Ngày 05/10/2011, tại
Hà Nội, đã diễn ra hội thảo: Chiến lược khoa học,
công nghệ và đổi mới (STI) của Việt Nam, giai đoạn
2011-2020, do Viện Chiến lược và Chính sách KHCN, Bộ KHCN
phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp của
Liên hiệp quốc (UNIDO) tổ chức. Hội thảo được tổ
chức với hy vọng là một diễn đàn trao đổi về tương
lai của hệ thống STI của Việt Nam, tập trung vào các ý
kiến đóng góp cụ thể cho bản Dự thảo Chiến lược
STI giai đoạn 2011-2020, các vấn đề mang tính chính sách,
tạo ra nhận thức và mối liên kết giữa các chuyên gia
quốc tế và các đối tác liên quan của Việt Nam.
Bên cạnh các bài
trình bày và các ý kiến đóng góp của phía Việt Nam,
hội thảo đã được nghe nhiều bài trình bày và nhiều
ý kiến đóng góp quý báu của các thành viên ban tư vấn
quốc tế gồm 10 chuyên gia từ nhiều quốc gia và tổ
chức khoa học công nghệ trên thế giới như Bolivia, Đan
Mạch, Pháp, Anh, Phần Lan, Hàn Quốc và Áo.
STI là một vấn đề
lớn, có liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khoa
học trong xã hội. Là người làm việc trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và phần mềm máy tính, bài viết này
chỉ nêu một số ý kiến cá nhân có liên quan tới lĩnh
vực phần mềm máy tính, với hy vọng có thể đóng góp
được vào trong nội dung của các chính sách Chiến lược
STI của Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Sử dụng các
bằng sáng chế đã qua thời hạn bảo hộ để chuyển
động nhanh
Nghiên cứu
(Research) và đổi mới (Innovation), như trong bài trình bày
của ông Henri Dou, Giám đốc tổ chức Atelis, chuyên gia
của WIPO, được định nghĩa như sau:
- Nghiên cứu là sự biến đổi tiền thành tri thức và năng lực (Money transformation to knowledge & competence).
- Đổi mới là sự biến đổi tri thức và năng lực thành tiền (knowledge & competence transformation to money).
Việc phát triển hệ
thống đổi mới là để làm cho những thứ nêu trên có
hiệu quả, như để làm cho đầu tư trong nghiên cứu và
phát triển (R&D) có lãi. Hãy xác định những khó khăn
và khả năng đầu tư.
Ông đưa ra một
khuyến cáo tiếp cận tích cực và thực dụng rằng để
chuyển động nhanh, điều cần thiết với Việt Nam vào
lúc này là nên sử dụng các bằng sáng chế có sẵn
trong miền công cộng, những bằng sáng chế đã hết thời
hạn 20 năm bảo hộ. Những bằng sáng chế loại này là
nhiều vô số trong các kho lưu giữ các bằng sáng chế
trên thế giới, trong đó có cơ sở dữ liệu các bằng
sáng chế của Mỹ mà Việt Nam có thể sử dụng một các
tự do bằng một công cụ tìm kiếm các bằng sáng chế
như Matheo - Patent, có thể tìm thấy trên Internet tại địa
chỉ: http://www.matheo-patent.com.
Điều này có lẽ
là phù hợp với nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam,
dù có thể đối với một số ngành, ví dụ như phần
mềm máy tính, nó không hẳn là phù hợp và được đề
cập tới ở cuối bài này.
Hệ sinh thái của
các ngành khác nhau là khác nhau
Bài trình bày của
ông Martin Fransman, Giáo sư kinh tế và Giám đốc sáng lập
Viện nghiên cứu Công nghệ Nhật Bản - Châu Âu, Đại
học Edinburg, đề cập tới các hệ sinh thái của các
ngành khác nhau.
Một hệ sinh thái
được xác định như các nhóm các tay chơi tạo ra những
đổi mới thông qua những tương tác cộng sinh và cùng
tiến bộ của họ với môi trường của họ.
Ông nhấn mạnh rằng
các hệ sinh thái ngành là sống còn và các ngành khác
nhau thì các hệ sinh thái ngành có những nét đặc trưng
khác nhau. Ví dụ như các hệ sinh thái ngành của công
nghệ thông tin và truyền thông (ICT), công nghệ sinh học
và ô tô là hoàn toàn khác biệt nhau, làm việc theo các
cách thức khác nhau một cách cơ bản.
Ông cho rằng, việc
cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm, không chỉ đối với
hệ thống STI, mà còn đối với toàn bộ các hệ sinh
thái đổi mới của các ngành, mới là trọng tâm chính
của việc ra quyết sách về đổi mới.
Cũng chính vì những
khác biệt của các hệ sinh thái khác nhau này, gợi ý cho
chúng ta cách tiếp cận đối với việc sử dụng các
bằng sáng chế như ở trên vừa nêu có thể sẽ là không
giống hệt như nhau giữa các ngành khác nhau.
