Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

Người học như những người sáng tạo kiến thức (trang của Đại học British Columbia, Canada)


Students As Knowledge Creators

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/open-pedagogy-in-practice/

Trong khi uyên thâm mở (Open Scholarship) tập trung vào quyền truy cập công bằng tới kiến thức, trọng tâm của sư phạm mở là sự tham gia công bằng trong tạo lập kiến thức. Theo cách này, sư phạm mở thường biến đổi trải nghiệm của người học trong lớp học. Nó có thể giúp người học bắt đầu thấy bản thân họ như là các học giả và nó chuyển hướng giảng viên từ chuyên gia thông tin thành một vai trò tạo thuận lợi để hỗ trợ người học đàm luận về các ý tưởng và biến các nỗ lực học tập của người học thành nguồn kiến thức mở. Nếu mục tiêu cốt lõi của uyên thâm là nghiên cứu, phổ biến, và đối thoại để mở rộng kho kiến thức và phát triển các lĩnh vực nghiên cứu, thì sư phạm mở thu hút người học vào chính quá trình này trong các khóa học của họ. Trái ngược với các đánh giá học tập truyền thống như bài kiểm tra trắc nghiệm hoặc bài luận, bài tập của người học trong sư phạm mở được coi là có giá trị vượt ra ngoài việc chỉ cung cấp thông tin cho người học hoặc giảng viên. Vì vậy, người học được yêu cầu tạo ra kiến thức mới và được trao một mức độ tự chủ, quyền chủ động và kiểm soát nhất định đối với công việc của mình.

“Chúng ta thường yêu cầu sinh viên làm bài tập chỉ để cho chúng ta thấy rằng họ có thể làm được. Tôi muốn họ làm điều gì đó có giá trị thực sự chứ không phải chỉ là bài tập trang điểm mà họ thực hiện chỉ để cho [các giáo sư] thấy họ biết cách làm mọi việc”. TS. Rosie Redfield, UBC Zoology

Trong video bên dưới, David Gaertner, Trợ lý Giáo sư, UBC First Nations and Indigenous Studies, mô tả một số động lực của ông giải thích vì sao ông thu hút người học của mình vào sư phạm mở:

Video: Đối thoại mở: Cách để thu hút và hỗ trợ người học vào sư phạm mở

David Gaertner, Trợ lý Giáo sư, UBC First Nations and Indigenous Studies: Cách để thu hút và hỗ trợ người học vào sư phạm mở

Người học như là các nhà sản xuất/nhà sáng tạo


Việc để
người học trở thành nhà sáng tạo nội dung, được mô tả như là mô hình “Người học như là nhà sản xuất” của Mike Neary tại Đại học Lincoln, nhấn mạnh vai trò của người học như những người cộng tác với các giảng viên trong sản xuất kiến thức. Bằng việc thu hút người học vào việc sản xuất và chia sẻ kiến thức, mô hình này giúp biến người học từ đối tượng của quá trình học tập thành chủ thể của nó. Ngoài ra, trong mô hình người học như là nhà sản xuất, cách tiếp cận của trường đại học về học tập và nghiên cứu sẽ nhất quán chặt chẽ hơn: ví dụ, người học, tương tự nhà nghiên cứu, được yêu cầu chia sẻ công việc của họ với các đối tượng đích thực chứ không chỉ với giảng viên hoặc cố vấn trực tiếp của họ. Như Neary Winn nêu, theo cách này người học trở thành một phần của một dự án học thuật của trường Đại học và là những người cộng tác với các nhân viên hàn lâm trong sản xuất kiến thức và ý nghĩa.

Theo Derek Bruff, Giám đốc Trung tâm Giảng dạy ở Đại học Vanderbilt, người học thường tham gia trong sản xuất kiến thức bên ngoài lớp học, thông qua nghiên cứu khi chưa tốt nghiệp, thực tập, hợp tác, v.v. Tuy nhiên, ông gợi ý rằng có nhiều cơ hội để thu hút người học vào việc tạo lập kiến thức trong lớp học và gợi ý người học như nhà sản xuất các bài tập hoặc khóa học có các khía cạnh chung sau đây:

  • Người học được yêu cầu làm việc về các vấn đề còn chưa được giải quyết đầy đủ hoặc các câu hỏi còn chưa được trả lời đầy đủ.

  • Người học được yêu cầu chia sẻ công việc của họ với các đối tượng đích thực, không chỉ giảng viên của họ.

  • Người học cũng được trao quyền tự chủ nhất định trong công việc của mình.

Kịch bản - thu hút người học thông qua công việc mở

Hãy xem xét kịch bản này: Trong khóa học của TS. Smith về bảo tồn rừng, họ yêu cầu những người học nghiên cứu các chính sách bảo tồn rừng ở một khu vực cụ thể, đánh giá nghiêm túc các chính sách đó và sau đó viết một bài luận dài từ bảy đến mười trang về chủ đề này. Những người học dường như có ít thời gian tham gia với bài tập đó và, trong phản hồi, những người học đã lưu ý rằng bài tập đó vừa khó nhưng cũng có cảm giác đây là công việc bận rộn. TS. Smith cảm thấy bài tập đó là có giá trị vì nó khiến người học phải suy nghĩ phản biện về chủ đề của lớp học. Hơn nữa, họ cảm thấy công việc mà người học làm có tiềm năng trở thành công trình học thuật và đang nghĩ đến việc để người học đăng bài luận của mình lên trang web hoặc blog của khóa học.

    • Việc đăng bài lên Internet sẽ thay đổi bản chất của bài tập như thế nào?

    • TS. Smith có thể đưa ra những chiến lược hoặc phương pháp hỗ trợ nào vào bài tập để đảm bảo rằng người học sẽ thành công?

    • TS. Smith có nên thay đổi cấu trúc hoặc trọng số của điểm cho bài tập không?

Bài tập có thể làm mới lại được

David Wiley đã lập luận rằng phần lớn bài tập của sinh viên có thể được coi là có thể vứt bỏ: “Đây là những bài tập mà sinh viên phàn nàn về việc phải làm và giảng viên phàn nàn về việc chấm điểm. Đó là những bài tập không mang lại giá trị nào cho thế giới - sau khi sinh viên dành ba giờ để tạo ra nó, giáo viên dành 30 phút để chấm điểm, rồi sinh viên vứt nó đi. Những bài tập này không chỉ không mang lại giá trị nào cho thế giới mà thực tế còn hút hết giá trị của thế giới. Như Hendricks đã nói, không phải là những bài tập như vậy không có giá trị gì cả. Chúng thường có thể rất hữu ích để khuyến khích sinh viên học tập và áp dụng thông tin, tiếp thu các kỹ năng nghiên cứu và khác, tham gia giải quyết vấn đề, v.v. Nếu được thực hiện tốt, chúng có thể cho giảng viên thấy mức độ thành thạo mà sinh viên đã đạt được. Nhưng điều quan trọng cần cân nhắc là thấy rằng "bài tập có thể vứt bỏ" không mang lại bất kỳ giá trị nào nữa cho thế giới sau khi chúng hoàn thành.

Điều gì làm cho một bài tập có thể được gia hạn hoặc bị loại bỏ? Wiley gợi ýmột bài tập có thể bị loại bỏ là bất kỳ bài tập nào sinh viên và giảng viên hiểu những điều sau:

  • Sinh viên sẽ làm bài đó

  • Giảng viên sẽ chấm điểm bài đó

  • Sinh viên sẽ vứt bỏ bài đó

Một bài tập được làm mới lại là bất kỳ bài tập nào mà:

  • Sinh viên sẽ làm bài đó

  • Giảng viên sẽ chấm bài đó

  • Bài đó vốn dĩ có giá trị cho ai đó bên ngoài lớp học

  • Bài đó được xuất bản mở nên những người khác có thể tìm thấy và sử dụng nó

Kiểm tra kiến thức của bạn

Các ví dụ sau đây, ví dụ nào là các bài tập làm mới lại được?

