Xem
thêm: Khoa
học mở - Open Science
Cách
tân Mở đã được mô tả khác nhau như một quy trình,
một tập hợp các mối quan hệ tạm thời, và một hệ
biến hóa có tính nhận thức. Ban đầu do Henry Chesbrough
giải thích:
Cách
tân Mở là hệ biến hóa với các giả thuyết các hãng
có thể và nên sử dụng các ý tưởng ở bên ngoài cũng
như các ý tưởng trong nội bộ, và các con đường cả
bên trong và bên ngoài tới thị trường, khi các hãng tìm
cách cải tiến công nghệ của họ. Cách tân Mở kết hợp
các ý tưởng bên trong và bên ngoài thành các kiến trúc
và hệ thống với các yêu cầu của chúng được mô hình
kinh doanh xác định.
Henry
Chesbrough, Cách
tân mở: Nhu cầu Mới (2003)
Định
nghĩa gần đây hơn (và được ưu tiên hơn) của GS.
Chesbrough là:
“Cách
tân Mở là sử dụng các dòng chảy tri thức vào trong và
ra ngoài có chủ đích để tăng tốc cách tân trong nội
bộ, và mở rộng các thị trường để sử dụng cách
tân ở bên ngoài, một cách tương ứng. [Hệ biến hóa]
này giả thiết các hãng có thể và nên sử dụng các ý
tưởng ở bên ngoài cũng như trong nội bộ, và các con
đường cả bên trong và bên ngoài tới thị trường, khi
họ tìm cách cải tiến công nghệ của họ”.
Henry
Chesbrough, Cách
tân mở: Nghiên cứu Hệ biến hóa Mới(2006)
Có 2 định nghĩa
sớm nhất (và chính thức); tuần tự các định nghĩa đó
được đưa ra vào tháng
08/2007 đăng trên Open
Innovation blog của Joel West.
Để
giới thiệu mở rộng hơn, bên dưới là trích đoạn từ
bài báo của TS. Chesbrough “Kỷ nguyện của Cách tân Mở”
đã xuất hiện trên tạp chí của MIT Sloan Management
Review; Spring2003, Vol. 44 Issue 3, p35-41.
Tóm tắt
Ngày nay, trong
nhiều nền công nghiệp, logic hỗ trợ một tiếp cận
hướng nội bộ, được tập trung hóa tới nghiên cứu và
phát triển - R&D (Research and Development) đã trở nên
lỗi thời. Tri thức hữu dụng đã trở nên rộng khắp
và các ý tưởng phải được sử dụng với sự nhanh
nhẹn. Các yếu tố như vậy tạo ra logic mới của Cách
tân Mở ôm lấy các ý tưởng và tri thức ở bên ngoài
kết hợp với R&D trong nội bộ. Sự thay đổi này
chào các cách thức mới lạ để tạo ra giá trị. Tuy
nhiên, các công ty vẫn phải tiến hành công việc khó
khăn và vất vả cần thiết để biến các kết quả
nghiên cứu có hứa hẹn thành các sản phẩm và dịch vụ
làm thỏa mãn các nhu cầu của các khách hàng. Những
người sáng tạo phải tích hợp các ý tưởng, sự tinh
thông và các kỹ năng của họ với của những người
khác bên ngoài tổ chức để đưa kết quả tới thị
trường, sử dụng các phương tiện hiệu quả nhất có
thể. Nói ngắn gọn, các hãng có thể khai thác các ý
tưởng ở bên ngoài để cải thiện cho việc kinh doanh
của riêng họ trong khi việc tận dụng các ý tưởng
trong nội bộ của họ ở bên ngoài các hoạt động hiện
hành của họ có khả năng thịnh vượng trong kỷ nguyên
cách tân mở mới này.
Giới thiệu
Trong quá khứ, R&D
trong nội bộ từng là tài sản chiến lược có giá trị,
thậm chí từng là một rào cản lối vào kinh khủng đối
với các đối thủ cạnh tranh trong nhiều thị trường.