Vai
trò chiến lược phát triển KHCN Việt Nam giai đoạn
2011-2020
Bài
phát biểu của ông Nguyễn Mạnh Quân, Phó Viện trưởng
Viện Chiến lược và Chính sách KHCN, Bộ KHCN đã nêu lên
vai trò chiến lược phát triển KHCN Việt Nam giai đoạn
2011-2020 với những đặc trưng cụ thể sau:
- KHCN là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế.
- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm: (1) Chú trọng nghiên cứu thích nghi và làm chủ công nghệ nhập; (2) Tập trung đầu tư cho các sản phẩm chiến lược và công nghệ cốt lõi.
- Tạo môi trường và động lực: (2) Đổi mới cơ chế đầu tư, tài chính; (2) Chính sách nhân lực KH&CN; (3) Phát triển doanh nghiệp KH&CN.
Được
biết, Chính phủ đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ
Quốc gia với số vốn 1.000 tỷ VNĐ
từ vốn ngân sách nhà nước để thúc đẩy STI.
Nét
đặc trưng của hệ sinh thái ngành ICT
Phát
triển bền vững chắc chắn đi đôi với việc đảm bảo
an ninh và chủ quyền quốc gia, trong đó có an ninh thông
tin - dữ liệu và các hệ thống ICT trong bối cảnh mới
hiện nay của thế giới, đặc biệt khi mà chiến tranh
không gian mạng đã và đang diễn ra hàng ngày, bất kỳ
lúc nào.
Như
nhiều tài liệu và bài viết đã chỉ ra trong thời gian 3
năm trở lại đây, cả ngoài nước lẫn trong nước, để
có khả năng đảm bảo được nhiệm vụ này, các phần
mềm, đặc biệt là các phần mềm được sử dụng trong
các hệ thống thông tin của chính phủ, phải không được
phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất; chính phủ
phải có được quyền trí tuệ không hạn chế đối với
mã nguồn của các phần mềm, đồng nghĩa với việc các
phần mềm đó được phát triển theo các nguyên tắc của
phát triển công nghệ mở, mà một trong những nét đặc
trưng của nó là được phát triển liên tục với những
đổi mới từng tí một, ngày này qua ngày khác bởi một
cộng
đồng 4 thành phần: (1) khu vực nhà nước; (2) khu vực
tư nhân; (3) các trường đại học; (4) cộng đồng các
lập trình viên, những người tích hợp hệ thống, những
người bản địa hóa và những người sử dụng. Nói một
cách khác, mô hình công nghệ mở nhấn mạnh tới việc
“Cộng đồng trước, công nghệ sau”. Cộng đồng là
trọng tâm, các công ty tham gia vào trong cộng đồng. Xem:
“Xây dựng phần mềm và hệ thống thông tin trong quân
đội và chính phủ: Cộng đồng trước, công nghệ sau“
đăng trên tạp
chí Tin học và Đời sống, số tháng 06/2011, trang 72-75.
Có
thể nhận thấy, mô hình phát triển công nghệ mở, dựa
vào cộng đồng và sự đồng vận của 4 thành phần ở
trên là có sự khác biệt với mô hình quan hệ đối tác
công - tư PPP (Public - Private Partnership).
Phát
triển công nghệ mở cho phép Việt Nam sử dụng mọi công
nghệ hiện có trong phần mềm, khi mà mô hình phát triển
các phần mềm tự do nguồn mở là mô hình toàn cầu hóa,
cho phép cùng một lúc cộng đồng thế giới và cộng
đồng bản địa địa phương (như của Việt Nam) cộng
tác cùng phát triển, với cộng đồng bản địa địa
phương đấu tranh cho những khác biệt của mình.
Phát
triển công nghệ mở cho phép Việt Nam sử dụng các công
nghệ với không chỉ các bằng sáng chế phần mềm nằm
trong miền công cộng, những bằng sáng chế đã hết hạn
bảo hộ sau 20 năm kể từ lúc ban hành. Hãy
thử tưởng tượng, làm thế nào các hệ thống thông tin
của chính phủ và các hệ thống sống còn khác như
dầu/khí/điện/hóa/dược/nguyên tử/giao thông... lại có
được an ninh an toàn khi chỉ được sử dụng các bằng
sáng chế có trong Windows 95 sau năm 2015, dù không phải tất
cả điều này là đúng (nhiều bằng sáng chế phần mềm
trong Windows 95 được công bố từ trước đó), nhưng ví
dụ này giúp cho ta cảm nhận được tính chất và phạm
vi của vấn đề.
Nói
một cách khác, phát triển công nghệ mở cho phép Việt
Nam “Chú trọng nghiên cứu thích nghi và làm chủ công
nghệ nhập”, chính là những gì cần thiết cho chiến
lược phát triển KHCN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đối
với phần mềm trong hệ sinh thái ICT.
