(Bài
đăng trên tạp chí Tia Sáng số 4, xuất bản ngày
20/02/2020, các trang 24-27. Phiên bản điện tử có tại địa
chỉ:
http://www.tiasang.com.vn/-giao-duc/Phat-trien-tai-nguyen-giao-duc-mo-23020)
Để
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của
Liên Hiệp Quốc, giáo dục Việt Nam đã được xác định
phát triển theo hướng là hệ thống mở. Tuy nhiên Việt
Nam cần xác định hệ thống giáo dục mở đó gồm những
thành phần nào, thành phần nền tảng của nó là gì để
có thể tập trung các nguồn lực rất khiêm tốn của
mình vào đâu để phát triển có hiệu quả nhất hệ
thống đó.
Các tài
liệu quan trọng mang tính định hướng gần đây ở Việt
Nam như Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hay Luật Giáo dục
số 43/2019/QH14 đều khẳng định
hệ thống giáo dục quốc
dân của Việt Nam là
hệ thống giáo dục mở và
‘Phát triển hệ
thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm
tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục,
được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học
tập suốt đời’. Về
cơ bản, nó
tương tự như với mục
tiêu phát triển bền vững 4
- SDG 4
(Sustainable Development Goal
4)
của Liên Hiệp
Quốc
tới năm 2030 về giáo dục, nhằm: ‘đảm bảo
giáo dục chất lượng bao hàm toàn diện và công bằng và
thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả
mọi người’[1].
A.
Xác định thành phần nền tảng để tác động hiệu quả
nhất có thể
Định
nghĩa tài nguyên giáo dục mở (TNGDM) gần đây nhất trong
tài liệu Khuyến cáo TNGDM của UNESCO cuối năm 2019
gồm 2 mục sau[2]:
-
TNGDM là các tư liệu dạy, học và nghiên cứu ở bất kỳ định dạng và phương tiện nào mà nằm trong phạm vi công cộng hoặc có bản quyền đã được phát hành theo một giấy phép mở, cho phép những người khác không mất chi phí để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại.
-
Giấy phép mở tham chiếu tới giấy phép tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ của người nắm giữ bản quyền và đưa ra sự cho phép trao cho công chúng các quyền để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại các tư liệu giáo dục.
Các
cuộc hội thảo gần đây về giáo dục mở (GDM) và tài
nguyên giáo dục mở (TNGDM) ở Việt Nam đã cho thấy khái
niệm hệ thống GDM được hiểu theo nghĩa rộng với
nhiều khía cạnh của
“mở” như: mở cho mọi đối tượng học; mở về thời
gian học; mở về không gian học; mở về phương pháp
giảng dạy - đào tạo; mở về quan hệ đào tạo xuyên
quốc gia; mở về các loại hình học tập; mở rộng các
công nghệ học tập và công nghệ thông tin; bên cạnh
TNGDM[3].
Tương
tự, khái niệm
“Giáo dục Mở” có
thể được gắn
với văn hóa phát triển trong bối cảnh tự chủ giáo
dục, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa[4].
Thông
tin từ các hội thảo đó
cho thấy khái niệm
GDM được thế giới thừa nhận rộng rãi nhất cho tới
nay là trong Tuyên ngôn Giáo dục Mở Cape Town năm 2007 với
TNGDM là thành phần nền tảng của GDM[5].
Điều này là tương
tự như với định nghĩa GDM của Liên minh Xuất bản Học
thuật và Tài nguyên Hàn lâm - SPARC (Scholarly Publishing and
Academic Resources Coalition)[6].
B.