  • Yêu cầu sinh viên cải thiện một bài báo của Wikipedia như một phần công việc trong khóa học của họ.

  • Yêu cầu sinh viên viết phản biện. Sau khi sinh viên viết xong phản biện đó, các bạn cùng lớp sẽ rà soát lại ngang hàng bài của nhau thông qua một buổi học đồng bộ (trên trực tuyến hoặc trực tiếp).

  • Yêu cầu sinh viên tạo một đồ họa thông tin cho bài tập của họ, nó sẽ được gửi qua một Hệ thống Quản lý Học tập của khóa học (ví dụ, Canvas).

  • Yêu cầu sinh viên tạo một trường hợp điển hình trên một website công khai. Trường hợp điển hình đó sẽ được xuất bản theo giấy phép CC BY-SA.

Kiểm tra



Sư phạm được TNGDM xúc tác

Xây dựng dựa trên khái niệm bài tập làm mới lại được, David Wiley và John Hilton III đã tinh chỉnh thêm nữa định nghĩa sư phạm mở của Wiley như là thực hành chỉ có thể trong bối cảnh của truy cập miễn phí và các quyền 5R. Sự tinh chỉnh thêm này được gắn nhãn “Sư phạm được TNGDM xúc tác” (TNGDM-enabled Pedagogy). Wiley và Hilton nêu rằng khi các bài tập của sinh viên được cấp phép mở, “việc trao cho người khác các quyền 5R để sử dụng các quyền đó đối với các chế tác, từng bài tập trở thành sự bắt đầu của một cuộc đàm thoại liên tục ở đó những người học khác tham gia khi họ ngữ cảnh hóa và mở rộng bài tập đó để hỗ trợ cho việc học tập của riêng họ. Việc cấp phép mở cũng đảm bảo rằng các chế tác đó sẽ là sẵn sàng vĩnh viễn và miễn phí cho tất cả những ai muốn sử dụng chúng như một phần việc học tập của họ. Wiley và Hilton gợi ý các câu hỏi sau đây có thể giúp xác định mức độ ở đó thực hành giảng dạy và học tập cụ thể đủ điều kiện là sư phạm được TNGDM xúc tác:

  • Người học được yêu cầu tạo ra các chế tác mới (bài luận, thơ, video, bài hát, v.v.) hay sửa lại/phối lại TNGDM có sẵn?

  • Chế tác mới có giá trị vượt ra khỏi việc hỗ trợ học tập của tác giả của nó?

  • Người học được mời chia sẻ công khai các chế tác hoặc TNGDM mới, được sửa lại/được phối lại của họ?

  • Người học được mời cấp phép mở cho các chế tác hoặc TNGDM mới, được sửa lại/được phối lại của họ?

Vì sao sinh viên nên quan tâm về Sư phạm Mở?

Sinh viên thường tham gia rồi trong các dạng học tập mở khác nhau. Nếu bạn là sinh viên, bạn có bao giờ:

  • Đã tạo ra và tải lên một video mà dạy những người khác cách để làm điều gì đó?

  • Đã chia sẻ mã/dự án của bạn trên GitHub?

  • Đã bỏ thời gian trên Reddit - ngẫu nhiên hoặc có mục đích tham gia vào cuộc thảo luận về điều gì đó bạn quan tâm?

  • Đã xuất bản bất kỳ tư liệu học tập nào trên một blog, Reddit hoặc Facebook?

  • Đã chia sẻ hoặc bám theo một đường liên kết để học điều gì đó từ ai đó bạn bám theo trên Twitter?

  • Đã đóng góp hoặc đã học hỏi từ Wikipedia?

Nếu bạn đã làm bất kỳ điều gì trong số đó, bạn đã tham gia vào việc học tập mở theo một vài cách thức. Công việc mà các sinh viên làm như một phần của việc học tập của họ có giá trị và việc chia sẻ công việc này với những người khác là một phần của uyên thâm hàn lâm.

Khi sinh viên chia sẻ mở công việc của họ, họ đang đóng góp cho việc xây dựng và chia sẻ kiến thức. Làm việc trong môi trường mở có thể vừa đáng sợ vừa cực kỳ bổ ích. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét rủi ro, quyền riêng tư và những cân nhắc khác về sư phạm mở.

Đào sâu thêm

Để biết thêm về Sinh viên như Nhà sản xuất, các bài tập làm mới lại được, và các mô hình sư phạm được TNGDM xúc tác: hãy xem:

Cập nhật lần gần đây nhất 11/04/2023 @10:36 am

While open scholarship focuses on equitable access to knowledge, the focus of open pedagogy is equitable participation in the creation of knowledge. In this way, open pedagogy often transforms the student experience within the classroom. It can help students begin to see themselves as scholars and it de-centres the instructor from the information expert to a facilitation role that supports student negotiation of ideas and transforms the efforts of their learning into open knowledge resources. If a core goal of scholarship is research, dissemination, and dialogue to further the knowledge base and growth of fields of study, then open pedagogy engages students in this very same process within their courses. In contrast to traditional learning assessments such as multiple choice quizzes or essays, student work in open pedagogy is seen as having value beyond just informing the learner or instructor. As such, students are asked to create new knowledge and given a degree of agency, autonomy, and control over their work.

Lề

“We are often asking students to do work just to show us that they can do it. I wanted them to do something that had genuine value and not just this makeup exercise they perform just to show [professors] they know how to do things.” Dr. Rosie Redfield, UBC Zoology

In the below video, David Gaertner, Assistant Professor, UBC First Nations and Indigenous Studies, describes some of his motivations for why he engages his students in open pedagogy:

Video: Open Dialogues: How to engage and support students in open pedagogies

David Gaertner, Assistant Professor, UBC First Nations and Indigenous Studies: How to engage and support students in open pedagogies

Students as Producers/Creators

Having students be creators of content, described as a “Student as Producer” model by Mike Neary at the University of Lincoln, emphasizes the student role as collaborators with instructors in the production of knowledge. By engaging students in knowledge production and sharing, the model helps transform students from being the object of the educational process to being the subject of it. Additionally, in the student as producer model, the university’s approach to learning and research are closer aligned; for example, students, similar to researchers, are asked to share their work with authentic audiences and not just with their immediate instructor or adviser. As Neary and Winn state, in this way students become part of the academic project of the University and collaborators with academics in the production of knowledge and meaning.

According to Derek Bruff, Director of the Centre for Teaching at Vanderbilt University, students are frequently involved in knowledge production outside of the classroom, through undergraduate research, internships, co-ops, etc. However, he suggests that there are many opportunities to engage students in knowledge creation within the classroom and suggests student as producer assignments or courses have the following aspects in common:

  • Students are asked to work on problems that haven’t been fully solved or questions that haven’t been fully answered.

  • Students are asked to share their work with authentic audiences, not just their instructor.

  • Students are also given a degree of autonomy in their work.

Scenario – Engaging Students Through Open Work

Let’s consider this scenario: In Dr. Smith’s course on forest conservation, they have been asking students to research forest conservation policies in a specific region, critically evaluate the policies, and then write a seven to ten-page essay on the topic. Students seem to have a hard time engaging with the assignment and, in feedback, students have noted that the assignment is both hard but also that it feels like it is busy work. Dr. Smith feels like the assignment is valuable as it gets students to think critically about the topic of the class. More so, they feel like the work the students do has potential as scholarly work and are thinking about having students post their essays on a course website or blog.

  • How would posting the work on the Internet change the nature of the assignment?

  • What strategies or scaffolding could Dr. Smith incorporate into the assignment to ensure that the students are successful?

  • Should Dr. Smith change the structure or the weighting of the marks for the assignment?

Renewable Assignments

David Wiley has argued that much of student work can be considered disposable: “These are assignments that students complain about doing and faculty complain about grading. They’re assignments that add no value to the world – after a student spends three hours creating it, a teacher spends 30 minutes grading it, and then the student throws it away. Not only do these assignments add no value to the world, they actually suck value out of the world. As Hendricks states, it’s not that such assignments have no value at all. They can often serve very well to encourage students to learn and apply information, gain research and other skills, engage in problem-solving, and more. If done well, they can show instructors the level of mastery students have achieved. But what is important to consider is find important to consider, is that “disposable assignments” don’t provide any further value to the world after they’re completed.