Những
thực tiễn hiện đang xảy ra trên thế giới đã và đang
chỉ ra rằng, các bằng sáng chế phần mềm không những
không khuyến khích đổi mới, mà ngược lại, đang cản
trở đổi mới. Các bằng sáng chế phần mềm đang bị
các quỷ lùn bằng sáng chế (Patent Troll), những thực thể
không làm ra của cải cho xã hội, lợi dụng hệ thống
bằng sáng chế còn nhiều lỗ hổng bằng cách dùng tiền
để mua bán các bằng sáng chế phần mềm và kiện các
công ty phần mềm ra tòa để moi tiền của các công ty
đó. Các bằng sáng chế phần mềm còn là nguy cơ dẫn
tới sự tuyệt chủng của các công ty phần mềm Việt
Nam. Xem: “Bằng sáng chế phần mềm - Nguy cơ tuyệt chủng
của các công ty phần mềm Việt Nam?” đăng trên tạp
chí Tin học và Đời sống, số tháng 09/2011, trang 58-63.
Một
so sánh khác, dù tương đối khập khiễng, để xem một
cách tương đối liệu Việt Nam có khả năng kham được
các bằng sáng chế phần mềm hay không: Attachmate
mua hãng phần mềm Novell vào đầu năm 2011 cùng với 882
bằng sáng chế phần mềm với giá 2.2 tỷ USD, tương
đương với 44.000 tỷ VNĐ, tương đương với 44 lần tiền
của Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia được nêu ở
trên, và với số tiền 1.000 tỷ VNĐ, chúng ta có thể mua
được khoảng 20 bằng sáng chế phần mềm như trong vụ
mua sắm này, biết rằng, chỉ riêng trong vụ Google mua
Motorola Mobile với giá 12.5 tỷ USD vào tháng 08/2011, đã có
tới 15.000 bằng sáng chế đi kèm và 7.500 bằng đang chờ
được cấp.
Điều
tình cờ thú vị là hội thảo diễn ra cùng thời gian với
kiến nghị “Chỉ
thị cho Văn phòng Bằng sáng chế dừng cấp phát các bằng
sáng chế phần mềm” từ ngày 23/09/2011 tới ngày
23/10/2011 trên website của Nhà Trắng của nước Mỹ, theo
đó nếu kiến nghị có được 5.000 chữ ký trong thời
hạn 1 tháng như nêu ở trên, thì chính quyền của Tổng
thống Obama sẽ trả lời các công dân bằng văn bản.
Ngay trong ngày đầu tiên 23/09/2011, kiến nghị đã nhận
được khoảng 4.500 chữ ký; còn trong ngày diễn ra hội
thảo 05/10/2011, con số này đã là hơn 13.000; kết thúc
thời hạn con số đạt được là 14.360. Để có thể so
sánh được sức nóng của kiến nghị này, có thể so
sánh với một kiến nghị khác cũng trên website của Nhà
Trắng, như kiến nghị điều
tra sử dụng chất độc màu da cam được sử dụng ngoài
Việt Nam với cùng quãng thời gian, từ ngày 22/09/2011
tới ngày 22/10/2011, mới chỉ nhận được gần 300 chữ
ký cho tới ngày 05/10/2011 và khi kết thúc thời hạn, con
số không vượt qua được 1.000. Điều này cho thấy, hệ
thống bằng sáng chế phần mềm là có vấn đề, thậm
chí cả với các công ty và những người làm việc trong
lĩnh vực phần mềm ngay tại nước Mỹ.
Trên
thế giới có phong trào đấu tranh nhằm chấm dứt các
bằng sáng chế phần mềm, End
Software Patents (Chấm dứt các bằng sáng chế phần
mềm). Phong trào phần mềm tự do nguồn mở ủng hộ
phong trào này. Nhiều nước trên thế giới cấm hoàn toàn
việc áp dụng bằng sáng chế vào phần mềm. Xem: “Phát
triển công nghệ mở - Những bài học học được và
những thực tiễn tốt nhất cho các phần mềm quân sự”,
Bộ Quốc phòng Mỹ, 16/05/2011, trang 68, mục C.2.2. Các bằng
sáng chế.
Kết
luận
Để
đáp ứng được vai trò chiến lược phát triển KHCN Việt
Nam giai đoạn 2011-2020, hướng tới phát triển bền vững
và tự chủ các công nghệ nhập, cần thiết và nên đưa
công nghệ mở thành một công nghệ then chốt cần ưu
tiên phát triển trong chiến lược KHCN Việt Nam giai đoạn
2011-2020, nhấn mạnh tới đặc thù của sự đồng vận
và phát triển hài hòa của cả 4 thành phần của cộng
đồng phần mềm tự do nguồn mở, công nghệ mở trong
lĩnh vực ICT như là một mở rộng khác của mô hình PPP,
như PPPP (Public-Private-Patriotism-Partnership), và gọi là mô
hình cộng đồng công nghệ mở OTC (Open Technology
Community).
Những
hệ quả kéo theo của việc này đối với sự đổi mới
trong một số văn bản pháp luật gồm:
- Có những sửa đổi phù hợp cho phát triển công nghệ mở trong các luật sở hữu trí tuệ và bản quyền phần mềm.
- Loại bỏ bằng sáng chế phần mềm ra khỏi danh sách các vấn đề được pháp luật Việt Nam bảo vệ.
Trần
Lê
Bài
được đăng trên tạp chí Tin học và Đời sống, số
tháng 11/2011, trang 72-75.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.