Open
Source Licensing Defuses Copyright Law’s Threat to Medicine
By Steve
Tokar on December 28, 2011
Theo:
http://www.ucsf.edu/news/2011/12/11231/open-source-licensing-defuses-copyright-laws-threat-medicine
Bài được đưa lên
Internet ngày: 28/12/2011
Lời
người dịch: Đây là một câu chuyện thú vị về việc
các nguyên lý cấp phép “copyleft” của phần mềm
tự do mà Richard Stallman đặt ra từ năm 1984 cần phải
được áp dụng cho các sáng tạo trong, ít nhất là,
sản xuất các thiết bị y tế, phục vụ cho việc
chăm sóc các bệnh nhân, thay vì việc có thể xảy ra là:
“trong vòng 20 năm nữa, chúng ta có thể ở trong
một thế giới nơi mà các bác sỹ đi ra hành lang
phỏng vấn các bệnh nhân, họ thu thập các phí cấp
phép mà họ cần phải trả để tiến hành công việc
hàng ngày của họ, và các bệnh viện sẽ kiện lẫn nhau
hoặc tiến hành các thỏa thuận liên cấp phép để quản
lý từng sở hữu trí tuệ khác. Nó không có ý nghĩa
về việc thúc đẩy sự tiến bộ và đổi mới sáng tạo,
mà nó là hệ quả tiềm tàng của luật”. Mới thấy,
công nghệ mở không chỉ trong lĩnh vực CNTT-TT.
Việc bắt phải tôn
trọng luật bản quyền có thể can thiệp một cách tiềm
tàng với chăm sóc bệnh nhân, bóp nghẹt đổi mới sáng
tạo và không khuyến khích nghiên cứu, nhưng việc sử
dụng cấp phép nguồn mở có thể ngăn chặn được vấn
đề này, theo một bác sỹ - người thực hành ở cả Đại
học California, San Francisco và Trung tâm Y tế VA tại San
Francisco - và một học giả về pháp lý tại trường Cao
đẳng Luật UC Hastings.
Enforcing
copyright law could potentially interfere with patient care, stifle
innovation and discourage research, but using open source licensing
instead can prevent the problem, according to a physician – who
practices both at the University of California, San Francisco and the
San Francisco VA Medical Center – and a legal scholar at the UC
Hastings College of Law.
John Newman, MD, PhD
“Từ lâu, các bác
sỹ đã có khả năng phớt lờ bản quyền, nhưng điều
đó đang thay đổi theo một cách đột ngột”, John
Newman, Bác sỹ, Giáo sư của UCSF và SFVAMC, nói.
“Thực hành về bản
quyền đang tạo ra một mối đe dọa cho chăm sóc y tế cơ
sở”, Robin Feldman, JD, giáo sư về luật và Giám đốc Dự
án Luật và Khoa học Sinh học tại UC Hastings, nói.
Họ thảo luận vấn
đề này trong một “Quan điểm” trong số 29 tháng 12 của
Tạp chí Nước Anh Mới về Y tế.
Vụ việc này đã
nhắc tới phân tích của Newman và Feldman từng là sự
loại bỏ khỏi Internet Sweet 16, một công cụ đánh giá y
tế tự do sẵn có được các bác sỹ sử dụng để soi
những người bệnh về các vấn đề có liên quan. Công
cụ này đã bị bỏ vì hành động pháp lý của những
người sáng tạo một công cụ tương tự gọi là Khám
Tình trạng Bệnh nhân cỡ Nhỏ (MMSE - Mini - Mental State
Examination).
Các công cụ y tế có
xu hướng cái nọ giống cái kia, Newman nói, “không phải
vì các nhà sáng chế của chúng là không độc đáo, mà
vì các công cụ sẽ dựa vào cùng nghiên cứu và cùng
khoa học”.