What makes an assignment renewable or disposable? A disposable assignment, Wiley suggests, is any assignment about which students and faculty understand the following:

  • Students will do the work

  • Faculty will grade the work

  • Students will throw away the work

A renewable assignment is any assignment where:

  • Students will do the work

  • Faculty will grade the work

  • The work is inherently valuable to someone beyond the class

  • The work is openly published so those other people can find and use it

Test your knowledge

Which of the following are examples of renewable assignments?

  • Asking students to improve a Wikipedia article as part of their course work.

  • Asking students to write a critique. After students have written the critique, classmates will peer review each other's work via a synchronus class session (online or in person). 

  • Asking students to create an infographic for their assignment, which will be submitted via the course Learning Management System (e.g., Canvas). 

  • Asking students to create a case study on a public website. The case study will be published under CC-BY-SA license. 

Check

TNGDM Enabled Pedagogy

Building upon the concept of renewable assignments, David Wiley and John Hilton III further refined Wiley’s definition of open pedagogy as the practices only possible in the context of free access and 5R permissions. This further refinement is labelled “TNGDM-enabled pedagogy”. Wiley and Hilton state that when student works are openly licensed, “granting others 5R permissions in their use of the artifacts, each work becomes the beginning of an ongoing conversation in which other learners participate as they contextualize and extend the work in support of their own learning. Open licensing also ensures that these artifacts will be perpetually and freely available to all who wish to engage them as part of their learning”. Wiley and Hilton suggest the following questions can help to determine the extent to which a specific teaching and learning practice qualifies as TNGDM-enabled pedagogy:

  • Are students asked to create new artifacts (essays, poems, videos, songs, etc.) or revise/remix existing TNGDM?

  • Does the new artifact have value beyond supporting the learning of its author?

  • Are students invited to publicly share their new artifacts or revised/remixed TNGDM?

  • Are students invited to openly license their new artifacts or revised/remixed TNGDM?

Why Should Students Care About Open Pedagogy?

Students are often already involved in various forms of open learning. If you are a student, have you ever:

  • Created and uploaded a video that teaches others how to do something?

  • Shared your code/project on GitHub?

  • Spent time on Reddit – accidentally or on purpose to participate in a discussion about something you are interested in?

  • Published any learning material on a blog, Reddit or Facebook?

  • Shared or followed a link to learn something from someone you follow on Twitter?

  • Contributed to or learned from Wikipedia?

If you have done any of these things, you have participated in the open learning in some way. The work that students do as part of their studies has value and sharing this work with others is part of academic scholarship.

When students share their work openly, they are contributing to the building and sharing of knowledge. Working in the open can be both daunting and extremely rewarding and in the next section we’ll look at risk, privacy and other considerations of open pedagogy.

Dig Deeper

To learn more about the Student as Producer, Renewable Assignments , and TNGDM-Enabled Pedagogy models: review:

Last updated on April 11, 2023 @10:36 am

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2024

Sư phạm Mở là gì (Trang của Đại học British Columbia, Canada)


What is Open Pedagogy

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/defining-open-pedagogy/

Cho tới nay, chúng ta đã và đang khám phá cách Tài nguyên Giáo dục Mở (TNGDM) có thể giúp đảm bảo rằng các tư liệu học tập là miễn phí và không có các rào cản truy cập. TNGDM cũng có thể hỗ trợ cho quyền tự do hàn lâm bằng việc xúc tác cho các giảng viên chỉnh sửa hoặc bổ sung thêm nội dung tới các tư liệu cho phù hợp với các đặc tả và mục tiêu của họ, điều tới lượt nó tạo cơ hội cung cấp các tư liệu phù hợp và hấp dẫn hơn cho học viên. Bây giờ, chúng ta xem xét cách các nguyên tắc uyên thâm mở (Open Scholarship) có thể được kết hợp vào thực hành giảng dạy và học tập như thế nào.

Các thực hành xã hội và công bằng

Uyên thâm mở (Open Scholarship), như chúng ta đã biết, được hình thành dựa trên tiền đề về quyền tiếp cận kiến thức một cách công bằng và không có rào cản, với sự hiểu biết rằng việc tạo ra và phổ biến kiến thức là một hoạt động xã hội. Theo thuật ngữ chung này, giáo dục mở bao gồm một tập hợp các hoạt động hướng tới mục tiêu làm cho quá trình và sản phẩm giáo dục trở nên minh bạch hơn, dễ hiểu hơn và sẵn có cho tất cả mọi người. Trong khi giáo dục mở bao gồm việc tạo lập và sử dụng TNGDM để đạt được các mục tiêu đó, nó cũng bao gồm việc ứng dụng tính mở cho các hoạt động giảng dạy và học tập (tức là phương pháp sư phạm) và nỗ lực hỗ trợ sự tham gia công bằng vào việc tạo ra kiến thức.

Theo Caroline Sinkinson, các giá trị cốt lõi của phương pháp sư phạm mở bao gồm các hoạt động giảng dạy và học tập giúp giảm bớt các rào cản ngăn cản việc tiếp cận giáo dục một cách công bằng, bao gồm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, văn hóa và chính trị. Sư phạm mở tạo điều kiện kết nối vượt qua ranh giới của các trải nghiệm học tập diễn ra trong các lớp học, tại trường học và trong cộng đồng bằng cách tham gia có phản biện với các công cụ và hoạt động thực hành giúp điều chỉnh việc học tập, xây dựng và chia sẻ kiến thức. Sư phạm mở cũng bảo vệ quyền tự quyết và quyền sở hữu các trải nghiệm học tập, lựa chọn thể hiện và mức độ tham gia của mỗi người và phản đối việc coi mở là trung lập bằng cách cung cấp không gian cho việc đánh giá và suy ngẫm phản biện.

Do đó, sư phạm mở nằm ở giao điểm giữa giảng dạy, học tập và công lý xã hội và thường dựa trên các lý thuyết sư phạm phản biện (Critical Pedagogy) nhằm sử dụng quá trình giáo dục để thách thức kiến thức và niềm tin hiện có nhằm đạt được sự trao quyền cho cá nhân và thay đổi xã hội. Các nhà sư phạm học trước đó, chẳng hạn như Paulo Freire, coi giáo dục như là một hoạt động giải phóng và chuyển đổi hoặc một hoạt động tuân thủ:

“Giáo dục hoặc hoạt động như một công cụ được sử dụng để tạo điều kiện cho thế hệ trẻ hội nhập vào logic của hệ thống hiện tại và mang lại sự tuân thủ hoặc nó trở thành thực hành quyền tự do, phương tiện mà nam giới và phụ nữ xử lý thực tế một cách có phản biện và sáng tạo và khám phá cách để tham gia vào quá trình biến đổi thế giới của họ.” - Paulo Freire, Pedagogy of the Oppressed

Sư phạm phản biện là một triết lý giáo dục được rút ra từ lý thuyết phản biện, trong đó giảng viên và học viên đánh giá có phản biện các hệ thống quyền lực để hiểu bản chất áp chế của các hệ thống xã hội và chính trị. Các nhà sư phạm phản biện, chẳng hạn như Freire, lập luận rằng việc áp dụng lý thuyết phản biện vào giáo dục, "cho phép học viên nhận ra mối liên hệ giữa các vấn đề cá nhân của họ và bối cảnh xã hội rộng lớn hơn mà kinh nghiệm của họ được nhúng vào". Sư phạm mở áp dụng nhiều công trình trước đó của sư phạm phản biện vào các bối cảnh giảng dạy hiện đại và bao gồm một cách tiếp cận công lý xã hội đối với việc xây dựng kiến thức minh bạch và hợp tác được làm cho sẵn sàng mở thông qua các công nghệ kết nối mạng.

