống ERP
Đây
là các hệ thống thường do lịch sử để lại, đã được
xây dựng và hoạt động từ trước khi có những sáng
kiến CPĐT, trước khi xây dựng các ứng dụng và dịch
vụ CPĐT. Chúng thường phải trải qua một quá trình
chuyển đổi và/hoặc xử lý để có thể đáp ứng được
các yêu cầu mới mà các ứng dụng - dịch vụ CPĐT đặt
ra.
- Máy trạm
Thành
phần này đặc trưng cho các thiết bị mà người sử
dụng dùng để truy cập tới các thông tin đầu ra được
trình bày từ các ứng dụng - dịch vụ CPĐT được tất
cả các cơ quan hành chính nhà nước cung cấp có chủ
đích cho những người sử dụng đầu cuối. Các thiết
bị đó có thể là trình duyệt web, các thiết bị di
động, máy tính bảng hay bất kỳ thiết bị truy cập
thông tin - dữ liệu CPĐT nào khác.
- Ứng dụng bên ngoài
Là
các ứng dụng của các hệ thống thông tin khác nằm
ngoài hệ thống CPĐT của một quốc gia nhưng cũng có
những tương tác với hệ thống CPĐT của một quốc gia
thông qua giao diện ứng dụng của (các) ứng dụng đặc
thù.
Cần
lưu ý rằng thành phần cơ bản “Cổng
điện tử” và thành phần cơ bản “Hệ
thống quản lý nội dung” là 2 thành phần cơ
bản khác nhau, riêng biệt nhau với những chức năng hoàn
toàn khác nhau chứ không phải là ở dạng “2 trong 1”,
thậm chí là ở dạng “3 trong 1” khi bao gồm cả các
ứng dụng nghiệp vụ được xây dựng trực tiếp trong
phần mềm cổng, với các dữ liệu của (các) phần mềm
nghiệp vụ được lưu trữ trực tiếp cùng với cơ sở
dữ liệu của phần mềm cổng, như chúng ta vẫn thường
thấy đối với nhiều Cổng điện tử tại Việt Nam hiện
nay. Bàn về những ưu - nhược điểm khi xây dựng cổng
điện tử ở dạng “2 trong 1” hoặc “3 trong 1” không
được đề cập tới trong bài viết này.
Trên
quan điểm về tính trung lập về công nghệ trong các ứng
dụng - dịch vụ CPĐT, các thành phần hạ tầng và cơ
bản cũng như các ứng dụng đặc thù và dịch vụ “một
cho tất cả” đều có thể sử dụng các công nghệ
không phụ thuộc nền tảng, không phụ thuộc vào nhàcung cấp để xây dựng. Mà để có được như vậy, thì
chúng cần phải được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn
mở. Các nội dung này sẽ không được đề cập tới
trong bài viết này.
Cùng
với sự phát triển CPĐT, kiến trúc
phần mềm tham chiếu cũng sẽ phát triển và kéo
theo sự phát triển và biến hóa của (các) thành phần hạ
tầng và cơ bản được nêu ở trên. Tất cả những
thành phần hạ tầng và cơ bản như được nêu ở trên
đều được sử dụng nhưng có thể với những tên gọi
khác, với sự kết hợp khác mà không được đề cập
tới trong bài viết này.
