Open
Science in Indonesia
Lisa Matthias
2018-05-22
Bài được đưa
lên Internet ngày: 22/05/2018
Xem
thêm: Khoa
học Mở - Open Science
*Cảm ơn Afrilya,
Surya Dalimunthe, Sami Kandha Dipura, và Dasapta Erwin Irawan từ
Đội Khoa học Mở Indonesia về đóng góp đầu vào giá
trị của họ cho bài viết này.
Tháng trước, Viện
Nghiên cứu và Giáo dục Phân phối Toàn cầu - IGDORE
(Institute for Globally
Distributed Open Research and Education) đã tổ chức cuộc
gặp đầu tiên về Khoa học Mở ở Ubud, Indonesia. Bất
chấp chỉ là một nhóm nhỏ những người tham gia, nhiều
quốc tịch, lĩnh vực, và ngành nghề khác nhau đã có đại
diện. Trong sự kiện dài 5 ngày đó,
các dự án khoa học mở như Conscience,
Curate Science,
và Open
Science MOOC đã được trình bày, các chủ đề có liên
quan tới nghiên cứu chung nhiều hơn như việc phát hiện
ứng xử sai về khoa học đã được thảo luận, và Tim
Sains Terbuka Indonesia (Đội Khoa học Mở Indonesia) đã đưa
sự thấu hiểu vào những cố gắng và các rào cản đối
với khoa học mở ở Indonesia.
Trước khi nhúng
sâu vào các thách thức trong việc tham gia và/hoặc biện
hộ cho khoa học mở ở Indonesia, vài thông tin cơ bản về
hệ thống giáo dục đại học của quốc gia này:
-
Indonesia có hơn 4.600 cơ sở giáo dục đại học. Trong khi các trường bách khoa và viện hàn lâm là để giành được các bằng đại học và chương trình giảng dạy của chúng gồm 80% các hoạt động thực hành, thì các trường đại học và các trường học tập trung vào các trình độ dưới đại học, đại học, và tiến sỹ.
-
0.08% tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia. (Để so sánh, con số này của các quốc gia EU (trung bình) và Mỹ là 2.02 và 2.74 một cách tương ứng).
-
Vào năm 2016, Quỹ Khoa học Indonesia đã được thành lập để gia tăng đầu tư vào nghiên cứu, nhưng đã tuyên bố rwangf nó không phân bổ được các vốn cấp đầu năm nay.
Bức tranh xuất
bản hàn lâm của Indonesia
Tất cả các tạp
chí được xuất bản ở Indonesia là truy cập mở. Thư
mục các Tạp chí Truy cập Mở -
DOAJ (Directory
of Open Access Journals) hiện liệt kê 1.318 tạp chí của
Indonesia và dựa vào dữ
liệu từ Dự án Tri thức Công cộng 2.097 tạp chí của
Indonesia từng sử dụng phần mềm các Hệ thống Tạp chí
Mở vào năm 2016. Tất cả các tạp
chí của Indonesia được nhúng vào các trường đại học,
ngụ ý chúng hoạt động chủ yếu
qua cấp vốn của các cơ sở.
Hệ quả là, các tạp chí của
Indonesia có thể tự chúng bền
vững mà không cần lấy tiền
các khoán phí xử lý bài báo -
APC (Article Processing Charges) như
chúng tôi đang thấy ở phương Tây, trung bình khoảng
1.400
USD – 2.700 USD (phụ thuộc vào dạng tạp chí và các
nhà xuất bản). Để so sánh, 75%
các tạp chí truy cập mở của Indonesia hoàn toàn không
lấy tiền APC, trong khi phần còn lại chỉ lấy tối đa
150 USD.
Cơ quan chứng nhận
tạp chí quốc gia, ARJUNA (Akreditasi Jurnal Nasional), đánh
giá chất lượng các tạp chí của Indonesia và đảm bảo
các tiêu chuẩn và thực hành khoa học tốt. Cơ quan chứng
nhận này đã được thành lập để cải thiện chất
lượng các tạp chí của Indonesia và quốc tế hóa các
tạp chí được công nhận. Hơn nữa, chính phuru cũng cung
cấp trợ cấp 3 năm một lần để hỗ trợ các tạp chí
để trở thành quốc tế.