Đào sâu thêm

Để biết thêm về sư phạm phản biện, hãy đọc:

Định nghĩa Sư phạm Mở

David Wiley ban đầu cho rằng việc cấp phép mở cho các tài liệu giáo dục và quyền sử dụng lại là điều cần thiết: “Sư phạm mở là tập hợp các hoạt động giảng dạy và học tập chỉ có thể thực hiện được trong bối cảnh quyền truy cập miễn phí và quyền 5R đặc trưng của các tài nguyên giáo dục mở”. Nhiều học giả và nhà giáo dục khác đã đưa ra các định nghĩa sư phạm mở bổ sung đề cập tới các khía cạnh của quá trình giảng dạy và học tập vượt ra ngoài việc sử dụng các tài nguyên mở. Các định nghĩa đó bao gồm:

  • Sự kết hợp giữa các chiến lược, công nghệ và cộng đồng mạng giúp cho quá trình và sản phẩm giáo dục trở nên minh bạch hơn, dễ hiểu hơn và sẵn sàng cho tất cả mọi người tham gia. — Tom Woodward

  • Tiềm năng của tính mở và việc chia sẻ để cải thiện việc học tập, cũng như định hướng công lý xã hội - quan tâm về sự công bằng, với tính mở như một cách thức để đạt được điều này. — Maja Bali

  • Khả năng đối với những người học để định hình và tự chịu trách nhiệm về việc học của chính mình. — Devon Ritter

  • Phương tiện để kết nối với cộng đồng rộng lớn hơn, toàn cầu cũng như phương tiện để thách thức và mở rộng hiểu biết hiện có của việc học tập lấy người học làm trung tâm. — Tannis Morgan

  • Quyền tự to hành động và thẩm quyền. — Jim Luke

  • Dịch chuyển sự nhấn mạnh tới đóng góp của người học vào kiến thức trái ngược với việc tiếp thu kiến thức đơn thuần. — Heather Ross

Các tính năng và thuộc tính của Sư phạm Mở

Điểm chung giữa các phương pháp tiếp cận khác nhau đối với sư phạm mở là gì?

Tom Woodward nêu bật ba tính năng của sư phạm mở:

  • lập kế hoạch mở: Trước khi bắt đầu một khóa học được xây dựng dựa trên sư phạm mở có trọng tâm nhằm vào cộng tác liên quan đến khóa học đó có thể là gì - nội dung, các bài học, công cụ xây dựng và chiến lược giảng dạy… Bạn có thể xem các giảng viên khác đã làm gì — tài nguyên của họ, bài học của họ hoặc suy nghĩ của họ về những gì đã xảy ra trong suốt khóa học của họ. Như Tom chỉ ra, những quy trình này thường bị ẩn khỏi tầm nhìn của công chúng. Việc làm cho chúng là mở và dễ tiếp cận có nghĩa là người khác có thể học hỏi từ chúng.

  • các sản phẩm mở: Người học đang xuất bản cho một đối tượng lớn hơn giảng viên của họ. Điều đó quan trọng. Công việc của họ, vì là mở, có tiềm năng được sử dụng cho mục đích lớn hơn chính khóa học và trở thành một phần của cuộc hội thoại toàn cầu lớn hơn. Điều này thay đổi trải nghiệm làm công việc đó, nhưng quan trọng không kém là nó làm thay đổi loại công việc mà bạn yêu cầu người học thực hiện.

  • suy ngẫm mở: Sau khóa học, việc suy ngẫm và làm tài liệu quá trình diễn ra khóa học đó là có giá trị cả cho giảng viên và những ai có thể xem xét các khóa học hoặc chiến lược sư phạm tương tự. Mọi người đều vui vẻ trình bày và ghi chép lại thành công nhưng vẫn chưa có thông lệ chung nào về việc phản ánh các yếu tố không hiệu quả. Việc ghi lại thành tài liệu các suy ngẫm về những gì hiệu quả và những gì không và công khai những điều đó có thể dẫn đến các kết nối giữa những người đang làm việc để giải quyết các thách thức tương tự.

Người ta cũng có thể xem xét tính năng thứ tư:

  • quy trình mở (đối với việc tạo lập TNGDM): Nếu bạn hoặc các học viên của bạn tạo lập TNGDM cho một khóa học, là hữu ích để chia sẻ không chỉ các tài nguyên đã hoàn thành, mà còn cả các quy trình tạo ra chúng. Việc chia sẻ quy trình đó có thể ngụ ý nhiều điều, ví dụ, việc nói về cách bạn đã làm một tài nguyên giảng dạy chẳng hạn như một video hay tệp âm thanh (các công cụ, phần mềm nào, các bước nào bạn đã làm, các cạm bẫy bạn gặp phải), mô tả vì sao bạn đã tạo ra tài nguyên đó theo cách bạn đã làm (bạn đã có các mục tiêu gì, nghiên cứu nào là cơ sở để tạo ra tài nguyên này), giải thích cách bạn đã sử dụng tài nguyên đó trong lớp học và nó có thành công hay không.

Bronwyn Hegarty gợi ý rằng có 8 thuộc tính của sư phạm mở tạo nên các tính năng của nó. Các thuộc tính đó bao gồm việc sử dụng các công nghệ có sự tham gia hoặc xã hội (participatory or social technologies), chẳng hạn như các blog hoặc wiki, chúng tạo thuận lợi cho người học tiếp cận được các ý tưởng và chuyên gia bên ngoài cơ sở giáo dục của họ, cũng như với nhiều phương thức chia sẻ và cộng tác khác nhau. Ngoài ra, vì ý chí học tập và mở rộng ranh giới của học viên trong không gian mở có thể mong manh nên một đặc điểm khác trong phương pháp sư phạm mở là tính mở, sự tin tưởng và con người. Việc cung cấp hỗ trợ và sử dụng phương pháp hỗ trợ để xây dựng sự tự tin và tính độc lập trong môi trường học tập mở có thể giúp thúc đẩy người học.


Các thuộc tính của Sư phạm Mở của Hegarty từ: Hegarty, B. (2015) Attributes of open pedagogy: a model for using open educational resources Educational Technology, July-August, CC-BY 4.0

Một thuộc tính khác Hegarty gợi ý là đổi mới và tính sáng tạo. Sự khám phá và lựa chọn các công nghệ mới nổi lên và các phương pháp mới tận dụng các quyền vốn có trong TNGDM cũng như tạo thuận lợi cho thuộc tính khác của sư phạm mở, sự chia sẻ các ý tưởng và tài nguyên. Sư phạm mở dựa vào các đồng nghiệp để chia sẻ có thiện chí trong các cộng đồng được kết nối. Sử dụng các công nghệ để kết nối các cộng đồng có thể cho phép cộng tác, chia sẻ, và tham gia, điều có thể cải thiện không chỉ chất lượng và sự đa dạng các tài nguyên học tập và các ý tưởng, mà còn cả các phương pháp giảng dạy và thiết kế các môi trường học tập.

Một thuộc tính khác là sư phạm mở do người học tạo ra, bao gồm việc ‘mở ra’ quy trình giảng dạy và học tập để trao quyền cho người học chủ động, giải quyết vấn đề và làm việc tập thể để tạo ra các chế tác mà họ chia sẻ, thảo luận, định hình lại và triển khai lại. Việc xây dựng các mối quan hệ nơi các nhóm người học làm việc tập thể, với việc học tập có phản biện và rà soát lại ngang hàng như là kết quả tự nhiên, Hegarty nêu, là tối thượng cho sư phạm mở. Việc cùng xây dựng kiến thức thông qua thực hành phản biện được tạo thuận lợi và được chia sẻ có thể thúc đẩy quá trình phản biện sư phạm sâu sắc hơn cùng với sự tham gia của học viên. Một thành phần rất quan trọng của thực hành phản biện là sử dụng các công cụ mở cho các tương tác và phản hồi ngang hàng, điều có thể dẫn tới sự thay đổi có tính biến đổi.