VÍ
DỤ VỀ MỘT ỨNG DỤNG - DỊCH VỤ TRỰC TUYẾN VỚI VÀI
THÀNH PHẦN CƠ BẢN
Dưới
đây là một ví dụ về cách mà các thành phần cơ bản
có thể được tích hợp trong các qui trình của một ứng
dụng - dịch vụ trực tuyến. Ví dụ này có liên quan tới
một phương pháp đặc thù dựa vào một cơ sở dữ liệu
đặc thù, mà cụ thể là qui trình thủ tục xin giấy
phép xuất nhập khẩu động thực vật tại Đức. Tất
cả các phần có liên quan trong qui trình ở phía các cơ
quan hành chính đều có sự truy cập tới cơ sở dữ liệu
này. Những người đệ trình xin giấy phép trong trường
hợp này là các công ty khởi xướng qui trình đề nghị
đều có khả năng mua và sử dụng hạ tầng khóa công
khai PKI (Public Key Infrastructure), sử dụng thẻ thông minh
và các đầu đọc thẻ để hỗ trợ thực hiện việc ký
bằng các chữ ký số. Trong ví dụ này, các công ty phải
trả phí khi đề nghị được phê chuẩn. Thủ tục của
đề nghị sẽ kết thúc khi hóa đơn thanh toán được ghi
lại trong cơ sở dữ liệu đặc thù. Tuy nhiên, các hoạt
động được phê chuẩn sẽ được triển khai mà không
có Internet, mà là với các cán bộ hành chính có sử dụng
cơ sở dữ liệu đặc thù.
Tất
cả các thành phần cơ bản đều được sử dụng để
hỗ trợ cho thủ tục đề nghị này. 4 trong số 5 thành
phần cơ bản được tích hợp trực tiếp vào trong các
qui trình, trong đó thành phần cơ bản thứ 5 - “Cổng
điện tử” - cung cấp sự truy cập tới
dịch vụ trực tuyến đó. Thành phần cơ bản “Hệ
thống quản trị nội dung” (CMS)
làm giao diện web của dịch vụ trực tuyến với những
giải thích, các thông tin cơ bản và các con số thống
kê. Hơn nữa, CMS còn lưu
trữ các dữ liệu của đề nghị.
Thành
phần cơ bản “Máy
chủ mẫu biểu” tạo ra mẫu biểu của
đề nghị và hỗ trợ người đề nghị khi hoàn tất
việc nhập các thông tin cần thiết vào mẫu biểu đó.
Dữ liệu của người sử dụng (người đề nghị) được
thành phần CMS lưu trữ và
được sử dụng để nhập các dữ liệu mặc định vào
mẫu biểu. Thành phần cơ bản “An
ninh dữ liệu” (Bưu điện ảo) được sử
dụng cho việc truyền một cách có an ninh các dữ liệu
cá nhân này, cho việc ký mẫu biểu hoàn chỉnh và cho
việc truyền có an ninh các dữ liệu của mẫu biểu. Các
thư viện của thành phần cơ bản “An
ninh dữ liệu” cũng được sử dụng để
đảm bảo cho các giao tiếp truyền thông có an ninh khi
những khẳng định việc nhận và các công bố về chi
phí được gửi tới những người sử dụng qua thư điện
tử.
Thành
phần cơ bản “Thanh
toán điện tử” được sử dụng để
sinh ra một khoản ghi nợ tại Văn phòng Kế toán của
Chính phủ khi đề nghị được phê chuẩn. Người đề
nghi thanh toán hóa đơn bằng chuyển khoản qua ngân hàng.
Thông tin có liên quan tới các khoản ghi nợ đã được
thiết lập có thể tìm kiếm để sử dụng từ hệ thống
thanh toán điện tử.
Hình
2: Qui trình thủ tục có sử dụng vài thành phần cơ bản
Các
bước xử lý được đánh số trong hình là như sau:
- Dữ liệu của người sử dụng trong cơ sở dữ liệu đặc thù được gửi tới thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung”, sao cho những người đề nghị không phải gõ lại các dữ liệu cá nhân hoàn chỉnh của họ sau khi đăng nhập vào mỗi lần họ gửi đi một đề nghị.
- Người đề nghị đăng nhập vào website của qui trình đề nghị, với chữ ký số đang sử dụng cho việc xác thực.
- Việc truyền các dữ liệu đăng nhập từ máy trạm - web của người đề nghị tới máy chủ web của qui trình đề nghị (sử dụng thành phần “An ninh dữ liệu” để kiểm tra hợp lệ chữ ký).