Chỉ các tập đoàn lớn như DuPont, IBM và AT&T có thể
cạnh tranh bằng việc tiến hành hầu hết R&D trong các
nền công nghiệp tương ứng của họ (và sau đó cũng gặt
hái hầu hết các lợi lộc). Các đối thủ cạnh tranh
nào tìm cách hất cẳng các ông lớn đó phải tìm được
các nguồn lực đáng kể để tạo ra các phòng thí nghiệm
của riêng họ, nếu học có bất kỳ cơ hội thành công
nào. Tuy nhiên, những ngày đó các tập đoàn công nghiệp
hàng đầu của quá khứ đã và đang gặp phải sự cạnh
tranh mạnh đáng kể từ nhiều công ty khởi nghiệp. Đáng
ngạc nhiên, những người mới tới đó bản thân họ
tiến hành ít hoặc không tiến hành nghiên cứu cơ bản,
thay vào đó có được các ý tưởng mới để đưa ra thị
trường thông qua một quy trình khác.
Hãy xem xét Lucent
Technologies, nó thừa hưởng phần khổng lồ của Bell
Laboratories sau khi phân chia AT&T. Trong thế kỷ 20, Bell
Labs có lẽ từng là tổ chức nghiên cứu công nghiệp
hàng đầu và điều này lẽ ra đã là một vũ khí chiến
lược có tính quyết định cho Lucent trong thị trường
thiết bị viễn thông. Tuy nhiên, mọi điều đã không đi
theo đường hướng đó. Cisco Systems, hãng thiếu bất kỳ
thứ gì giống với các năng lực R&D trong nội bộ sâu
của Bell Labs, bằng cách nào đó đã bền bỉ xử trí để
đứng ngang hàng được với Lucent, thậm chí đôi khi đánh
bại Lucent để đưa ra thị trường. Điều gì đã xảy
ra vậy?
Dù Lucent và Cisco
đã cạnh tranh trực tiếp trong cùng một ngành công
nghiệp, 2 công ty đã không cách tân theo cùng một cách
thức. Lucent đã dành riêng các tài nguyên khổng lồ cho
việc khai phá thế giới các vật liệu mới và các thành
phần và các hệ thống hiện đại, tìm kiếm các phát
hiện nền tảng cơ bản có thể nuôi dường các thế hệ
tương lai các sản phẩm và dịch vụ. Cisco, mặt khác, đã
triển khai một chiến lược rất khác trong cuộc chiến
của nó vì sự lãnh đạo cách tân. Bất kể công nghệ
nào công ty cần, nó đã mua từ bên ngoài, thường bằng
việc đối tác hoặc đầu tư vào các công ty khởi nghiệp
có hứa hẹn (trớ
trêu, một vài công
ty được các
cựu nhân viên của Lucent sáng lập). Theo cách này, Cosco
bắt kịp đầu ra R&D có lẽ của tổ chức R&D tốt
nhất thế giới của nền công nghiệp đó, tất cả bản
thân nó không có tiến hành nhiều nghiên
cứu.
Câu
chuyện của Lucent và Cisco không phải là trường hợp
riêng lẻ. Sức mạnh nghiên
cứu khác thường của IBM trong điện toán
đưa ra ít sự bảo vệ chống lại Intel và Microsoft trong
kinh doanh phần cứng và phần mềm máy tính. Tương tự,
Motorola, Siemens và những người khổng lồ công nghiệp
khác đã nhìn một cách bất lực khi Nokia tự phóng bản
thân lên hàng đầu trong lĩnh vực điện thoại không dây
chỉ trong vòng 20 năm, xây dựng nên kinh nghiệm công
nghiệp của nó từ các thập niên trước đó trong các
nền công nghiệp công nghệ thấp về bột gỗ và ủng
cao su. Những người khổng lồ dược phẩm như Merck và
Pfizer cũng đã đứng nhìn khi một số các công ty khởi
nghiệp, bao gồm Genentech, Amgen và Genzyme, đã đánh cược
các phát hiện nghiên cứu của những người khác để
trở thành các tay chơi chính trong công nghiệp công nghệ
sinh học.