Thực hành Giáo dục Mở

“Thực hành Giáo dục Mở” (Open educational practice) là thuật ngữ thực sự có thể bao trùm bất kỳ hoạt động giảng dạy và học tập mở nào, nhưng chúng tôi đang sử dụng nó ở đây để ngụ ý các hoạt động giảng dạy và học tập hướng nhiều hơn tới phía “mở đầy đủ” của phổ. Theo nghĩa này, thực hành mở bao gồm việc đi vượt ra khỏi sự áp dụng một vài tài nguyên mở trong các khóa học của một người hoặc vượt ra khỏi việc đăng tác phẩm công khai của các giảng viên hoặc người học.

Thực hành mở có thể bao gồm:

  • Việc chỉ sử dụng tất cả các tài nguyên mở trong khóa học của một người, như các danh sách đọc không chỉ miễn phí để đọc, mà còn được cấp phép mở để cho phép tải xuống, sửa đổi, chú thích, v.v.

  • Toàn bộ trang web khóa học của một người là công khai và được cấp phép mở ngay cả khi người đó không đăng TẤT CẢ các khía cạnh của khóa học một cách công khai. Tất nhiên, những thứ như điểm số của người học nên được giữ bí mật, và người ta cũng có thể chọn không đăng các bài kiểm tra để họ có thể sử dụng lại sau này.

  • Bất kỳ tác phẩm nào của người học hoặc tài nguyên giảng dạy và học tập của giảng viên được đăng trên trang web công khai cũng được cấp giấy phép mở.

  • Tính mở mở rộng để có được và kết hợp phản hồi về khóa học đó và các tài nguyên mở của nó, bất kể là do giảng viên hay người học đã tạo ra.

  • Không chỉ các sản phẩm là mở (như trang web khóa học, các tài nguyên giảng dạy và học tập, tác phẩm của học viên), mà còn cả các quy trình. Ví dụ, một người chia sẻ các quy trình thiết kế một khóa học, về cách một video đã được tạo ra, về mức độ hiệu quả như thế nào của một bài tập mở cụ thể, v.v.

  • Người ta có thể mở toàn bộ một khóa học cho những người tham gia từ bên ngoài cơ sở (như trong một MOOC), vẫn đảm bảo rằng các yếu tố của khóa học đó là được cấp phép mở.

Suy ngẫm

Vui lòng đọc tuyên bố sau đây:

Sư phạm mở là sự tiến hóa tự nhiên của việc tích hợp các nguyên tắc công bằng xã hội về quan hệ con người và tiềm năng công nghệ hiện tại vào trong hệ thống giáo dục. Nếu chúng ta tin rằng giáo dục dẫn đến sự phát triển của con người và giáo dục là một quyền, thì việc sử dụng và tạo lập TNGDM cùng với các chiến lược giảng dạy và học tập hiệu quả (tức là phương pháp sư phạm mở) là cần thiết để thiết lập và bảo vệ quyền đó. Sư phạm mở thực hiện một trong những cam kết cốt lõi đối với hệ thống dân chủ bằng cách bồi dưỡng một cử tri có hiểu biết, có trình độ và tham gia… Trên thực tế, phương pháp tiếp cận lý thuyết của tôi đối với việc giảng dạy bắt nguồn trực tiếp từ phương pháp sư phạm phản biện, nhấn mạnh đến việc đánh thức ý thức phản biện. Phương pháp sư phạm phản biện đặt câu hỏi cho các thể chế và hoạt động giáo dục bằng việc hỗ trợ một phương pháp tiếp cận nhấn mạnh việc giảng dạy như một hành động chính trị, các hoạt động lấy người học làm trung tâm, thực tiễn, đồng sản xuất kiến thức và nhà giáo dục như một người tạo điều kiện. Tôi tin tưởng việc thực hành sư phạm phản biện đương thời đòi hỏi phải tham gia với TNGDM và do đó dẫn đến các thử nghiệm trong phương pháp sư phạm mở một cách tự nhiên Dr. TS. Arthur Gill Green, Trợ lý Giáo sư Thỉnh giảng, UBC Geography.

Điều gì ảnh hưởng đến các thực hành giảng dạy hoặc học tập của bạn? Bạn đồng ý hay không rằng việc giảng dạy là một hành động chính trị? Vì sao có hoặc vì sao không?

Đào sâu thêm

Để biết thêm về cách các học giả khác nhau đang định nghĩa sư phạm mở, hãy đọc:

So far, we’ve been exploring how the use of TNGDM can help to ensure that learning materials are free of cost and access barriers. TNGDM can also support academic freedom by enabling instructors to modify or add additional content to the materials to fit their specifications and goals, which in turn creates the opportunity to provide more relevant and engaging materials for students. Now, we’ll look at how principles of open scholarship can be incorporated into the practice of teaching and learning.

Social and Equitable Practices

Open scholarship, as we’ve been learning, is founded on the premise of barrier-free and equitable access to knowledge, with the understanding that the creation and dissemination of knowledge is a social practice. Under this umbrella term, open education encompasses a set of practices directed at making the process and products of education more transparent, understandable, and available to all people. While open education includes the creation and use of TNGDM to achieve these goals, it also includes the application of openness to the practices of teaching and learning (i.e. the pedagogy) and strives to support equitable participation in the creation of knowledge.

The core values for open pedagogy, as Caroline Sinkinson states, include teaching and learning practices that reduce barriers that prevent equitable access to education, including economic, technical, social, cultural, and political factors. Open pedagogy facilitates connections across the boundaries of learning experiences that occur within classrooms, on campuses, and in communities by critically engaging with tools and practices that mediate learning, knowledge building, and sharing. Open pedagogy also protects the agency and ownership of one’s own learning experiences, choices of expression, and degrees of participation and resists the treatment of open as neutral by providing space for critical evaluation and reflection.

Open pedagogy is thus situated at the intersection of teaching and learning and social justice and often builds upon theories of critical pedagogy which sought to use the educational process to challenge existing knowledge and beliefs in order to achieve individual empowerment and social change. Earlier critical pedagogists, such as Paulo Freire, saw education as a librating and transformative practice or a practice in conformity:

“Education either functions as an instrument which is used to facilitate the integration of the younger generation into the logic of the present system and bring about conformity or it becomes the practice of freedom, the means by which men and women deal critically and creatively with reality and discover how to participate in the transformation of their world.” -Paulo Freire, Pedagogy of the Oppressed

Critical pedagogy is an educational philosophy drawn from critical theory where instructors and students critically evaluate systems of power in order to understand the oppressive nature of social and political systems. Critical pedagogists, such as Freire, argued that applying critical theory to education, “allows students to recognize connections between their individual problems and the broader social contexts in which their experiences are embedded”. Open pedagogy applies much of the earlier work of critical pedagogy to the modern teaching contexts and encompasses a social justice approach to the collaborative and transparent construction of knowledge made openly available through networked technologies.

Dig Deeper

To learn more about critical pedagogy, read:

Defining Open Pedagogy

Having a single definition of open pedagogy can be challenging. David Wiley initially suggested that open licensing of educational materials and permissions for re-use are essential: “Open pedagogy is that set of teaching and learning practices only possible in the context of the free access and 5R permissions characteristic of open educational resources.”  Many different scholars and educators have put forth additional definitions of open pedagogy that address aspects of the teaching and learning process that go beyond the use of open resources. These definitions include:

  • A blend of strategies, technologies, and networked communities that make the process and products of education more transparent, understandable, and available to all the people involved. — Tom Woodward

  • The potential of openness and sharing to improve learning, as well as a social justice orientation – caring about equity, with openness as one way to achieve this. — Maja Bali

  • The ability for learners to shape and take ownership of their own education — Devon Ritter

  • A means to connect with a broader, global community as well as a means to challenge and expand existing understandings of student centre learning — Tannis Morgan

  • Freedom of action and authority — Jim Luke

  • The shift of emphasis to student contribution to knowledge as opposed to simple consumption of knowledge — Heather Ross

Features and Attributes of Open Pedagogy

What are the commonalities across the different approaches to open pedagogy?