Mục
tiêu trong Khuyến cáo tài
nguyên giáo dục mở của
UNESCO
Dù được
thừa nhận rộng rãi rằng GDM không chỉ giới hạn trong
TNGDM nhưng GDM và TNGDM luôn đi liền với nhau và nhận
thức TNGDM là nền tảng của GDM được chứng minh qua các
cột mốc lịch sử phát triển của hai khái niệm đó
trong chương trình nghị sự quốc tế[7], từ Tuyên ngôn
Giáo dục Mở Cape Town năm 2007 cho tới các hội nghị
TNGDM thế giới năm 2012, năm 2017, và gần đây nhất là
ngày 25/11/2019, tại hội nghị toàn thể UNESCO lần thứ
40 ở Paris, nước Pháp, nơi 193 quốc gia đã phê chuẩn
Khuyến cáo TNGDM[8], nó khuyến cáo các quốc gia
thành viên UNESCO áp dụng các điều khoản của Khuyến
cáo nhằm phát triển TNGDM và hướng tới việc hoàn thành
các SDG của Liên hiệp quốc tới năm 2030, đặc biệt là
SDG 4 về giáo dục như được nêu ở trên ở từng quốc
gia theo năm khía cạnh mục tiêu, gồm:
-
Xây dựng năng lực: phát triển năng lực của tất cả các bên tham gia đóng góp chính cho giáo dục để tạo lập, truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi, và phân phối lại TNGDM, cũng như để sử dụng và áp dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế;
-
Phát triển chính sách hỗ trợ: khuyến khích các chính phủ, các nhà chức trách và các cơ sở giáo dục áp dụng thường xuyên khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép mở cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà nước cấp vốn, phát triển các chiến lược để xúc tác cho sử dụng và tùy biến thích nghi TNGDM để hỗ trợ cho giáo dục chất lượng cao, bao hàm toàn diện và học tập suốt đời cho tất cả mọi người, được nghiêu cứu thích hợp trong lĩnh vực này hỗ trợ;
-
Truy cập hiệu quả, bao hàm toàn diện và công bằng tới TNGDM chất lượng: hỗ trợ áp dụng các chiến lược và chương trình, bao gồm qua các giải pháp công nghệ thích hợp để đảm bảo TNGDM trong bất kỳ phương tiện nào được chia sẻ ở các định dạng và các tiêu chuẩn mở để tối đa hóa truy cập công bằng, đồng sáng tạo, giám tuyển, và khả năng tìm thấy được, bao gồm cho những người từ các nhóm bị tổn thương và những người khuyết tật;
-
Nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM: hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM ở các mức quốc gia, khu vực và cơ sở, và lên kế hoạch và kiểm thử thí điểm các dạng thức bền vững mới của giáo dục và học tập;
-
Khai thác và tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế: hỗ trợ hợp tác quốc tế giữa các bên tham gia đóng góp để tối thiểu hóa đúp bản không cần thiết trong các đầu tư phát triển TNGDM và để phát triển kho toàn cầu các tư liệu giáo dục đa dạng, phù hợp với địa phương, nhạy cảm với giới tính, truy cập được trong nhiều ngôn ngữ và định dạng.
C.
Hướng dẫn triển khai các hoạt động liên quan tới
Khuyến cáo TNGDM của UNESCO
Với
khía cạnh mục tiêu ‘Xây
dựng năng lực’ có liên quan tới ‘phát
triển năng lực của tất cả các bên tham gia đóng góp
chính cho giáo dục để tạo lập, truy cập, sử dụng
lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi, và phân phối
lại TNGDM, cũng như để sử dụng và áp dụng các giấy
phép mở theo cách thức ổn định với pháp luật bản
quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế’ và với
sự trợ giúp không thể thiếu của các công nghệ thông
tin và truyền thông (CNTT-TT), UNESCO đặc biệt quan tâm tới
năng lực CNTT-TT của các giảng viên, những người trước
hết cần có các năng lực và kỹ năng TNGDM để có thể
chiếm lĩnh được tri thức dễ dàng nhất mà không phải
đối mặt với các rào cản cả về tài chính, pháp lý
và kỹ thuật, để rồi từ đó đào sâu tri thức và
sáng tạo tri thức. Không là ngẫu nhiên UNESCO đã xuất
bản tài liệu ‘Khung năng lực CNTT-TT cho các giảng viên’
phiên bản 3 năm 2018 với mục tiêu cao nhất nhằm biến
các giảng viên thành những người sáng tạo với cấu
trúc Khung gồm 3
mức độ sử dụng sư phạm CNTT-TT, 6 khía cạnh thực
hành nghề giảng viên, 18
kỹ năng về
năng lực CNTT-TT của các giảng viên, như
được minh họa trên Hình
1.