- Truyền xác thực người sử dụng tới thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung”.
- Kích hoạt thành phần cơ bản “Máy chủ mẫu biểu” bằng “Hệ thống quản trị nội dung”; truyền tất cả các dữ liệu của người sử dụng cần thiết để hoàn tất trước những trường nhất định của mẫu biểu.
- Truyền mẫu biểu điện tử với các dữ liệu người sử dụng được mã hóa để hoàn tất trước các trường riêng (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” hoặc HTTPS cho việc mã hóa).
- Người sử dụng hoàn tất mẫu biểu đề nghị và bổ sung thêm các dữ liệu được quét vào như các tệp đính kèm với mẫu biểu đó; mẫu biểu hoàn thành, cùng với các tệp gắn kèm, được người sử dụng ký điện tử.
- Truyền có mã hóa mẫu biểu điện tử tới chức năng “thư nội bộ” của qui trình đề nghị (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” bằng phần mềm của “Máy chủ mẫu biểu”)
- Giải mã dữ liệu của mẫu biểu và kiểm tra tính hợp lệ của chữ ký (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu”)
- Truyền khẳng định một cách tự động việc nhận các dữ liệu mẫu biểu đối với người đề nghị qua thư điện tử; sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” để ký thư điện tử, mã hóa nếu cần.
- Phân công vụ việc cho một cán bộ thụ lý hồ sơ.
- Cán bộ giải quyết tiếp vụ việc bằng việc kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ thông tin của người sử dụng và nhập đề nghị vào cơ sở dữ liệu đặc thù.
- Hai cán bộ phê chuẩn đề nghị thông qua sự truy cập tới cơ sở dữ liệu đặc thù.
- Một cán bộ khác sẽ xử lý tiếp theo vụ việc
- Cán bộ tạo một công bố chi phí điện tử và gửi nó cho người đề nghị; sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” để ký và mã hóa thư điện tử.
- Cán bộ sử dụng thành phần cơ bản phù hợp để kích hoạt thủ tục thanh toán điện tử.
- Mỗi ngày một lần, các khoản ghi nợ được gửi tới hệ thống giám sát thanh toán của Cơ quan Dịch vụ Kế toán và Ngân sách.
- Ngay khi người đề xuất đã thanh toán hóa đơn, hệ thống giám sát thanh toán sẽ thông báo cho máy chủ thanh toán điện tử về việc đó.
- Cán bộ tìm kiếm sử dụng thông tin thanh toán mới nhất từ hệ thống thanh toán điện tử.
- Các thanh toán được ghi lại vào cơ sở dữ liệu đặc thù ngay lúc qui trình đề nghị được hoàn thành.
Nếu
một đề nghị bị từ chối, thì thủ tục có thể kết
thúc với bước 15 bằng việc gửi một công bố chi phí
tương ứng cho người đề nghị.
MỘT
SỐ TÓM TẮT CƠ BẢN
- Việc xây dựng một phần mềm ứng dụng thông thường, ví dụ như trong trường hợp cụ thể này, như quản lý giấy phép xuất nhập khẩu động thực vật, chắc chắn sẽ khác với việc xây dựng một phần mềm ứng dụng đặc thù cũng về quản lý giấy phép xuất nhập khẩu động thực vật nhưng để sử dụng trong hệ thống CPĐT. Với CPĐT, ứng dụng đó không chỉ đứng riêng lẻ một mình, mà còn phải tham chiếu cùng một lúc tới nhiều ứng dụng - thành phần khác nữa trong tổng thể của cả hệ thống, mà ở ví dụ cụ thể ở đây, là 5 thành phần cơ bản của kiến trúc phần mềm tham chiếu cho các ứng dụng CPĐT.