Từ Đóng
sang Mở
Cách tân là chết?
Hầu như không, như được các tiến bộ gần đây trong
các khoa học đời sống nhấn mạnh, bao gồm các đột
phá mang tính cách mạng trong gen học và mô phỏng. Vậy
vì sao R&D trong nội bộ không còn là tài sản chiến
lược như đã từng nữa? Câu trả lời nằm ở sự dịch
chuyển nền tảng trong cách các công ty sinh ra các ý tưởng
mới và mang chúng tới thị trường. Trong mô hình cũ của
cách tân đóng, các hãng đã gắn với triết lý sau: Cách
tân thành công đòi hỏi sự kiểm soát. Nói cách khác,
các công ty phải sinh ra các ý tưởng của riêng họ để
họ sau đó có thể phát triển, sản xuất, tiếp thị,
phân phối và phục vụ bản thân họ (xem “Mô hình Cách
tân Đóng”). Tiếp cận này kêu gọi sự tự tin: nếu
bạn muốn thứ gì đó làm đúng, bạn hãy tự mình làm
điều đó.
Nhiều năm, logic
cách tân đóng đó được ngầm hiểu là đương nhiên như
là “đúng cách” để mang các ý tưởng mới tới thị
trường và các công ty thành công tất cả đều đã chơi
với các quy tắc ngầm nhất định. Họ đã đầu tư
nhiều vào R&D nội bộ hơn so với các đối thủ của
họ và họ đã thuê những người tốt nhất và chói sáng
nhất (để gặt hái các phần thưởng của những người
thông minh nhất nền công nghiệp). Nhờ vào các đầu tư
như vậy, họ đã có khả năng phát hiện số lượng tố
nhất và lớn nhất các ý tưởng, chúng đã cho phép họ
tới được thị trường trước. Điều này, tới lượt
nó, đã xúc tác cho họ gặt hái được hầu hết các lợi
nhuận, điều họ được việc kiểm soát hăng hái sở
hữu trí tuệ (IP) của họ bảo vệ để ngăn cản các
đối thủ cạnh tranh khỏi việc khai thác nó. Họ sau đó
có thể tái đầu tư lợi nhuận vào việc tiến hành
nhiều R&D hơn, điều sau đó đã dẫn tới các phát
hiện đột phá thêm nữa, tạo ra vòng đức hành các cách
tân.
Hầu hết trong thế
kỷ 20, mô hình đó đã làm việc - và nó đã làm việc
tốt. Nhờ nó, Thomas Edison đã có khả năng phát minh ra
một ố thiết bị mang tính bước ngoặt, bao gồm máy hát
và bóng đèn chiếu sáng, điều đã lát đường cho sự
thành lập Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu lừng danh của
General Electric ở Niskayuna, New York. Trong công nghiệp hóa
học, các công ty như DuPont đã thành lập các phòng thí
nghiệm nghiên cứu trung tâm để xác định và thương mại
hóa sự đa dạng tuyệt vời các sản phẩm mới, như
nylon sợi tổng hợp, Kevlar và Lycra. Các nhà nghiên cứu
của Bell Labs đã phát hiện ra hiện tượng vật lý thú
vị và đã khai thác các phát hiện đó để tạo ra vô số
các sản phẩm mang tính cách mạng, bao gồm các bán dẫn
và laser.
Dù vậy, hướng
tới cuối thế kỷ 20, một số yếu tố kết hợp làm
xói mòn các trụ chống của cách tân đóng ở nước Mỹ.
Có lẽ lý do chính giữa các yếu tố đó từng là sự
gia tăng mạnh mẽ số lượng và sự di động của các
công nhân tri thức, làm gia tăng khó khăn cho các công ty
kiểm soát các ý tưởng sở hữu độc quyền và sự tinh
thông của họ. Một yếu tố quan trọng khác từng là sự
sẵn sàng gia tăng vốn đầu tư mạo hiểm của tư nhân,
điều đã giúp cấp tài chính cho các hãng mới và các nỗ
lực của họ để thương mại hóa các ý tưởng đã tràn
ra ngoài hầm chứa khép kín của các phòng thí nghiệm
nghiên cứu của tập đoàn.
