Thứ Hai, 11 tháng 5, 2020

Bên trong viện bảo tàng là bên ngoài viện bảo tàng - suy nghĩ về Truy cập Mở và văn hóa của tổ chức

Inside the Museum is Outside the Museum — Thoughts on Open Access and Organisational Culture
Karin Glasemann, Mar 13 · 18 min read
Theo: https://medium.com/open-glam/inside-the-museum-is-outside-the-museum-thoughts-on-open-access-and-organisational-culture-1e9780d6385b
Bài được đưa lên Internet ngày: 13/03/2020
St. Catherine of Alexandria, của Artemisia Gentileschi. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Chỉ khi nào các cơ sở văn hóa bắt đầu sử dụng các công nghệ số để thúc đẩy các phương pháp nghiên cứu mới và làm việc cộng tác (…), khi đó họ thực sự đã bắt đầu nghĩ theo kỹ thuật số”. Giáo sư Ellen Euler.

Trích dẫn ở trên tóm tắt kinh nghiệm làm việc của tôi với số hóa và phát triển số ở viện bảo tàng quốc gia, viện bảo tàng nghệ thuật và thiết kế Thụy Điển, trong vòng 7 năm qua. Nhưng từ thường nói “nghĩ theo kỹ thuật số” ngụ ý gì trong một tổ chức văn hóa và Truy cập Mở có liên quan gì tới nó?
Vài năm qua, chúng tôi đã thấy sự dịch chuyển dạng thức nơi các viện bảo tàng điều chỉnh sự giải thích các tuyên bố sứ mệnh của họ hướng tới việc khuyến khích đối thoại và trao quyền cho các khách viếng thăm để định hình các trải nghiệm văn hóa của riêng họ. Một cách lý tưởng, vai trò của viện bảo tàng trong kịch bản này dịch chuyển từ chủ yếu là cơ sở thu thập, giảng dạy và bảo tồn sang vai trò uyển chuyển hơn trong cung cấp sự truy cập, xúc tác cho thảo luận và trao đổi.
Sự biến đổi số rộng lớn hơn của xã hội một phần đã khởi xướng, và đang nuôi dưỡng, sự biến đổi vai trò này của viện bảo tàng. “Số hóa” hạ thấp các rào cản truy cập, cho phép tham gia và thảo luận theo dạng thức dễ dàng hơn nhiều và, quan trọng nhất, nó chào tiềm năng cho bất kỳ ai để xây dựng dựa vào các tài sản đó và mở rộng tri thức mà viện bảo tàng chào.
Tuy nhiên, tiềm năng vốn dĩ này không ngụ ý nó được sử dụng với mức độ đầy đủ của nó. Dù nhằm để trở thành một cơ sở mở là nền tảng cho các mục tiêu của hầu hết các viện bảo tàng, sự đồng thuận về “tính mở” đạt được tốt nhất như thế nào dường như còn xa mới đạt được.
Cảnh hồ ở Engelsberg, Västmanland, của Olof Arborelius. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng
Từ bỏ kiểm soát bằng OpenGLAM
Khái niệm theo đó các cơ sở cung cấp truy cập tới các bộ sưu tập số của họ, ở vài mức độ, thể hiện thiện chí của họ để nhường lại quyền kiểm soát xung quanh các câu chuyện được kể về các bộ sưu tập đó. Các viện bảo tàng thiết kế các kinh nghiệm của người sử dụng như thế nào xung quanh các bộ sưu tập số của họ? Họ khuyến khích - hay không khuyến khích - sử dụng lại các tài sản số của họ như thế nào?
Phong trào được biết tới như là Open GLAM xây dựng dựa vào cơ sở rằng dữ liệu di sản văn hóa nên được chia sẻ cởi mở, nghĩa là, ‘Dữ liệu và nội dung mở có thể được bất kỳ ai vì bất kỳ mục đích gì tự do không mất tiền để sử dụng, sửa đổi, và chia sẻ. Nguyên tắc của tính mở đó từng là một phần của phát triển web từ lâu trước khi nó với tới được lĩnh vực di sản văn hóa. Đặc biệt đối với các viện bảo tàng nghệ thuật, OpenGLAM ngụ ý số hóa nên không bao giờ bổ sung thêm bản quyền mới - và vì thế ngụ ý sự kiểm soát - đối với các tác phẩm nghệ thuật văn hóa trong phạm vi công cộng.