Newman và Feldman nhớ
lại năm 2000, các nhà sáng tạo của MMSE, được xuất
bản lần đầu vào năm 1975 và “chuẩn de facto cho việc
soi chiếu liên quan”, đã bắt đầu bắt tuân thủ các
quyền sở hữu; sớm sau đó, họ đã bắt đầu thay đổi
một phí cấp phép cho từng bản sao của xét nghiệm. Vào
tháng 03/2011, the Sweet 16, mà có chứa các dạng câu hỏi
có khả năng so sánh được, đã bị loại bỏ khỏi miền
công cộng theo yêu cầu của những người sáng tạo ra
MMSE. Newman đã gọi điều đó là “trường hợp đầu
tiên tôi nhận thức được về đâu là một công cụ y
tế đã bị bỏ khỏi sự xuất bản trong một cuộc tranh
cãi về bản quyền”. Các tác giả của MMSE đã không
bình luận về sự việc này.
“For
a long time, doctors have been able to ignore copyright, but that is
changing in a dramatic way,” said John Newman, MD, PhD, of UCSF and
SFVAMC.
“The
exercise of copyright is creating a threat to basic medical care,”
said Robin Feldman, JD, professor of law and Director of the Law and
Bioscience Project at UC Hastings.
They
discuss the issue in a “Perspective” in the Dec. 29 issue of the
New England Journal of
Medicine.
The
incident that prompted Newman and Feldman’s analysis was the
removal from the internet of the Sweet 16, a freely available
clinical assessment tool used by physicians to screen patients for
cognitive problems. The tool was taken down because of legal action
by the creators of a similar tool called the Mini-Mental State
Examination (MMSE).
Clinical
tools tend to resemble one another, Newman said, “not because their
creators are unoriginal, but because the tools are based on the same
research and the same science.”
Newman
and Feldman recount that in 2000, the creators of the MMSE, first
published in 1975 and “the de facto standard for cognitive
screening,” began to enforce ownership rights; soon after, they
started charging a licensing fee for each copy of the examination. In
March 2011, the Sweet 16, which contained comparable types of
questions, was removed from the public domain at the request of the
MMSE creators. Newman called it “the first case I am aware of where
a clinical tool was taken down from publication in an apparent
copyright dispute.” The authors of the MMSE have not commented on
the case.
Newman nói rằng vụ
việc đó có thể có những tác động rất rộng lớn vì
có “hàng trăm và hàng ngàn các công cụ chúng ta sử
dụng trong y tế hàng ngày để đưa ra các quyết định y
tế về một bệnh nhân - từ việc đánh giá sự đau đớn
tới việc đánh giá tình trạng chức năng tới việc kiểm
thử liên quan tới việc quyết định rủi ro của ai đó
về giải phẫu - chúng đều rơi vào theo luật bản
quyền”. Những người sáng tạo ra chúng “có thể quyết
định làm thứ y hệt mà các tác giả của MMSE đã làm -
bắt đầu lấy tiền đối với việc sử dụng chúng và
ý định loại bỏ khả năng của các công cụ có thể so
sánh được”.
Kết quả đánh mạnh
của các hành động pháp lý có thể không chỉ ảnh hưởng
tới sự chăm sóc bệnh nhân, mà còn cản trở sự cải
tiến các công cụ y tế, Feldman nói. “Theo truyền thống,
trong y tế, các cuộc kiểm thử đã được tạo ra, mọi
người đã chia sẻ công việc của họ, và ai đó đã cải
tiến công việc đã chia sẻ những cải tiến của họ”,
bà nói. “Không rào cản được mong đợi nào sẽ được
dựng lên xung quanh các công việc đó, và sau đó một
khoản tiền thuế phải trản để đi qua hàng rào”.
Để ngăn ngừa một
kịch bản như vậy, Newman và Feldman khuyến cáo rằng các
nhà sáng chế các công cụ mới và đang hiện hành đặt
các công việc của họ theo bản quyền của nguồn mở,
được biết tới như là “copyleft”.
Theo
bản quyền nguồn mở, Feldman giải thích, “tác giả vẫn
giữ tất cả các quyền đối với công việc, như theo
bản quyền truyền thống, nhưng trao cho bất kỳ ai khác
quyền tự do sử dụng, sửa đổi, sao chép và phân phối
công việc đó, miễn là họ làm thế theo đúng ý hệt
những điều khoản mở đó”.
Google, Apple, Facebook
và Twitter tất cả đều sử dụng các phần mềm nguồn
mở bên trong các sản phẩm của họ, Feldman nói. “Đây
là một phương pháp được phát triển và được tôn
trọng rất tốt đối với việc bảo vệ bản quyền,
trong khi vẫn cho phép sử dụng công khai và khuyến khích
cải tiến tiếp tục”.