Các
yếu tố như vậy đã tàn phá chu kỳ đức hạnh từng
duy trì cho cách tân đóng. Bây
giờ, khi các đột phá xảy ra, các nhà khoa học và các
kỹ sư đã từng làm ra chúng có sự lựa chọn ở bên
ngoài mà trước đó họ còn thiếu. Nếu
một công ty đã cấp vốn cho sự phát hiện không theo
đuổi nó theo cách thức đúng lúc, mọi người có liên
quan có thể tự họ theo đuổi nó - trong một công ty khởi
nghiệp được vốn đầu tư mạo hiểm cấp tài chính.
Nếu hãng chim non đó đã trở nên thành
công, nó có thể giành được cấp tài chính bổ sung
thông qua việc chào cổ phần hoặc nó có thể được/bị
mua với giá hấp dẫn. Dù trong trường hợp nào,
công ty khởi nghiệp thành công đó cũng có thể thường
không tái đầu tư vào các phát hiện nền tảng mới, mà
thay vào đó, như Cisco, nó có thể tìm kiếm ở bên ngoài
công nghệ khác để thương mại hóa. Vì
thế, chu kỳ đức hạnh của cách tân bị phá vỡ: công
ty ban đầu đã cấp vốn cho đột phá đã không hưởng
lợi từ sự đầu tư đó, và hãng đã thu hoạch được
lợi nhuận đã không tái đầu tư tiền lãi của nó để
cấp tài chính cho thế hệ tiếp sau các khám phá.
Trong mô hình mới
này của Cách tân Mở, các hãng thương mại hóa các ý
tưởng bên ngoài (cũng như bên trong) bằng việc triển
khai các con đường bên ngoài (cũng như trong nội bộ) tới
thị trường. Đặc biệt, các công ty có thể thương mại
hóa các ý tưởng nội bộ thông qua các kênh bên ngoài
của các công việc kinh doanh hiện hành của họ để sinh
giá trị cho tổ chức. Vài phương tiện để hoàn thành
điều này bao gồm các công ty khởi nghiệp (chúng có thể
được cấp tài chính và nhân viên với vài nhân sự của
riêng công ty đó) và các thỏa thuận cấp phép. Hơn nữa,
các ý tưởng cũng có thể sinh ra từ bên ngoài các phòng
thí nghiệm của riêng hãng và được mang vào trong để
thương mại hóa. Nói cách khác, biên giới giữa một hãng
và môi trường xung quanh nó là xốp hơn, xúc tác cho cách
tân và chuyển dễ dàng giữa 2 mô hình (xem “Mô hình
Cách tân Mở”).
Ở tận gốc của
nó, Cách tân Mở dựa vào bức tranh tri thức dư thừa,
điều phải được sử dụng dễ dàng nếu nó để cung
cấp giá trị cho công ty đã tạo ra nó. Tuy nhiên, một tổ
chức không nên hạn chế tri thức nó phát hiện trong
nghiên cứu của nó đối với các con đường thị trường
trong nội bộ, cũng như các con đường nội bộ đó không
nên nhất thiết bị hạn chế chỉ mang tri thức nội bộ
của công ty đó tới thị trường. Quan điểm này gợi ý
vài quy tắc rất khác nhau (xem “Các Nguyên tắc tương
phản của Cách tân Đòng và Mở ” ở trang sau). Ví
dụ, một công ty không nên khóa IP của nó,
mà thay vào đó nó nên tìm các
cách thức hưởng lợi từ sử dụng của những người
khác công nghệ đó thông qua các thỏa thuận cấp phép,
các đầu tư rủi ro và các thỏa thuận khác.