Để cho phép sử dụng lại tự do không mất tiền, các bộ sưu tập được số hóa dịch chuyển từ các triển lãm thụ động sang trở thành tư liệu thô cho bất kỳ người sử dụng nào để hưởng thụ, học tập từ đó và xây dựng dựa vào nó. Dù đã có sự kháng cự chống lại phong trào OpenGLAM, số lượng ngày một tăng các cơ sở áp dụng các chính sách mở được cho là chậm như có xung lượng không thể dừng được hướng tới tính mở lớn hơn.
Apostle Paul của Jan Lievens. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Những người gây ảnh hưởng của OpenGLAM và Viện bảo tàng Quốc gia
Phong trào OpenGLAM trong lĩnh vực bảo tàng đã lan rộng khắp châu Âu rồi từ Rijksmuseum năm 2011, và vài cơ sở ở Mỹ đã bước theo sau, với Viện Smithsonian như là mới nhất, hầu hết sự bổ sung có tính minh họa cho đám đông của OpenGLAM. Từ 2012, tổ chức viện bảo tàng đầu tiên của Thụy Điển, cơ quan chính phủ của Livrustkammaren och Skoklosters slott med Stiftelsen Hallwylska Museet (LSH), đã quyết định mở kho lưu trữ ảnh của nó để sử dụng lại không giới hạn, trong cộng tác với Wikimedia Thụy Điển.
Phòng trưng bày Quốc gia Đan Mạch, SMK, từng strong có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ OpenGLAM kể từ ngay ban đầu. Nó đã làm cho bộ sưu tập của nó tải về được và sử dụng lại được ở phạm vi rộng vào năm 2015. Ngay sau đó, Viện bảo tàng für Kunst und Gewerbe đã mở ra bộ sưu tập của nó cho sử dụng lại tự do không mất tiền, trở thành viện bảo tàng nghệ thuật đầu tiên của Đức làm như vậy.
Các ví dụ đó đã giúp tăng tốc thảo luận hướng tới tính mở nhiều hơn ở Viện bảo tàng Quốc gia, dẫn tới tuyên bố chính sách OpenGLAM của nó vào tháng 10/2016 — vài tháng trước khi Viện bảo tàng Nghệ thuật Thủ đô, như là một trong những cơ sở mạnh trong lĩnh vực viện bảo tàng nghệ thuật, đã xuất bản sáng kiến Truy cập Mở của nó vào năm 2017.
Khi Giám đốc Số của Met, Loic Tallon, đã quyết định từ nhiệm vào tháng 3/2019, Tổng Giám đốc của Met Mã Hollein đã ca ngợi công việc của ông bằng việc lên khung cho “sáng kiến Truy cập Mở, theo đó Viện bảo tàng đã phát hành hơn 400.000 hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật trong bộ sưu tập để bất kỳ cá nhân nào trên thế giới sử dụng không có giới hạn” như một trong những di sản quan trọng nhất của ông. Sáng kiến Truy cập Mở, Hollein nói, đã biến đổi cách Met kết nối với các khán thính phòng, và đã được khuếch đại mạnh mẽ thông qua việc xây dựng các quan hệ đối tác mạnh.
Con mèo trong bụi hoa của Bruno Liljefors. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Bất chấp các ví dụ tích cực đó, các cơ sở vẫn còn e ngại với việc cung cấp truy cập đầy đủ tới các bộ sưu tập được số hóa của họ, chưa nói tới sử dụng lại tự do không mất tiền. Vài cơ sở chỉ ra rằng họ không có thiện chí từ bỏ đặc quyền giải thích của họ. Hầu hết các cơ sở thường ủng hộ truy cập mở, nhưng cảm thấy họ cần đánh giá rủi ro kỹ lưỡng hơn. Họ lo ngại liệu các lợi ích tiềm năng có thắng được các rủi ro của việc mở ra hay không.