Chính sách quốc
gia về đánh giá giảng viên
Hệ thống giáo
dục của Indonesia là tập trung về trung ương và vì thế
tất cả các cơ sở giáo dục đại học phải tuân theo
chính sách y như nhau. Chính phủ đã thành lập các quy
định quốc gia về đánh giá giảng viên để thăng tiến
(Permendikbud no. 92 Tahun 2014, revised Permenristekdikti No
20/2017). Các chỉ tiêu đánh giá gồm các xuất bản
phẩm trên các tạp chí quốc tế có uy tín và được
công nhận, cũng như “yếu tố ảnh hưởng của tạp
chí, việc đánh chỉ mục tạp chí và [đếm các trích
dẫn]” (Irawan,
2017). Bảng bên dưới chỉ ra đánh giá xếp hạng các
nền tảng đánh chỉ mục khác nhau. Thú vị, chính phủ
Indonesia xếp hạng các dịch vụ đánh chỉ mục quốc gia
của họ (được đánh dấu bằng *) thấp hơn các nền
tảng của phương Tây, như Web of Science và Scopus.
Hệ thống trình
độ các nền tảng đánh chỉ mục khác nhau
Trình
độ
|
Các
nền tảng đánh chỉ mục
|
Cao
|
1. Thomson
Reuters/Web of Science,
2. Scopus 3. Bất kỳ nền tảng tương đương nào khác |
Trung
bình
|
1.
Directory of Open Access Journal (DOAJ)
2. EBSCO 3. Pubmed 4. Gale 5. Proquest 6. Chemical Abstract Services Compendex 7. Engineering Village 8. Inspec 9. ASEAN Citation Index (ACI) 10. Bất kỳ nền tảng tương đương nào khác |
Thấp
|
1. Google
Scholar
2. Indonesian Publication Index (portalgaruda.org)* 3. ISJD* 4. Moraref 5. Mendeley 6. CiteULike 7. WorldCat 8. Sherpa/Romeo 9. Bất kỳ nền tảng tương đương nào khác |
Vào tháng 01/2017,
Bộ Nghiên cứu, Công nghệ và Giáo dục Đại học của
Cộng hòa Indonesia đã tung ra Chỉ số Khoa học và Công
nghệ - SINTA (Science and Technology Index) để đánh giá năng
suất các xuất bản phẩm của các nhà nghiên cứu. SINTA
sử dụng dữ liệu từ Sopus và Google Scholar. Tuy
nhiên, không tạp chí tiếng
Indonesia nào được đánh chỉ mục trong Scopus, điều gây
bất lợi cho các học giả có mức độ thành thạo thấp
về tiếng Anh. Dù vậy,
tiếng Anh được dạy từ nhỏ tuổi ở nhiều nơi, thường
là ngôn ngữ thứ 3 hoặc 4 cho người Indonesia.
Ngoài việc đối
mặt rào cản ngôn ngữ trong việc cố gắng hoàn thành
chính sách của chính phủ, người Indonesia còn phải vượt
qua vấn đề tài chính. Vì các tạp chí của Indonesia là
bẩm sinh truy cập mở, khái niệm truy cập mở xanh là khá
mới. Vì thế, nếu các nhà nghiên cứu muốn xuất bản
tác phẩm của họ truy cập mở và hoàn thành với các
tiêu chí đánh giá của chính phủ của họ để xuất bản
trên các tạp chí xếp hạng cao, họ thường vật lộn để
trang trải các APC. Dù những người
Indonesia có sự giàu có các tạp chí truy cập mở tự do
và chi phí thấp, họ thường miễn cưỡng xuất bản ở
các nơi đó vì nó cản trở sự nghiệp của họ vì không
được xếp hạng đủ cao theo các tiêu chí đánh giá.