Một sự khác biệt
chính giữa cách tân đóng và mở năm ở cách các công ty
sàng lọc các ý tưởng của họ. Trong bất kỳ quy trình
R&D nào, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý của
họ phải tách bạch các đề xuất tồi khỏi các đề
xuất tốt sao cho họ có thể bỏ đi cái trước trong khi
theo đuổi và thương mại hóa cái sau. Cả
các mô hình đóng và mở đều có khả năng loại bỏ
“những điều tích cực giả“ (đó là, các ý tưởng
tồi nhưng ban đầu trong có hứa hẹn), nhưng Cách tân Mở
cũng kết hợp khả năng giải thoát cho “những điều
tiêu cựu giả” (các dự án ban đầu dường như không
có hứu hẹn nhưng hóa ra là có giá trị đáng kinh ngạc).
Một công ty tập trung quá nhiều vào nội bộ - đó là,
hãng với tiếp cận cách tân đóng - có khuynh hướng bỏ
qua một số cơ hội đó vì nhiều điều nằm bên ngoài
việc kinh doanh hiện hành của tổ chức hoặc sẽ cần
phải được kết hợp với các công nghệ ở bên ngoài
để mở khóa tiềm năng của chúng. Điều này có thể
đặc biệt đau đớn cho các tập đoàn đã thực hiện
các đầu tư đáng kể dài hạn vào nghiên cứu, chỉ để
phát hiện sau này rằng vài dự án họ đã bỏ qua đã có
giá trị thương mại khổng lồ.
Ví
dụ điển hình là Xerox và Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto
(PARC) của nó. Các nhà nghiên cứu ở đó đã phát triển
vô số các công nghệ phần cứng và phần mềm - Ethernet
và giao diện đồ họa của người sử dụng (GUI) là 2 ví
dụ như vậy. Tuy nhiên, các sáng chế đó đã không được
coi như là các công việc kinh doanh có hứa hẹn cho Xerox
nó nó đã tập trung vào các máy sao chụp và các máy in
tốc độ cao. Nói cách khác, các công nghệ đó là những
điều tiêu cực giả (n1) và chúng đã lụi tàn bên trong
Xerox, chỉ được các công ty khác thương mại hóa mà,
trong quá trình đó, đã thu hoạch được những lợi ích
khổng lồ. Apple Computer, ví dụ, đã khai thác GUI đó
trong hệ điều hành Macintosh trong khi Microsoft cũng đã làm
điều y hệt trong hệ điều hành Windows của nó.
Open
innovation has been variously described as a process, a set of
interfirm relationships, and a cognitive paradigm. As originally
explained by Henry Chesbrough:
Open
Innovation is a paradigm that assumes that firms can and should use
external ideas as well as internal ideas, and internal and external
paths to market, as the firms look to advance their technology. Open
Innovation combines internal and external ideas into architectures
and systems whose requirements are defined by a business model.
Prof.
Chesbrough’s more recent (and preferred) definition is:
“Open
innovation is the use of purposive inflows and outflows of knowledge
to accelerate internal innovation, and expand the markets for
external use of innovation, respectively. [This paradigm] assumes
that firms can and should use external ideas as well as internal
ideas, and internal and external paths to market, as they look to
advance their technology.”
These
are the two earliest (and official) definitions; subsequent
definitions are given by an
August 2007 posting in Joel West’s Open
Innovation blog.
For
a more expanded introduction, below is an excerpt from Dr.
Chesbrough’s article “The Era of Open Innovation” which
appeared in MIT Sloan
Management Review;
Spring2003, Vol. 44 Issue 3, p35-41.
Abstract
Today,
in many industries, the logic that supports an internally oriented,
centralized approach to research and development (R&D) has become
obsolete. Useful knowledge has become widespread and ideas must be
used with alacrity. Such factors create a new logic of open
innovation that embraces external ideas and knowledge in conjunction
with internal R&D. This change offers novel ways to create value.
However, companies must still perform the difficult and arduous work
necessary to convert promising research results into products and
services that satisfy customers’ needs. Innovators must integrate
their ideas, expertise and skills with those of others outside the
organization to deliver the result to the marketplace, using the most
effective means possible. In short, firms that can harness outside
ideas to advance their own businesses while leveraging their internal
ideas outside their current operations will likely thrive in this new
era of open innovation.