Tom Woodward highlights three features of open pedagogy:

  • open planningPrior to the start of a course built on open pedagogy there is a focus on collaboration regarding what the course might be — the content, the lessons, the tools of construction, and the teaching strategies…You can see what other instructors have done — their resources, their lessons, or their reflections on what happened during their course. As Tom points out, these processes are often hidden from public view. Making them open and accessible means that others can learn from them.

  • open productsStudents are publishing for an audience greater than their instructor. That matters. Their work, being open, has the potential to be used for something larger than the course itself and to be part of a larger global conversation. This changes the experience of doing the work, but just as importantly it changes the kind of work you ask students to do.

  • open reflectionAfter the course, reflecting and documenting how the course went is valuable both to the instructor and to those who might be considering similar courses or pedagogical strategies. People are happy enough to present and document success but it’s still not common practice to reflect on elements that don’t work well. Documenting reflections on what worked and what didn’t and making that public can lead to connections between people working to address the same challenges.

One could also consider a fourth feature:

  • open process (of creating TNGDM): If you or your students create open educational resources for a course, it’s useful to share not just the finished resources but also the processes of creating them. Sharing the process can mean many things, e.g., talking about how you made a teaching resource such as a video or podcast (what tools, software, what steps you took, pitfalls you ran into), describing why you created the resource in the way you did (what goals you had, what research underlies the creation of this resource), explaining how you have used the resource in a class and whether it was successful.

Bronwyn Hegarty suggests that are eight attributes of open pedagogy inform its features. These attributes include the use of participatory or social technologies, such as blogs or wikis, which facilitate learners being exposed to ideas and experts beyond their institutional walls, but also to diverse modes of sharing and collaboration. Additionally, as students’ willingness to learn and stretch their boundaries in open spaces can be fragile, another attribute in open pedagogy is openness, trust, and people. Providing support and using scaffolding to build confidence and independence in an open learning situation can help motivate students.

Hegarty’s Attributes of Open Pedagogy from: Hegarty, B. (2015) Attributes of open pedagogy: a model for using open educational resources Educational Technology, July-August, CC-BY 4.0

Another attribute Hegarty suggests is innovation and creativity. The exploration and choice of emerging technologies and new methods that take advantage of the rights inherent in TNGDM as well as facilitate another attribute of open pedagogy, the sharing of ideas and resources. Open pedagogy relies upon peers to share willingly within connected communities. The use of technologies to connect communities can enable collaboration, sharing, and participation, which can enhance the quality and diversity of learning resources and ideas but also teaching methods and the design of learning environments.
Another attribute is that open pedagogy is
learner-generated, which involves ‘opening up’ the process of teaching and learning to empower students to take the lead, solve problems, and work collectively to produce artifacts that they share, discuss, re-configure, and re-deploy. Building relationships where groups of learners work collectively, with reflective learning and peer review as natural outcomes, Hegarty states, is paramount to open pedagogy. Co-constructing knowledge through facilitated and shared reflective practice can drive deeper pedagogical reflection and student engagement. A vital component of reflective practice is the use of open tools for peer feedback and interactions, which can lead to transformational change.

Open Educational Practices

“Open educational practice” is a term that could actually cover any open teaching and learning activities, but we are using it here to designate teaching and learning activities that are further towards the “fully open” side of the spectrum. In this sense, open practice involves going beyond adopting a few open resources in one’s courses or posting faculty or student work publicly.

Open practice may involve:

  • Using all and only open resources in one’s course, such as readings that are not only free to read, but also openly licensed to allow downloading, revision, annotating, etc.

  • One’s entire course site is public and openly licensed even if one doesn’t post ALL aspects of a course publicly. Of course, things such as student marks should remain private, and one may also choose to not post exams so they can be reused later.

  • Any student work or instructor teaching and learning resources that are posted to a public site are also given an open license.

  • Openness extends to getting and incorporating feedback on the course and its open resources, whether instructor-produced or student-produced.

  • Not only products are open (such as the course site, teaching and learning resources, student work), but also processes. For example, one shares the processes of designing a course, of how a video was created, of how well a particular open assignment worked, etc.

  • One could open an entire course to participants from outside the institution (such as in a MOOC), still ensuring that the course elements are openly licensed

Reflections

Please read the following statement:

Open pedagogy is the natural progression of integrating socially just principles of human relations and the potential of current technology into the educational system. If we believe education leads to human flourishing and that education is a right, then the use and creation of TNGDM in tandem with effective teaching and learning strategies (that is, open pedagogy) is required to establish and protect that right. Open pedagogy fulfills one of the core commitments to a democratic system by cultivating an informed, educated, and engaged electorate…In fact, my theoretical approach to teaching draws directly from critical pedagogy which emphasizes the awakening of a critical consciousness. Critical pedagogy questions the institutions and practices of education by supporting an approach that emphasizes teaching as a political act, learner-centered practices, praxis, the co-production of knowledge, and the educator as a facilitator. I believe practicing contemporary critical pedagogy requires engaging with TNGDM and therefore leads naturally to experiments in open pedagogy
Dr. Arthur Gill Green, Affiliate Assistant Professor, UBC Geography.

What influences your teaching or learning practices? Do you agree or disagree that teaching is a political act? Why or why not?

Dig Deeper

To learn more about about how different scholars are defining of open pedagogy, please read:

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024

Sư phạm Mở (Trang của Đại học British Columbia, Canada)


Open Pedagogy

Theo: https://pose.open.ubc.ca/open-education/open-pedagogy/

Sư phạm Mở là ứng dụng các khái niệm của mở cho các thực hành giảng dạy và học tập. Nó có thể bao gồm sự kết hợp các chiến lược, công nghệ và cộng đồng mạng để trao quyền cho người học kiểm soát và chủ động trong việc học của chính mình. Module này sẽ khám phá các phương pháp giảng dạy và học tập được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của tính mở và sự tham gia của người học.

Các kết quả học tập

  • Xem xét các định nghĩa khác nhau về sư phạm mở

  • Hiểu những lợi ích và tác động của sư phạm tới việc tích hợp cách tiếp cận mở và việc giảng dạy và học tập

  • Khám phá các ví dụ khác nhau về các bài tập và dự án mở

  • Suy ngẫm về quyền, quyền riêng tư và khả năng chủ động của người học khi làm việc và học tập theo mở.

Ghi công ảnh: Person About to Write của Anastasiia Ostapovych trên Unsplash, thuộc về Phạm vi công cộng.

Cập nhật lần cuối 25/10/2021 lúc 10:29 am

Ngoại trừ những nơi được lưu ý khác, website này mang giấy phép CC BY 4.0 Quốc tế.

Open Pedagogy

Open pedagogy is the application of the concepts of open to the practices of teaching and learning. It can involve a blend of strategies, technologies, and networked communities to empower students to have control and agency over their own learning. This module will explore teaching and learning methods that build on principles of openness and learner participation.

Learning Outcomes

  • Consider different definitions of open pedagogy

  • Understand pedagogical benefits and impacts to integrating an open approaches into teaching & learning

  • Explore different examples of open assignments and projects

  • Reflect on student right, privacy, and agency when working and learning in the open.

Image Credit: Person About to Write by Anastasiia Ostapovych on Unsplash, in the Public Domain.

Last updated on October 25, 2021 @10:29 am

Except where otherwise noted, this website is licensed under a Creative Commons Attribution 4.0 International License.

Dịch: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

Triển khai Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO, cập nhật 15/10/2024


Implementation of the UNESCO Recommendation on Open Science

Theo: https://www.unesco.org/en/open-science/implementation#working-groups

Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO đã được Hội nghị Toàn thể UNESCO thông qua tại phiên thứ 41 của nó, vào ngày 23/11/2021. Khuyến nghị khẳng định tầm quan trọng của khoa học mở như một công cụ sống gòn để cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận của cả các kết quả đầu ra khoa học và quy trình khoa học, để lấp đi các khoảng trống về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa và trong các quốc gia và để thỏa mãn quyền con người về quyền truy cập tới khoa học.