Những các nhà nghiên cứu đã thấy cách thức để làm
cho nghiên cứu của họ thành truy cập mở không mất
tiền, và nhận được tín dụng cho nghiên cứu bằng
tiếng Indonesia: Họ có thể tải các tài liệu nghiên cứu
của họ lên INA-Rxiv,
máy chủ trước in của Indonesia được Dasapta Erwin Irawan
thành lập vào năm 2017, và kể từ khi INA-Rxiv được đánh
chỉ mục bởi Google Scholar có được sự thừa nhận cho
tất cả các bài báo hàn lâm của họ bất kể ngôn ngữ
nào.
Cấp vốn cho
các cơ hội cho những người Indonesia
Như được nêu ở
trên, Indonesia chỉ đầu tư 0,08% GDP vào nghiên cứu và
phát triển. Sự thiếu hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu
có các hậu quả quan trọng. Trước hết, cạnh tranh về
các trợ cấp chính phủ cho nghiên cứu là cực kỳ cao.
Vào năm 2015, chỉ 15.000
trợ cấp trị giá tổng cộng khoảng 80 triệu £
đã được trao, trong khi số lượng các nhân viên hàn lâm
ước tính là 120.000 vào năm sau. Tuy nhiên, các quyết định
cấp vốn là dựa vào các xuất bản phẩm được đánh
chỉ mục trên Scopus hoặc WoS, những nơi các nhà nghiên
cứu không lên tiếng, hoặc chỉ ít lên tiếng, vì tiếng
Anh là điểm yếu. Một lý do có thể cho điều này là
chính phủ Indonesia muốn cải thiện cấp thế giới trong
giáo dục đại học của họ và phổ biến sử dụng của
người hàng xóm Malaysia như là chuẩn mực. Hiện hành,
Malaysia tiến rất xa về các xuất bản phẩm quốc tế.
Một phần của lý do cho điều này là a) Người Malaysia
học tiếng Anh như là ngôn ngữ thứ 2 của họ, và b)
Malaysia có ngân sách lớn hơn cho các trường đại học,
điều ngụ ý là các nhà nghiên cứu có nhiều thời gian
hơn để nghiên cứu và xuất bản các tài liệu. Dasapta
Erwin Irawan nói “Một cách khác để xem xét nó là
chính phủ có thể thúc đẩy sử dụng tiếng Indonesia,
nhưng họ không chọn điều đó. Nên có cách thức để
làm việc tương xứng hướng tới mục tiêu đạt được
vị thế quốc tế khá tốt, trong khi cùng lức thúc đẩy
sử dụng tiếng Indonesia ở phạm vi rộng, đặc biệt cân
nhắc các nỗ lực bổ sung từ chính phủ để nâng cao
chất lượng của tạp chí quốc gia”.
Một hệ quả khác
của ngân sách nghiên cứu và phát triển bị hạn chế là
các nhân viên hàn lâm đối mặt với các tải công việc
dạy học nặng nề và đôi khi phải nắm lấy các công
việc thêm để có được thu nhập ổn định. Điều
này cũng ngụ ý rằng nhiều
nhà nghiên cứu bị tụt hậu trong tiến hành nghiên cứu
tiêu chuẩn quốc tế vì không có nguồn vốn và rất ít
thời gian.
Thứ 3, như một
sự lựa chọn, hệ thống cấp vốn phi chính phủ là cần
thiết. Sự thành lập Quỹ Khoa học Indonesia nhằm vào
việc gia tăng các vốn cấp sẵn sàng cho nghiên cứu, như
vòng cấp vốn đầu đã bị chậm trễ vì các khó khăn
trong phân bổ các vốn cấp.
Nhìn vào ngữ cảnh
của Indonesia, vài sự tương tự đối với Khu vực Nghiên
cứu châu Âu xuất hiện, như việc đối mặt với APC cao
và câu hỏi về việc ưu đãi cho khoa học mở và không
ưu đãi cho khoa học đóng. Tuy nhiên, những gì có
lẽ là thú vị để khai thác thêm và nhìn sát hơn vào là
việc xuất bản ở Indonesia, tương tự với Mỹ Latin, là
các học giả dẫn dắt và các học giả sở hữu, điều
hiếm thấy, nếu có, thấy ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Để học được
của nhau và cải thiện cách nghiên cứu được thực
hiện, là quan trọng phải hạ thấp các rào cản cho sự
tham gia. Điều này có thể ngụ ý cung cấp các nơi chốn
xuất bản chi phí thấp, chuyển hội thoại tới phần
khác của thế giới, hoặc nỗ lực giao tiếp trong ngôn
ngữ khác. Nhờ vào IGDORE,
bây giờ có hub khoa học mở ở Indonesia khuyến khích các
thảo luận và cộng tác đa dạng. Nếu khoa học mở là
về sự tham gia, bình đẳng, minh bạch, cộng tác, chia sẻ,
và tham gia toàn diện, thì chúng ta nên mở rộng các quan
điểm của chúng ta thường xuyên hơn, không ngượng đối
với các đối thoại khó khăn, và lưu tâm về các hoàn
cảnh ngữ cảnh khác khi biện hộ cho các thực hành
nghiên cứu mở hoặc phát triển các công cụ mới.