- Việc yêu cầu chỉ ra kiến trúc của chỉ một ứng dụng trong quá trình xây dựng ứng dụng đó mà không có tham chiếu tới bất kỳ thành phần cơ bản hay hạ tầng nào nào khác, là không phải cách để xây dựng một ứng dụng CPĐT. Điều này sẽ giống hệt như việc chỉ ra kiến trúc của ứng dụng đặc thù và/hoặc kiến trúc của một dịch vụ “Một trong tất cả” trong tổng thể kiến trúc phần mềm tham chiếu và là chưa đủ trong việc xây dựng một ứng dụng - dịch vụ nằm trong tổng thể kiến trúc phần mềm tham chiếu. Đáng tiếc, nó lại là những gì mà Việt Nam chúng ta đang làm mỗi khi xây dựng một ứng dụng mới, kể cả cơ sở dữ liệu quốc gia.
- Những thành phần hạ tầng và cơ bản là rất cần thiết khi xây dựng CPĐT, vì chúng có khả năng được sử dụng lặp đi lặp lại với những thủ tục, dịch vụ và ứng dụng đặc thù khác nhau. Trong trường hợp cụ thể này là xuất nhập khẩu động thực vật, nhưng trong trường hợp khác có thể là đơn xin phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký kết hôn, xây dựng nhà hay bất kỳ qui trình thủ tục - dịch vụ nào khác với những bước qui trình và chức năng tương tự. Điều này giải thích vì sao người ta nói: Kiến trúc như một bản qui hoạch đô thị, nơi mà chúng ta đưa ra các tài nguyên và sắp xếp các tài nguyên đó theo một qui cách nào đó, với các luật (các tiêu chuẩn) được chọn để có thể sử dụng và sử dụng lại các tài nguyên đó một cách có an ninh và hiệu quả nhất. Trong trường hợp cụ thể ở đây, việc sắp xếp đó là theo kiến trúc phần mềm tham chiếu, nằm trong “Quan điểm ứng dụng” của kiến trúc tổng thể CPĐT theo “Mô hình Tham chiếu Xử lý Phân tán Mở (RM-ODP)” mà bản thân RM-ODP (Reference Model for Open Distributed Processing) là tuân theo tiêu chuẩn ISO/IEC 10746-3:1996.
- Khi không có một kiến trúc chung và nhất quán ở mức Chính phủ như của Việt Nam hiện nay, thì việc xây dựng các ứng dụng nghiệp vụ, kể cả trong trường hợp có các cổng điện tử, là không dựa vào quan điểm hệ thống CPĐT, không có tham chiếu nào tới các ứng dụng và/hoặc thành phần khác, những thành phần hạ tầng và cơ bản, trong toàn bộ hệ thống, sẽ khó có thể gọi là xây dựng các ứng dụng - dịch vụ cho CPĐT được, và dễ thấy là hầu như không có ứng dụng phần mềm nào ở dạng các thành phần có thể sử dụng và sử dụng lại được một cách có tính toán trước, dễ gây ra sự tùy hứng, vừa thừa vừa thiếu, chồng lấn lên nhau, gây lãng phí lớn các tài nguyên.
- Các ứng dụng - dịch vụ CPĐT cần tới các thành phần hạ tầng và cơ bản trong kiến trúc phần mềm tham chiếu để dựa vào, đồng nghĩa với việc phải đặt ra vấn đề xây dựng các thành phần hạ tầng và cơ bản đó trước, càng sớm càng tốt, để làm nền móng cho các ứng dụng CPĐT khác dựa vào chúng khi được xây dựng. Tới lượt chúng, để có khả năng xây dựng các thành phần hạ tầng và cơ bản đó, thì chúng ta cần phải xây dựng được kiến trúc cho các ứng dụng CPĐT ở cấp Chính phủ. Nếu không, chúng ta sẽ không thể có CPĐT.
Trần
Lê
Bài
đăng trên tạp chí Tin học và Đời sống số tháng
04/2012, trang 46-50.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.