Cập nhật lần cuối: 15/10/2024

Với việc áp dụng Khuyến nghị này, các quốc gia thành viên đã ôm lấy văn hóa và thực hành khoa học mở và đồng ý báo cáo ngược trở lại mỗi 4 năm một lần về sự tiến bộ. Họ cũng đã thể hiện mong muốn giữ cho quá trình triển khai Khuyến nghị là toàn diện, minh bạch và có tư vấn như một quá trình dẫn tới sự phát triển của nó.

Triển khai ở mức quốc gia

Các quốc gia thành viên được khuyến khích ưu tiên các lĩnh vực sau trong triển khai của họ Khuyến nghị Khoa học Mở 2021 của UNESCO:

  • Thúc đẩy sự hiểu biết về khoa học mở và những lợi ích và thách thức có liên quan của nó, cũng như các lộ trình khác nhau đến khoa học mở

  • Phát triển môi trường chính sách hỗ trợ cho khoa học mở

  • Đầu tư vào hạ tầng và các dịch vụ mà đóng góp cho khoa học mở

  • Đầu tư vào đào tạo, giáo dục, sáng số và xây dựng năng lực, tạo thuận lợi cho các nhà nghiên cứu và các bên liên quan khác tham gia vào khoa học mở

  • Thúc đẩy văn hóa khoa học mở và điều chỉnh các ưu đãi cho khoa học mở

  • Thúc đẩy các cách tiếp cận đổi mới về khoa học mở ở các giai đoạn khác nhau của quy trình khoa học

  • Thúc đẩy hợp tác quốc tế và nhiều bên tham gia trong bối cảnh khoa học mở nhằm giảm các khoảng trống về kỹ thuật số, công nghệ và kiến thức.

Chiến lược triển khai

Chiến lược triển khai đã được Ban thư ký UNESCO thiết kế để hỗ trợ cho các quốc gia thành viên trong triển khai Khuyến nghị bằng việc huy động các đối tác và các tác nhân khoa học mở trong và ngoài cộng đồng khoa học, từ các mức địa phương tới quốc tế, hành động để hoàn thành các mục tiêu chính của Khuyến nghị. Điều này đã được chia sẻ với các quốc gia thành viên UNESCO và Đối tác Khoa học Mở vào ngày 28/04/2022.

Bài trình chiếu về Khuyến nghị

Chiến lược triển khai

Khuyến nghị sẽ được triển khai thông qua:

Hướng dẫn và giám sát chiến lược

Tư vấn và hướng dẫn kỹ thuật

Đầu vào trong các sản phẩm kỹ thuật

UNESCO cũng đã phát triển một Bộ công cụ để hỗ trợ triển khai Khuyến nghị.

Cập nhật và tiến bộ:

Một cuộc học về thông tin đã được tổ chức cho các quốc gia thành viên ngày 5/3/2024 để chia sẻ các thông tin mới nhất về triển khai Khuyến nghị.

Các nhóm làm việc về khoa học mở

UNESCO đã triệu tập 5 Nhóm Làm việc đặc biệt nhằm vào các lĩnh vực tác động chính, tập hợp các chuyên gia và các thực thể, các tổ chức và cơ sở khoa học mở, theo các lĩnh vực hoặc động và sự tinh thông của họ:

Nhóm Làm việc về xây dựng năng lực Khoa học Mở

Đối chiếu thông tin về các học phần đào tạo có sẵn về khoa học mở cho các tác nhân khoa học mở khác nhau để ánh xạ các tài nguyên hiện có, xác định các khoảng trống và công việc phải lấp đi các khoảng trống đó.

Nhóm làm việc về Chính sách và các Công cụ chính sách Khoa học Mở

Kho toàn cầu các chính sách và công cụ chính sách khoa học mở

Nhóm làm việc về Cấp vốn và Ưu đãi cho Khoa học Mở

Các đề xuất về các cơ chế cấp vốn cho khoa học mở theo khu vực và chủ đề và các khuyến nghị sửa lại các tiêu chí đánh giá và thẩm định sự nghiệp nghiên cứu hiện hành

Nhóm làm việc về hạ tầng Khoa học Mở

Ánh xạ và phân tích các khoảng trống đối với các nền tảng khoa học mở quốc tế, khu vực và theo chủ đề cho việc chia sẻ kiến thức và các thực hành tốt nhất. Tập trung đặc biệt sẽ là vào các nền tảng theo chủ đề trong các lĩnh vực ưu tiên của UNESCO, bao gồm đa dạng sinh học, nước, giảm thiểu rủi ro thảm họa, khoa học địa lý, khoa học biển, biến đổi khí hậu, ...

  • Cuộc họp thứ 5, Thứ hai ngày 3/06/2024, 2-4 pm giờ Paris (CET). Cuộc họp sẽ tập trung vào khoa học mở và trí tuệ nhân tạo.

Nhóm làm việc về Khung giám sát Khoa học Mở

Khung giám sát khoa học mở toàn cầu

Đăng ký

Các cuộc họp chung của các Nhóm làm việc

Bạn có thể tham gia (các) nhóm bạn có quan tâm đóng góp, bằng việc đăng ký các cuộc họp sắp tới hoặc gửi yêu cầu của bạn đến openscience@unesco.org.

Ban chỉ đạo Khoa học Mở

Ban Chỉ đạo Khoa học Mở toàn cầu của UNESCO được Tổng Giám đốc UNESCO triệu tập để hỗ trợ cho bà triển khai Khuyến nghị Khoa học Mở 2021 của UNESCO.

Vai trò của Ban Chỉ đạo này là để xác định các cơ hội và thách thức chính trong triển khai Khuyến nghị và cung cấp hướng dẫn và giám sát tiến độ được thực hiện trong từng khu vực trên thế giới và với các tác nhân khoa học mở khác nhau.

Các thành viên của Ban Chỉ đạo Khoa học Mở

Nhóm I (Tây Âu và Bắc Mỹ)

  • Ms Hanne Monclair
    Giám đốc chuyên môn, Vụ Giáo dục Đại học, Nghiên cứu và Quan hệ Quốc tế, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu, Na Uy

  • Mr Yaşar Tonta
    Giáo sư, Phòng Quản lý Thông tin, Đại học Hacettepe, Thổ Nhĩ Kỳ

Nhóm II (Các quốc gia Đông Âu)

  • Ms Jitka Dobbersteinová
    Giám đốc Hỗ trợ, Phòng Khoa học Mở, Trung tâm Thông tin Khoa học và Kỹ thuật Slovak, Slovakia

  • Ms Nigar Babakhanova
    Phó Giáo sư, Viện Bản thảo Mahammad Fuzuli, Azerbaijan, Viện Hàn lâm Khoa học, Azerbaijan

Nhóm III (Các quốc gia Mỹ Latin và Caribé)

  • Ms Ana María Cetto
    Nhà nghiên cứu và Giáo sư, Viện Vật lý, Đại học Tự chủ Quốc gia Mexico, Mexico

  • Mr José Francisco Silva Garcés
    Chuyên gia, Trung tâm về Đổi mới và Chuyển giao Công nghệ của Đại học Quito, Ecuador

Nhóm IV (Các quốc gia châu Á và Thái bình dương)

  • Mr Jaime Carlos Montoya
    Giám đốc điều hành, Hội đồng Nghiên cứu và Phát triển Y học Philippine, Bộ Khoa học và Công nghệ, Philippines

  • Mr Akhilesh Gupta
    Cố vấn Cao cấp và Trưởng bộ phận, Bộ phận Quản lý Chương trình và Điều phối Chính sách, Bộ Khoa học và Công nghệ, Chính phủ Ấn Độ, Ấn Độ

Nhóm Va (Các quốc gia châu Phi)

  • Mr Tshiamo Motshegwa
    Giám đốc, Nền tảng Khoa học Mở châu Phi - AOSP (African Open Science Platform), Nam Phi

  • Mr Roger Ikor Glele Agboho
    Cố vấn Trưởng, Đại sứ quán Benin tại Pháp, Benin