Introduction
In
the past, internal R&D was a valuable strategic asset, even a
formidable barrier to entry by competitors in many markets. Only
large corporations like DuPont, IBM and AT&T could compete by
doing the most R&D in their respective industries (and
subsequently reaping most of the profits as well). Rivals who sought
to unseat those powerhouses had to ante up considerable resources to
create their own labs, if they were to have any chance of succeeding.
These days, however, the leading industrial enterprises of the past
have been encountering remarkably strong competition from many
upstarts. Surprisingly, these newcomers conduct little or no basic
research on their own, but instead get new ideas to market through a
different process.
Consider
Lucent Technologies, which inherited the lion’s share of Bell
Laboratories after the breakup of AT&T. In the 20th century, Bell
Labs was perhaps the premier industrial research organization and
this should have been a decisive strategic weapon for Lucent in the
telecommunications equipment market. However, things didn’t quite
work out that way. Cisco Systems, which lacks anything resembling the
deep internal R&D capabilities of Bell Labs, somehow has
consistently managed to stay abreast of Lucent, even occasionally
beating the company to market. What happened?
Although
Lucent and Cisco competed directly in the same industry, the two
companies were not innovating in the same manner. Lucent devoted
enormous resources to exploring the world of new materials and
state-of-the-art components and systems, seeking fundamental
discoveries that could fuel future generations of products and
services. Cisco, on the other hand, deployed a very different
strategy in its battle for innovation leadership. Whatever technology
the company needed, it acquired from the outside, usually by
partnering or investing in promising startups (some, ironically,
founded by ex-Lucent veterans). In this way, Cisco kept up with the
R&D output of perhaps the world’s finest industrial R&D
organization, all without conducting much research of its own.
The
story of Lucent and Cisco is hardly an isolated instance. IBM’s
research prowess in computing provided little protection against
Intel and Microsoft in the personal computer hardware and software
businesses. Similarly, Motorola, Siemens and other industrial titans
watched helplessly as Nokia catapulted itself to the forefront of
wireless telephony in just 20 years, building on its industrial
experience from earlier decades in the low-tech industries of wood
pulp and rubber boots. Pharmaceutical giants like Merck and Pfizer
have also watched as a number of upstarts, including Genentech, Amgen
and Genzyme, has parlayed the research discoveries of others to
become major players in the biotechnology industry.
From
Closed to Open
Is
innovation dead? Hardly, as punctuated by the recent advances in the
life sciences, including revolutionary breakthroughs in genomics and
cloning. Then why is internal R&D no longer the strategic asset
it once was? The answer lies in a fundamental shift in how companies
generate new ideas and bring them to market. In the old model of
closed innovation, firms adhered to the following philosophy:
Successful innovation requires control. In other words, companies
must generate their own ideas that they would then develop,
manufacture, market, distribute and service themselves (see “The
Closed Innovation Model”). This approach calls for self-reliance:
If you want something done right, you’ve got to do it yourself.
For
years, the logic of closed innovation was tacitly held to be
self-evident as the “right way” to bring new ideas to market and
successful companies all played by certain implicit rules. They
invested more heavily in internal R&D than their competitors and
they hired the best and the brightest (to reap the rewards of the
industry’s smartest people). Thanks to such investments, they were
able to discover the best and greatest number of ideas, which allowed
them to get to market first. This, in turn, enabled them to reap most
of the profits, which they protected by aggressively controlling
their intellectual property (IP) to prevent competitors from
exploiting it. They could then reinvest the profits in conducting
more R&D, which then led to additional breakthrough discoveries,
creating a virtuous cycle of innovation.
For
most of the 20th century, the model worked — and it worked well.