Hình
1.
Các thành phần của ICT CFT v3 của UNESCO năm 2018[9]
Tới
nay, khoảng 20 quốc gia, tổ chức/cơ sở giáo dục trên
thế giới đã và đang phát triển khung năng lực này.
Điều quan trọng là tất cả các tài nguyên được sử
dụng để xây dựng các khung năng lực đó đều được
cấp phép mở và đều là TNGDM, cho phép bất
kỳ ai tùy biến thích nghi/sửa đổi chúng cho phù hợp
với ngữ cảnh của bất kỳ quốc gia và/hoặc cơ sở
nào khác muốn phát triển khung năng lực tương tự cho
mình[10]. Điều này có nghĩa là nếu chính phủ hay bất
kỳ tổ chức/cơ sở giáo dục nào của Việt Nam muốn
xây dựng cho mình khung năng lực CNTT-TT đều không phải
làm từ đầu, từ không có gì cả, mà sẽ xây dựng trên
cơ sở ‘đứng trên vai những người khổng lồ’.
Với
khía cạnh ‘Phát triển chính sách hỗ trợ’,
UNESCO và Khối thịnh vượng chung về học tập - COL
(Commonwealth of Learning) đã trình bày nó trong tài liệu
‘Các hướng dẫn phát triển chính sách TNGDM’
được xuất bản năm 2019. Phát triển chính sách TNGDM là
một quy trình với tầm nhìn dài hạn gồm 7 pha được
triển khai tuần tự như trên Hình 2, gồm: (1) Hiểu
tiềm năng của TNGDM; (2)
Xác
định tầm nhìn chính sách TNGDM; (3)
Lên
khung chính sách TNGDM; (4)
Tiến
hành phân tích khoảng cách; (5)
Thiết
kế kế hoạch tổng thể; (6)
Lập
kế hoạch điều hành và triển khai; và
(7)
Khởi
xướng chính sách TNGDM. Từng
trong số 7 pha đó đều được chi tiết hóa để bất
kỳ ai cũng có thể dựa vào và tùy biến
thích nghi chúng theo ngữ cảnh cụ thể của quốc gia/cơ
sở giáo dục khi phát triển chính sách TNGDM cho mình.
Hình
2: Quy trình xây dựng
chính sách OER
với 7 pha[11]
Ví dụ,
pha thứ 5 trong tổng số 7 pha là thiết kế kế hoạch
tổng thể với 8 bước: (1) Áp
dụng khung cấp phép mở; (2)
Tích
hợp TNGDM
vào chương trình giảng dạy; (3)
Đảm
bảo phát triển, lưu trữ và khả năng truy cập TNGDM;
(4) Điều
chỉnh phù hợp các thủ tục đảm bảo chất lượng; (5)
Hỗ
trợ xây dựng năng lực và nâng cao nhận thức về
TNGDM; (6) Khuyến
khích các mô hình kinh doanh bền vững và khởi xướng các
chiến lược cấp vốn; (7)
Thúc
đẩy nghiên cứu dựa vào bằng chứng về tác động của
TNGDM;
và (8) Có
cơ chế điều hành cho chính sách TNGDM.
Mỗi bước thành phần đều được chi tiết
hóa theo các nội dung cụ thể bằng các câu hỏi như:
(1)Mục tiêu là gì? (2) Các hoạt động là gì? (3) Ai làm?