Newman
said that the incident could have very wide-ranging effects because
there are “hundreds and hundreds of tools that we use in medicine
every day to make clinical decisions about a patient – from
assessing pain to assessing functional status to doing cognitive
testing to deciding someone’s risk of a hip fracture – that fall
under copyright law.” Their creators “could decide to do the same
thing that the authors of the MMSE did – start charging for their
use and attempt to shut down the availability of comparable tools.”
The
resulting flurry of legal actions would not only affect patient care,
but impede the improvement of clinical tools, Feldman said.
“Traditionally, in medicine, tests were created, people shared
their work, and those who improved the work shared their
improvements,” she said. “No one expected fences to be erected
around these works, and then a toll charged to cross the fence.”
To
prevent such a scenario, Newman and Feldman recommend that the
creators of new and existing clinical tools place their works under
open source copyright, known colloquially as “copyleft.”
Under
open source copyright, explained Feldman, “the author retains all
rights to the work, as in traditional copyright, but grants everyone
else the right to freely use, modify, copy, and distribute that work,
as long as they do so under the same open terms.”
Google,
Apple, Facebook and Twitter all make use of open source software
within their products, Feldman said. “It’s a very well-developed
and well-respected method of protecting copyright while allowing
public use and encouraging continual improvement.”
Newman đã đồ rằng
nếu bản quyền nguồn mở không được áp dụng trong y
tế, thì “trong vòng 20 năm nữa, chúng
ta có thể ở trong một thế giới nơi mà các bác sỹ đi
ra hành lang phỏng vấn các bệnh nhân, họ thu thập các
phí cấp phép mà họ cần phải trả để tiến hành công
việc hàng ngày của họ, và các bệnh viện sẽ kiện lẫn
nhau hoặc tiến hành các thỏa thuận liên cấp phép để
quản lý từng sở hữu trí tuệ khác. Nó không có ý
nghĩa về việc thúc đẩy sự tiến bộ và đổi mới
sáng tạo, mà nó là hệ quả tiềm tàng của luật”.
Newman đã thừa nhận
rằng những người sáng chế ra MMSE “đã hành động
theo luật. Đây không phải là về những hành động của
một người hoặc một công ty, mà về cách mà luật áp
dụng cho công việc của chúng ta trong y tế. Chúng ta càn
phải sửa vấn đề này ở một phạm vi toàn cầu và
thay đổi cách mà chúng ta hành xử, vì bất kỳ ai trong
chúng ta cunggx có thể chọn để hành động theo cách y
hệt”.
SFVAMC có chương trình
nghiên cứu y học lớn nhất trong hệ thống VA quốc gia,
với hơn 200 nhà khoa học nghiên cứu, tất cả họ là các
thành viên của khoa tại UCSF.
UCSF là một đại học
hàng đầu chuyên thúc đẩy y tế toàn cầu thông qua
nghiên cứu y sinh, giáo dục mức đại học trong các khoa
học đời sống và các nghề nghiệp về sức khỏe, và
tuyệt vời trong chăm sóc bệnh nhân.
Newman
speculated that if open source copyright is not employed in medicine,
“In 20 years, we could be in a world where as physicians walk down
the hallway interviewing patients, they’re tallying up the
licensing fees they need to pay for doing their day’s work, and
hospitals are suing each other or making cross-licensing arrangements
to manage each other’s intellectual property. It doesn’t make
sense in terms of fostering progress and innovation, but it’s a
potential consequence of the law.”
Newman
acknowledged that the creators of the MMSE “were acting under the
law. This is not about the actions of one person or one company, but
about how the law applies to our work in medicine. We need to fix the
problem on a global scale and change the way we behave, because any
one of us might choose to act in the same way.”
SFVAMC
has the largest medical research program in the national VA system,
with more than 200 research scientists, all of whom are faculty
members at UCSF.
UCSF
is a leading university dedicated to promoting health worldwide
through advanced biomedical research, graduate-level education in the
life sciences and health professions, and excellence in patient care.
Dịch tài liệu: Lê
Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.