*Terima
kasih to Afrilya, Surya Dalimunthe, Sami Kandha Dipura, and Dasapta
Erwin Irawan from the Open Science Team Indonesia for their valuble
input for this post.
Last
month, the Institute
for Globally Distributed Open Research and Education (IGDORE)
hosted their first Open Science Meetup in Ubud, Indonesia. Despite
being a small group of participants, many different nationalities,
disciplines, and professions were represented. During the 5-day
event, open science projects like Conscience,
Curate Science,
and the Open
Science MOOC were presented, more general research-related topics
like disclosing scientific misconduct were discussed, and Tim Sains
Terbuka Indonesia (Open Science Team Indonesia) provided insight into
Indonesian open science endeavors and barriers.
Before
diving into the challenges in practicing and/or advocating for open
science in Indonesia, some background information about the country’s
higher education system:
-
Indonesia has more than 4,600 higher education institutions. While polytechnics and academy are for obtaining diplomas and their curricula consist of 80% practical activities, universities and schools focus on undergraduate, graduate, and doctoral degrees.
-
0.08% of the country’s gross domestic product. (As a comparison, the amounts of EU countries (average) and the US are 2.02 and 2.74 respectively).
-
In 2016, the Indonesian Science Fund was founded to increase investment in research, but announced that it failed to allocate funds earlier this year.
Indonesian
Scholarly Publishing Landscape
All
journals published in Indonesia are open access. The Directory
of Open Access Journals currently lists 1,318 Indonesian journals
and based on data
from the Public Knowledge Project 2,097 Indonesian journals were
using the Open Journal Systems software in 2016. All Indonesian
journals are embedded in universities, which means they operate
mainly through institutional funding. As a consequence, Indonesian
journals can sustain
themselves without
charging Article Processing Charges (APCs) like we are seeing in the
West, averaging between $1,400
and $2,700 (depending on journal type and publisher). As a
comparison, 75% of
Indonesian open access journals do not charge APCs at all, while the
remaining 25% only charge a maximum of $150.
The
national journal accreditation body, ARJUNA (Akreditasi Jurnal
Nasional), evaluates the quality of Indonesian journals and ensures
good scientific standards and practices. The accreditation body has
been established to improve the quality of Indonesian journals and to
internationalize accredited journals. Additionally, the government
also provides a three-year grant to support journals in becoming
international.
National
Policy on Faculty Assessment
The
Indonesian education system is centralized and so all higher
education institutions must follow the same policy. The government
has established national regulations on evaluating faculty for
promotion (Permendikbud no. 92 Tahun 2014, revised Permenristekdikti
No 20/2017). These assessment
criteria include publications in accredited or reputable
international journals, as well as “journal impact factor, journal
indexing and [citation counts]”
(Irawan,
2017). The table below shows the ranking of diffferent indexing
platforms. Interestingly, the Indonesian government rates their
national indexing services (marked with *) lower than Western
platforms, such as Web of Science and Scopus.