Nhóm Vb (Các quốc gia Ả rập)

  • Ms Faten Yousef Al Jabsheh
    Giám đốc Bộ phận, Viện Khoa học và Nghiên cứu Cô Oét, Cô Oét

  • Mr Mouïn Hamzé
    Tổng Thư ký, Hội đồng Quốc gia về Nghiên cứu Khoa học, Li băng

Các chuyên gia quốc tế

  • Ms Myrna Cunningham (Nicaragua)
    Chủ tịch Trung tâm Tự chủ và Phát triển Người Bản địa (CADPI), và Phó Chủ tịch Ban quản trị Quỹ Phát triển Người Bản địa Mỹ Latin và Caribé

  • Ms Justine Germo Nzweundji (Cameroon)
    Nhà nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu Y học và Nghiên cứu Cây Thuốc (IMPM), Phó Phòng Thí nghiệm Thực vật học và Y học Cổ truyền, và Chủ tịch Viện các Nhà khoa học Trẻ Cameroon

  • Mr Joeli Veitayaki (Fiji)
    Phó giáo sư Nghiên cứu Biển tại Trường Nông nghiệp, Địa lý, Môi trường, Đại dương và Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Nam Thái Bình Dương

Nhóm Công tác liên ngành

Một Nhóm Công tác liên ngành và liên bộ phận về Khoa học Mở đang cung cấp sự giám sát và hướng dẫn cần thiết phản ánh quan điểm và những đóng góp của tất cả các bộ phận của Lĩnh vực Khoa học Tự nhiên và các lĩnh vực khác của UNESCO, có tính tới chuyên môn trong các ngành khoa học giáo dục, văn hóa, xã hội và nhân văn, truyền thông và thông tin.

The UNESCO Recommendation on Open Science was adopted by the General Conference of UNESCO at its 41st session, on 23 November 2021. The Recommendation affirms the importance of open science as a vital tool to improve the quality and accessibility of both scientific outputs and scientific process, to bridge the science, technology and innovation gaps between and within countries and to fulfill the human right of access to science.

Last update: 15 October 2024

With the adoption of this Recommendation, Member States have embraced the culture and practice of open science and agreed to report back every four years on their progress. They have also expressed their desire to keep the process of implementation of the Recommendation as inclusive, transparent and consultative as the process leading to its development.

Implementation at the national level

Member States are encouraged to prioritize the following areas in their implementation of the 2021 UNESCO Recommendation on Open Science:

  • Promoting a common understanding of open science and its associated benefits and challenges, as well as the diverse paths to open science

  • Developing an enabling policy environment for open science

  • Investing in infrastructure and services which contribute to open science

  • Investing in training, education, digital literacy and capacity-building, to enable researchers and other stakeholders to participate in open science

  • Fostering a culture of open science and aligning incentives for open science

  • Promoting innovative approaches to open science at different stages of the scientific process

  • Promoting international and multistakeholder cooperation in the context of open science with a view to reducing digital, technological and knowledge gaps.

Implementation Strategy

The implementation strategy was designed by the UNESCO Secretariat to support Member States in the implementation of the Recommendation by mobilizing partners and open science actors within and beyond the scientific community, from local to international levels, to take actions to accomplish the key objectives of the Recommendation. It was shared with UNESCO Member States and the Open Science Partnership on 28 April 2022.

Presentation of the Recommendation

Powerpoint presentation (Read pdf)

Implementation strategy

Powerpoint presentation (Read pdf)

The Recommendation will be implemented through:

Strategic guidance and oversight

Technical advice and guidance

Inputs into technical deliverables

UNESCO has also developed a Toolkit to support the implementation of the Recommendation.

Updates and progress:

An information meeting was held for Member States on 5 March 2024 to share the latest information on the implementation of the Recommendation.

Open science working groups

UNESCO convened 5 ad-hoc Working Groups focusing on key impact areas, bringing together experts and open science entities, organizations and institutions, according to their field of activity and expertise:

Working Group on Open Science Capacity Building

Collating information about available training modules on open science for different open science actors to map existing resources, identify the gaps and work to fill those gaps.

Working Group on Open Science Policies and Policy Instruments

Global repository of open science policies and policy instruments

Working Group on Open Science Funding and Incentives

Proposals for regional and thematic open science funding mechanisms and recommendations for revision of the current research careers assessments and evaluation criteria

Working Group on Open Science Infrastructures

Mapping and gaps analysis for international, regional and thematic open science platforms for sharing of knowledge and best practices. Specific focus will be on thematic platforms in UNESCO’s priority areas, including biodiversity, water, disaster risk reduction, geosciences, ocean sciences, climate change…

Working Group on Open Science Monitoring Framework

Global monitoring framework for open science

Register

Joint meetings of the Working Groups

4th meeting and Open Science Outlook, 15 February 2024

You can join the group(s) you are interested in contributing to, by registering for the upcoming meetings or sending your request to openscience@unesco.org.

Open Science Steering Committee

The UNESCO Global Open Science Steering Committee is convened by the UNESCO Director-General to assist her in the implementation of the 2021 UNESCO Recommendation on Open Science.

The role of the Steering Committee is to identify key opportunities and challenges in the implementation of the Recommendation and to provide guidance and oversight of the progress made in each region of the world and by different open science actors.

Members of the Open Science Steering Committee

Group I (Western European and North American States)

  • Ms Hanne Monclair
    Specialist Director, Department for Higher Education, Research and International Affairs, Ministry of Education and Research, Norway

  • Mr Yaşar Tonta
    Professor, Department of Information Management, Hacettepe University, Türkiye

Group II (Eastern European States)

  • Ms Jitka Dobbersteinová
    Support Manager, Department for Open Science, Slovak Centre of Scientific and Technical Information, Slovakia

  • Ms Nigar Babakhanova
    Associate Professor, Mahammad Fuzuli Institute of Manuscripts, Azerbaijan National Academy of Sciences, Azerbaijan

Group III (Latin-American and Caribbean States)

  • Ms Ana María Cetto
    Researcher and Professor, Physics Institute, National Autonomous University of Mexico, Mexico

  • Mr José Francisco Silva Garcés
    Specialist, University Hub for Innovation and Technology Transfer of Quito, Ecuador

Group IV (Asian and Pacific States)

  • Mr Jaime Carlos Montoya
    Executive Director, Philippine Council for Health Research and Development, Department of Science and Technology, Philippines

  • Mr Akhilesh Gupta
    Senior Adviser and Head, Policy Coordination and Programme Management Division, Department of Science and Technology, Government of India, India

Group Va (African States)

  • Mr Tshiamo Motshegwa
    Director, The African Open Science Platform (AOSP), South Africa

  • Mr Roger Ikor Glele Agboho
    First Counselor, Embassy of Benin in France, Benin

Group Vb (Arab States)

  • Ms Faten Yousef Al Jabsheh
    Division Director, Kuwait Institute for Scientific Research, Kuwait

  • Mr Mouïn Hamzé
    Secretary General, National Council for Scientific Research, Lebanon

International experts

  • Ms Myrna Cunningham (Nicaragua)
    Chairperson of the Center for Autonomy and Development of Indigenous People (CADPI), and Vice-President of the Board of the Latin American and Caribbean Indigenous People Development Fund

  • Ms Justine Germo Nzweundji (Cameroon)
    Researcher at the Institute of Medical Research and Medicinal Plants Studies (IMPM), Deputy Head of the Laboratory of Botany and Traditional Medicine, and President of the Cameroon Academy of Young Scientists

  • Mr Joeli Veitayaki (Fiji)
    Associate Professor of Marine Studies at the School of Agriculture, Geography, Environment, Ocean and Natural Science of the University of the South Pacific

Intersectoral Task Team

An interdivisional and intersectoral Task Team on Open Science is providing the necessary oversight and guidance reflecting the perspectives and contributions of all divisions of the Natural Sciences Sector and other sectors of UNESCO taking into account expertise in education, culture, social and human sciences, communication and information.

Blogger: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com