Từng cơ sở có tập hợp các rủi ro và lý lẽ của riêng mình để nói chống lại việc tham gia phong trào đã được mô tả như là Tính mở Trực tuyến Mới trong năm 2015. Nhưng những lợi ích tiềm tàng của OpenGLAM là nhất quán và có thể được tóm tắt như là: sự vươn tới rộng hơn, tính trực quan cao hơn, nhiều người sử dụng hơn và cộng tác tăng cường hơn với các khán thính phòng của viện bảo tàng.
Liệu điều này có ngụ ý OpenGLAM tự động “biến đổi cách thức chúng ta kết nối với các khán thính phòng” hay không, Max Hollein đã nêu? Hãy nhìn sát hơn vào những gì đã xảy ra trước đó, trong và sau khi Viện bảo tàng Quốc gia đã quyết định triển khai những gì chúng tôi đã bắt đầu gọi là “Chính sách OpenGLAM” của chúng tôi.
Bà mẹ nghệ sỹ của Akseli Gallen-Kallela. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Cân bằng rủi ro thiệt hại với lợi ích công cộng
Viện bảo tàng Quốc gia đã tung ra chính sách OpenGLAM của nó vào năm 2016, theo sau nhiều thảo luận, bao gồm, nhưng không giới hạn tới: các chi phí hạ tầng kỹ thuật để cung cấp truy cập tới các bộ sưu tập; thiếu các tài nguyên số hóa và siêu dữ liệu làm catalog; mất doanh thu bởi việc không có khả năng bán các giấy phép hình ảnh được nữa và các lo ngại về sử dụng phi đạo đức các tác phẩm nghệ thuật. Dựa vào nghiên cứu của Simon Tanner, sự mất mát doanh thu đáng sợ đã được tuyên bố bằng huyền thoại của Merete Sanderhoff vào năm 2013. Thậm chí đối với Viện bảo tàng Quốc gia điều đó từng đúng rằng viện bảo tàng đã không còn sinh lợi nhuận bằng việc bán tranh nữa. Tôi sẽ quay lại câu hỏi không thể tránh khỏi của việc đầu tư vào hạ tầng số, nhưng muốn bắt đầu bằng việc thảo luận về nỗi sợ hãi bị lạm dụng.
Hầu hết các cơ sở của chúng ta đang cố gắng làm tốt nhất để trở thành các địa điểm mở và mời chào. Và vẫn còn 46% các công dân chưa tham gia các viện bảo tàng nghệ thuật và thiết kế đã trích dẫn “Nó không dành cho những ai như tôi” như là một rào cản. Trong các thảo luận về các giấy phép mở, câu hỏi bị lạm dụng luôn nảy sinh. Và trong khi tôi đồng ý rằng có lẽ có các bộ sưu tập nhạy cảm không nên được sử dụng lại mà không có các giới hạn ngoài môi trường khoa học, khi nói về nghệ thuật, chúng ta nên tự hỏi mình một chính sách cấp phép đóng cho hình ảnh sẽ truyền đạt được bao nhiêu cho thái độ “bộ sưu tập này không dành cho ai đó như bạn” trong môi trường số.
Như Hamilton và Saunderson chỉ ra, nếu bạn đang vật lộn với sự mất kiểm soát, là cực kỳ hữu dụng để phá vỡ “rủi ro bị lạm dụng” mơ hồ sang các câu hỏi rất chính xác: “Nếu […] kiểm soát bị mất, điều này sẽ gây hại cho chúng ta như thế nào? Nó sẽ gây ra thiệt hại vật chất ư? Tính chân thực của thông tin ư?”
Và trong khi nghĩ về sự chân thực, đáng đặt ra câu hỏi ngược lại: “Liệu việc cấp phép hạn chế có gây thiệt hại cho chúng ta không, về vật chất, cho công chúng hoặc tính chân thực của thông tin hay không?”. Là quan trọng để nhớ rằng các giấy phép đóng không bảo vệ cho sự trông cậy của viện bảo tàng khỏi bị lạm dụng. Tôi tin tưởng rằng sự thiệt hại dành cho công chúng, vật chất và đặc biệt cho tính chân thực và khả năng truy xuất thông tin là lớn hơn nhiều nếu tư liệu đó không được mở ra để sử dụng lại so với rủi ro tiềm tàng bị lạm dụng. Nếu tư liệu đó không dễ để có thể được sử dụng lại, “sự uyên thâm [bị] bỏ lại một mình, tri thức không được bảo tồn cho thế hệ sau, sử dụng sáng tạo các cơ hội số bị bỏ bớt”.