Thanks to it, Thomas Edison was able to invent a number of landmark
devices, including the phonograph and the electric light bulb, which
paved the way for the establishment of General Electric’s famed
Global Research Center in Niskayuna, New York. In the chemical
industry, companies like DuPont established central research labs to
identify and commercialize a stunning variety of new products, such
as the synthetic fibers nylon, Kevlar and Lycra. Bell Labs
researchers discovered amazing physical phenomena and harnessed those
discoveries to create a host of revolutionary products, including
transistors and lasers.
Toward
the end of the 20th century, though, a number of factors combined to
erode the underpinnings of closed innovation in the United States.
Perhaps chief among these factors was the dramatic rise in the number
and mobility of knowledge workers, making it increasingly difficult
for companies to control their proprietary ideas and expertise.
Another important factor was the growing availability of private
venture capital, which has helped to finance new firms and their
efforts to commercialize ideas that have spilled outside the silos of
corporate research labs.
Such
factors have wreaked havoc with the virtuous cycle that sustained
closed innovation. Now, when breakthroughs occur, the scientists and
engineers who made them have an outside option that they previously
lacked. If a company that funded a discovery doesn’t pursue it in a
timely fashion, the people involved could pursue it on their own —
in a startup financed by venture capital. If that fledgling firm were
to become successful, it could gain additional financing through a
stock offering or it could be acquired at an attractive price. In
either case, the successful startup would generally not reinvest in
new fundamental discoveries, but instead, like Cisco, it would look
outside for another technology to commercialize. Thus, the virtuous
cycle of innovation was shattered: The company that originally funded
a breakthrough did not profit from the investment, and the firm that
did reap the benefits did not reinvest its proceeds to finance the
next generation of discoveries.
In
this new model of open innovation, firms commercialize external (as
well as internal) ideas by deploying outside (as well as in-house)
pathways to the market. Specifically, companies can commercialize
internal ideas through channels outside of their current businesses
in order to generate value for the organization. Some vehicles for
accomplishing this include startup companies (which might be financed
and staffed with some of the company’s own personnel) and licensing
agreements. In addition, ideas can also originate outside the firm’s
own labs and be brought inside for commercialization. In other words,
the boundary between a firm and its surrounding environment is more
porous, enabling innovation to move easily between the two (see “The
Open Innovation Model”).
At
its root, open innovation is based on a landscape of abundant
knowledge, which must be used readily if it is to provide value for
the company that created it. However, an organization should not
restrict the knowledge that it uncovers in its research to its
internal market pathways, nor should those internal pathways
necessarily be constrained to bringing only the company’s internal
knowledge to market. This perspective suggests some very different
rules (see “Contrasting Principles of Closed and Open Innovation”
next page). For example, no longer should a company lock up its IP,
but instead it should find ways to profit from others’ use of that
technology through licensing agreements, joint ventures and other
arrangements.
One
major difference between closed and open innovation lies in how
companies screen their ideas. In any R&D process, researchers and
their managers must separate the bad proposals from the good ones so
that they can discard the former while pursuing and commercializing
the latter. Both the closed and open models are adept at weeding out
“false positives” (that is, bad ideas that initially look
promising), but open innovation also incorporates the ability to
rescue “false negatives” (projects that initially seem to lack
promise but turn out to be surprisingly valuable). A company that is
focused too internally — that is, a firm with a closed innovation
approach — is prone to miss a number of those opportunities because
many will fall outside the organization’s current businesses or
will need to be combined with external technologies to unlock their
potential. This can be especially painful for corporations that have
made substantial long-term investments in research, only to discover
later that some of the projects they abandoned had tremendous
commercial value.
The
classic example is Xerox and its Palo Alto Research Center (PARC).
Researchers there developed numerous computer hardware and software
technologies — Ethernet and the graphical user interface (GUI) are
two such examples. However, these inventions were not viewed as
promising businesses for Xerox, which was focused on high-speed
copiers and printers. In other words, the technologies were false
negatives( n1) and they languished inside Xerox, only to be
commercialized by other companies that, in the process, reaped
tremendous benefits. Apple Computer, for instance, exploited the GUI
in its Macintosh operating system while Microsoft did the same in its
Windows operating system.
Dịch: Lê Trung
Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.