(4) Đo đếm thành quả các hoạt động như thế nào? Bạn
hoàn toàn có thể bổ sung các tiêu chí để so sánh hiện
trạng của quốc gia/cơ sở của bạn với các ví
dụ/trường hợp điển hình trên thế giới như: (5) các
ví dụ điển hình trên thế giới; và (6) hiện trạng ở
Việt Nam[12].
Các
hướng dẫn và khuyến cáo ở trên cho thấy tính khả thi
để Việt Nam lên kế hoạch triển khai các hoạt động
xây dựng năng lực và phát triển chính sách hỗ trợ cho
TNGDM.
D.
Một vài gợi
ý cho Việt
Nam
Phát
triển TNGDM là một vấn đề lớn, quan trọng, liên quan
tới nhiều đối tượng
trong xã hội và
cần có tầm nhìn dài hạn,
ngày càng có
sự quan
tâm nhiều hơn ở
Việt Nam, dù với các mức độ khác nhau đối với
các
đối tượng khác nhau trong
xã hội và chỉ
mới bắt đầu trong thời gian rất gần đây.
Các
văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục Đào tạo như Công
văn số 4301/BGDĐT-GDTX ngày 20/09/2019 về việc xây dựng
và phát triển TNGDM
của Bộ Giáo dục và Đào tạo rõ ràng là
cột
mốc tích
cực để phát triển TNGDM ở Việt Nam, dù
chúng chưa nằm trong quy trình bài bản với 7 pha như được
khuyến
cáo, ví
dụ như, để
có
thể hạn chế các xung đột với các luật và văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành khi phát triển chính
sách TNGDM.
Ngay
trong năm 2019, đã có thể kể tới vài sự kiện/hoạt
động điển hình có liên quan tới phát triển TNGDM, như:
hội
thảo ‘Vai
trò của trường đại học với việc xây dựng TNGDM, đáp
ứng yêu cầu học tập suốt đời của người lớn’(tháng
08/2019) do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Khuyến học
Việt Nam và Trường Đại học Tôn Đức Thắng phối hợp
tổ chức)
[13];
Công văn số 4301/BGDĐT-GDTX về việc xây dựng và phát
triển TNGDM[14],
theo đó Bộ “đề
nghị Thủ trưởng các đại học, học viện, trường đại
học, trường cao đẳng sư phạm (gọi chung là nhà trường)
triển khai các nội dung”
liên quan tới TNGDM; hội
thảo ‘Xây
dựng và khai thác TNGDM[15]’
tại Trường Đại học Thăng Long, Hà Nội (tháng
10/2019) do Hiệp
hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (AVU&C)
cùng với Hội Thư viện Việt Nam (VLA), Hội Tin học Việt
Nam (VAIP), Câu lạc bộ Phần mềm Tự do Nguồn Mở Việt
Nam (VFOSSA), Câu lạc bộ các Khoa - Viện - Trường CNTT-TT
Việt Nam (FISU), và Khoa Thông tin - Thư viện của
ĐHKHXH-ĐHQGHN đã đồng tổ chức; đề tài ‘Xây
dựng nền giáo dục theo hướng mở ở Việt Nam theo tinh
thần Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo’
do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ
trì là
một trong số ít các đề tài nghiên cứu khoa học có
liên quan tới GDM
và TNGDM ở Việt Nam cho tới thời điểm hiện tại…
Bên
cạnh các hoạt động
nâng cao nhận thức, Ban
Tư vấn Phát triển Giáo dục Mở
(OEDAB)
đã phối hợp cùng với
các đơn vị trong AVU&C triển
khai suốt trong năm 2019
tổng cộng 26
khóa tập huấn thực hành
khai thác TNGDM ở dạng huấn luyện các huấn luyện viên
cho hơn 500
cán bộ thư viện, cán bộ/nhân viên CNTT và giảng viên
các bộ môn/khoa/phòng/trung tâm của hơn 70 trường đại
học, cao đẳng và dạy nghề khắp cả nước[16].