Các giấy phép hạn chế không luôn dừng được những kẻ xấu khỏi làm nhiều điều xấu với tư liệu của viện bảo tàng, mà chúng sẽ luôn dừng những người tốt khỏi làm những điều tốt.
May thay, trong sự đổi mới gần 6 năm của nó, Viện bảo tàng Quốc gia đã nắm lấy quan điểm rằng nếu nó có thể mở lại viện bảo tàng vật lý cho bất kỳ ai, nó cần đảm bảo rằng các bộ sưu tập của nó được mọi người nhận ra, trên trực tuyến cũng như trên thực địa. Berndt Arell, sau này là Tổng Giám đốc, đã công bố chính sách OpenGLAM của Viện bảo tàng Quốc gia vào tháng 10/2016, nêu:
Chúng tôi cam kết đáp ứng sứ mệnh của chúng tôi thúc đẩy nghệ thuật, mối quan tâm về nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật bằng việc làm cho các hình ảnh từ các bộ sưu tập của chúng tôi trở thành một phần không thể thiếu của môi trường số ngày nay. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng các tác phẩm nghệ thuật đó thuộc về và vì thế dành cho tất cả chúng ta, bất kể các hình ảnh đó được sử dụng như thế nào. Chúng tôi hy vọng bộ sưu tập mở của chúng tôi sẽ truyền cảm hứng cho những sử dụng và diễn giải mới sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật đó”.
Trong khi thời điểm như vậy có vẻ giống như sự kết thúc của phát triển dài lâu, thì nó chỉ mới là sự khởi đầu. Theo ý kiến cá nhân tôi, các cơ sở mở nào đang thúc đẩy sự tham gia và hội nhập không còn có khả năng viện lý nhạy cảm cho các giấy phép hạn chế được nữa. Mặt khác, tổ chức không tự động trở thành hội nhập chỉ bằng việc áp dụng chính sách truy cập mở.
Như được nêu trước đó, phong trào mở đã được khởi xướng và nuôi dưỡng bằng sự biến đổi số nói chung mà chúng ta đang thấy trong xã hội. Không may, biến đổi số, đặc biệt trong môi trường viện bảo tàng, chủ yếu vẫn còn được hiểu là một vấn đề kỹ thuật, vấn đề về tối ưu hóa hạ tầng số và tốt nhất - một kênh truyền thông. Theo cách thức y hệt việc cấp phép mở thường được coi như là vấn đề của chính sách bản quyền, hạ tầng CNTT, hoặc việc làm catalog siêu dữ liệu. Trong khi là tự nhiên để bắt đầu thảo luận theo cách này, chúng ta nên suy nghĩ rằng sự biến đổi này là về con người, không phải về kỹ thuật.
Thách thức thực sự của tính mở là việc thay đổi thái độ của viện bảo tàng hướng tới những người sử dụng của nó, bất kể chúng ta đang ở đâu trong quá trình số hóa các bộ sưu tập hoặc đang làm cho chúng sẵn sàng. Và chỉ bằng cách thay đổi thái độ, những lợi ích có hứa hẹn hoặc thường được kỳ vọng của chính sách truy cập mở mới có thể hiện thực hóa được.
Lâu đài Kalmar dưới ánh trăng, Carl Johan Fahlcrantz. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Việc phát triển truy cập mở ở Viện bảo tàng Quốc gia
Bước đầu tiên và quan trọng nhất của Viện bảo tàng Quốc gia, đánh dấu khoảng 50.000 hình ảnh bằng giấy phép CC BY-SA thay vì ©, đã được triển khai hầu như không nhận ra. Chỉ trong năm 2016, khi chúng tôi đã đi từ CC BY-SA sang phạm vi công cộng, và buộc chính sách mới vào sự cộng tác tích cực với Wikimedia Thụy Điển và cộng đồng của nó, chúng tôi đã bắt đầu thấy tác động.