Grading
system of various indexing platforms
Grade
|
Indexing
platforms
|
High
|
1. Thomson
Reuters/Web of Science,
2. Scopus 3. any other equivalent platform |
Middle
|
1. Directory of
Open Access Journal (DOAJ)
2. EBSCO 3. Pubmed 4. Gale 5. Proquest 6. Chemical Abstract Services Compendex 7. Engineering Village 8. Inspec 9. ASEAN Citation Index (ACI) 10. Any other equivalent platform |
Low
|
1. Google
Scholar
2. Indonesian Publication Index (portalgaruda.org)* 3. ISJD* 4. Moraref 5. Mendeley 6. CiteULike 7. WorldCat 8. Sherpa/Romeo 9. Any other equivalent platforms |
In
January 2017, the Ministry of Research, Technology and Higher
Education of the Republic of Indonesia launched the Science and
Technology Index (SINTA) to assess researchers’ publication
productivity. SINTA uses data from Scopus and Google Scholar.
However, no
Indonesian-language journals are indexed in Scopus, which
disadvantages scholars with a lower English proficiency.
Although, English is taught from an early age onwards in many places,
it often is the third or fourth language for Indonesians.
Besides
facing a language barrier in trying to fulfill their government’s
policy, Indonesians also have to overcome a financial issue. As
Indonesian journals are born open access journals, the concept of
green open access is relatively new. Hence, if researchers want to
publish their work open access and fulfill with their government’s
assessment criteria to publish in high-ranking journals, they often
struggle to cover the APCs. Although
Indonesians have a wealth of free and low cost open access journals,
they are often reluctant to publish in those venues as it hinders
their career by not ranking high enough in the assessment criteria.
But researchers have found a way to make their research open access
for free, and to receive credit for Indonesian-language research:
They can upload their research papers to INA-Rxiv,
the Indonesian preprint server founded by Dasapta Erwin Irawan in
2017, and since INA-Rxiv is indexed by Google Scholar get
acknowledged for all their scholarly articles regardless of the
language.
Funding
Opportunities for Indonesians
As
mentioned above, Indonesia invests only 0.08% of its GDP in research
and development. The lack of financial support for research has
critical consequences. First, competition for government grants for
research is extremely high. In 2015, only 15,000
grants worth a total of about £80 million were awarded, while
the number of academics was estimated at 120,000 the following year.
However, funding decisions are based on publications indexed in
Scopus or WoS, which places researchers that do not speak, or only
speak little, English at a disadvantage. One possible reason for that
is that Indonesian government wants to improve their higher education
world class rank and commonly uses the neighboring Malaysia as a
benchmark. Currently, Malaysia is far ahead in terms of international
publications. Part of the reason for this is that a) Malaysians learn
English as their second language, and b) Malaysia has a greater
budget for universities, which means that researchers have more time
to do research and publish papers. Dasapta Erwin Irawan says “Another
way to look at it is the government could have promoted the usage of
Indonesian language, but they chose not to.
There should be a way to proportionally work towards the goal of
achieving a fairly good international standing, while at the same
time promoting the usage of Indonesia language at wider scope,
especially considering the additional efforts from the government to
increase the quality of national journal.”
Another
consequence of the limited research and development budget is that
academics face heavy teaching workloads and sometimes have to take on
additional jobs to earn a sustainable salary. This is also means that
many researchers are
left to conduct international-standard research with no funding and
only very limited time.
Third,
alternative, non-governmental funding schemes are needed. The
establishment of the Indonesian Science Fund aimed at increasing
available research funds, but the first round of funding had to be
delayed due to difficulties in allocating the funds.
__________________________________________________
Looking
at the Indonesian context, some similarities to the European Research
Area appear, such as facing high APCs and the question of
incentivizing open science and disincentivizing closed
science. However, what
would be interesting to explore further and taking a closer look at
is that publishing in Indonesia, similar to Latin America, is
scholar-led and scholar-owned, which is rarely, if at all, seen in
Europe and North America.
In
order to learn from each other and improve the way research is done,
it is important to lower barriers to participation. This can mean
providing low cost publishing venues, moving the conversation to the
other side of the world, or making an effort to communicate in a
different language. Thanks to IGDORE,
there is now an open science hub in Indonesia that encourages diverse
discussions and collaborations. If open science is about
participation, equality, transparency, collaboration, sharing, and
inclusivity, we should broaden our perspectives more often, not shy
away from difficult conversations, and be mindful of the different
contextual circumstances when advocating for open research practices
or developing new tools.
Dịch: Lê Trung
Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.