Các
hoạt động được nêu ở trên tuy
hữu ích và thiết
thực nhưng so với
những gì có trong Khuyến
cáo TNGDM của
UNESCO và các hạng
mục chi tiết của 5 khía
cạnh mục tiêu của
nó thì
các hoạt động đó còn rất khiêm tốn, cả về cường
độ, mức độ, quy mô và
thành phần các bên tham gia đóng góp cho TNGDM.
So
sánh với các tài liệu gần đây của UNESCO có liên quan
tới TNGDM như được nêu ở phần trên đã chỉ ra cho
chúng ta thấy các hoạt động về
TNGDM ở Việt Nam mới đang ở giai
đoạn
khởi đầu và rất nhiều công việc cần
phải
làm với sự tham gia của rất nhiều đối tượng
trong xã hội để có thể thay đổi từ văn hóa đóng/khép
kín sang văn hóa chia sẻ mở tri thức còn rất yếu hiện
nay,
kể
cả trong
các giảng
viên/các nhà giáo dục và giới hàn lâm
học thuật nói chung.
Và
cuối cùng, không chỉ là GDM
và TNGDM, mà còn là khoa học mở như những gì UNESCO đang
chuẩn bị cho ‘Khuyến
cáo Khoa học Mở[17]’dự
kiến sẽ được các quốc gia thành viên UNESCO đề xuất
phê chuẩn
vào năm 2021 và sẽ nằm trong khuyến cáo mới của UNESCO
về TNGDM. Việt Nam có bắt kịp xu thế khoa học mở của
thế giới hay không trong tương lai, có lẽ phụ thuộc rất
nhiều vào việc ứng dụng và phát triển TNGDM của Việt
Nam ngay từ bây giờ và càng sớm càng tốt.
Để
hòa
chung vào dòng chảy của thế giới và
hướng tới hoàn thành SDG 4,
phát triển TNGDM phải nằm trong chiến lược giáo dục
Việt Nam giai đoạn 2021-2030!
E.
Các chú giải tham chiếu
[1]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Các
hướng dẫn phát triển các chính sách tài nguyên giáo dục
mở:
https://www.dropbox.com/s/458ak3vspexdzhj/371129eng_Vi-08122019.pdf?dl=0,
UNESCO-COL xuất bản năm 2019, CC BY-SA 3.0, phần
lời nói đầu, trang 5-6.
[2]
Lê Trung Nghĩa biên dịch,
2019: Khuyến cáo phác
thảo về tài nguyên giáo dục mở. UNESCO xuất bản tháng
10/2019:
https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0,
giấy phép CC BY-SA 3.0, trang 6.
[3]
GS.TS Phạm Tất Dong, Hội
Khuyến học Việt Nam: Trường
đại học trong sự nghiệp xây dựng xã hội học tập,
góp phần đào tạo nhân lực chất lượng cao trước bối
cảnh phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Kỷ yếu hội
thảo: Tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên
đầu của thế kỷ XXI, tập 3, trang 1-22.
[4]
TS. Vũ Ngọc Hoàng, Hiệp
hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam: Về
hệ thống giáo dục mở:
Kỷ yếu hội thảo Hệ thống giáo dục mở trong bối
cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế, tập 3,
trang 19-27
[5]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2018:
https://vnfoss.blogspot.com/2018/12/tuyen-bo-giao-duc-mo-cape-town-mo-khoa.html
[6]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Giáo
dục Mở (theo Liên minh Xuất bản Học thuật và Tài
nguyên Hàn lâm – SPARC),
http://vnfoss.blogspot.com/2018/04/giao-duc-mo-theo-lien-minh-xuat-ban-hoc.html
[7]
Lê
Trung Nghĩa, 2019: OER-
Các cột mốc quan trọng của giáo dục mở và tài nguyên
giáo dục mở trong chương trình nghị sự quốc tế:
http://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/OER-Cac-cot-moc-quan-trong-cua-giao-duc-mo-va-tai-nguyen-giao-duc-mo-trong-chuong-trinh-nghi-su-quoc-te-15217
[8]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Khuyến
cáo phác thảo về tài nguyên giáo dục mở. UNESCO xuất
bản tháng 10/2019:
https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0,
giấy phép CC BY-SA 3.0.
[9]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2018: Khung
năng lực CNTT-TT cho giảng viên của UNESCO:
https://www.dropbox.com/s/xgnx8ji27w48fuc/265721e_Vi-27112018.pdf?dl=0,
CC BY-SA, trang 2
[10]
ICT-CFT
Aligned Resource:
https://www.TNGDMcommons.org/hubs/UNESCO#ict-cft-aligned-resource,
truy cập ngày 07/01/2020.
[11]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2019: Các
hướng dẫn phát triển các chính sách Tài nguyên Giáo dục
Mở:
https://www.dropbox.com/s/458ak3vspexdzhj/371129eng_Vi-08122019.pdf?dl=0,
CC BY-SA, tr. 22
[12]
Lê
Trung Nghĩa, 2019: Các thành phần cơ bản trong kế hoạch
tổng thể xây dựng chính sách tài nguyên giáo dục mở -
TNGDM (Open Educational Resources):
https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cac-thanh-phan-co-ban-trong-ke-hoach-tong-the-xay-dung-chinh-sach-tai-nguyen-giao-duc-mo-oer-open-educational-resources-93.html,
CC BY-SA 4.0.
[13]
VOH:
Phát
triển tài nguyên giáo dục mở, đáp ứng yêu cầu học
tập suốt đời của người lớn:
https://voh.com.vn/giao-duc/phat-trien-tai-nguyen-giao-duc-mo-dap-ung-yeu-cau-hoc-tap-suot-doi-cua-nguoi-lon-330327.html
[14]
Công
văn số 4301/BGDĐT-GDTX ngày 20/09/2019 do Bộ trưởng Phùng
Xuân Nhạ ký về
việc xây dựng và phát triển tài nguyên giáo dục mở:
https://www.dropbox.com/s/s53gavq29rvnpym/1569234901196_4301_BGDDT_GDTX.signed.pdf?dl=0
[15]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở của AVU&C: Tài
liệu Hội thảo “Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo
dục mở”, 4/10/2019:
https://giaoducmo.avnuc.vn/hoi-thao/tai-lieu-hoi-thao-xay-dung-va-khai-thac-tai-nguyen-giao-duc-mo-44.html
[16]
Trang
Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở của AVU&C: Các
lớp tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục
mở tới hết năm 2019’:
https://giaoducmo.avnuc.vn/tap-huan/cac-lop-tap-huan-thuc-hanh-khai-thac-tai-nguyen-giao-duc-mo-toi-het-nam-2019-101.html
[17]
Lê
Trung Nghĩa biên dịch, 2019: UNESCO
đi đầu trong phát triển công cụ thiết lập tiêu chuẩn
mới toàn cầu về khoa học mở:
https://giaoducmo.avnuc.vn/khoa-hoc-mo/unesco-di-dau-trong-phat-trien-cong-cu-thiet-lap-tieu-chuan-moi-toan-cau-ve-khoa-hoc-mo-95.html
Lê
Trung Nghĩa
PS: Tải về bài viết ở định dạng PDF ở địa chỉ:
https://www.dropbox.com/s/ny1xn035zyun7xn/OER_Dev_for_SDG4_Blog.pdf?dl=0
PS: Tải về bài viết ở định dạng PDF ở địa chỉ:
https://www.dropbox.com/s/ny1xn035zyun7xn/OER_Dev_for_SDG4_Blog.pdf?dl=0
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.