Viện bảo tàng đã bắt đầu hiểu rằng việc đáp ứng sứ mệnh của nó để “cung cấp những cuộc gặp gỡ có ý nghĩa giữa con người và nghệ thuật” đã không nhất thiết ngụ ý để mọi người tới viếng thăm tòa nhà hoặc website. Trên thực tế, cơ hội thực sự để làm cho các bộ sưu tập của viện bảo tàng được biết tới tốt hơn cho một khán thính phòng rộng lớn hơn từng là xuất bản chúng trên các nền tảng phổ biến như Wikipedia.
Sự cộng tác của Viện bảo tàng Quốc gia với Wikimedia Thụy Điển đã bắt đầu ở phạm vi khá nhỏ: 3.000 hình ảnh độ phân giải cao mô tả các bản vẽ trong bộ sưu tập của Viện bảo tàng Quốc gia đã được tải lên Wikimedia Commons và siêu dữ liệu liên quan đã được tải lên Wikidata. Trong vòng một tuần, các hình ảnh đã được sử dụng trong hơn 100 bài báo và đã được xem 104.000 lần. Tới tháng 3/2019, các hình ảnh đó đã được hơn 1.800 bài báo sử dụng, và ngày nay chúng có khoảng 1,5 triệu lần xem mỗi tháng.
Tin tức về chính sách OpenGLAM của Viện bảo tàng Quốc gia đã thu hút vài cơ quan truyền thông quốc gia và quốc tế, nhưng quan trọng nhất nó đã sinh ra sự hiện diện trên các phương tiện xã hội chúng tôi từng không được thấy trước đó. Sự việc các hình ảnh được cấp phép mở của Viện bảo tàng Quốc gia đã được sử dụng trong minh họa của IKEA vào năm 2019 (xem ảnh bên dưới) phục vụ như là ví dụ về việc bây giờ có nhiều hơn bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật của chúng tôi được bày ra cho công chúng, thậm chí không có sự tham gia tích cực của viện bảo tàng.
Các bản in từ bộ sưu tập của Viện bảo tàng Quốc gia được sử dụng để trang trí trong bài đăng của IKEA vào tháng 3/2019. Người sử dụng hỏi về nguồn của các hinahf ảnh và câu trả lời của IKEA trỏ chỉ cho người sử dụng trực tiếp tới website của Viện bảo tàng Quốc gia và trích dẫn các giấy phép tự do.

Lợi ích xung quanh bộ sưu tập được số hóa này tới như là sự ngạc nhiên cho vài đồng nghiệp, nhưng nó đã được sử dụng trong việc tái định vị liên tục thương hiệu của viện bảo tàng và tông giọng của nhóm truyền thông. Các trao đổi thư điện tử với những người sử dụng của chúng tôi chỉ ra truy cập mở đã, và thường đang, đáp ứng được với sự kính trọng và biết ơn như thế nào.
Truyền thông truy cập mở ở Viện bảo tàng Quốc gia
Chúng tôi đã nhận ra rằng chúng tôi đã cần đồng thanh nhiều hơn về chính sách OpenGLAM của chúng tôi, bên trong và vượt ra khỏi cơ sở. Sự phát hành mở đã tạo ra mối quan tâm thực sự nên chúng tôi đã cần đảm bảo rằng nó vẫn là một ưu tiên. Chính sách cấp phép nhanh chóng trở thành một phần của huấn luyện chung cho các nhân viên mới. Nó đã nâng cao nhận thức về các nền tảng khác nhau nơi những người sử dụng có thể tương tác với các bộ sưu tập của Viện bảo tàng Quốc gia mà bộ sưu tập đó đang không được trưng bày một cách vật lý cho công chúng.
Vào năm 2017 Viện bảo tàng Quốc gia đã chuẩn bị khởi xướng lại một website mới, biết rằng nó muốn tung ra vào thời điểm nơi chưa có tòa nhà viện bảo tàng chính nào để thu hút các khách viếng thăm tới, và không triển lãm đương thời chính nào. Nội dung mà chúng tôi đã có cho các kênh số của chúng tôi trước khi viện bảo tàng được mở lại (vào tháng 10/2018) từng là các câu chuyện về sự cách tân đang diễn ra và nội dung từ bản thân bộ sưu tập đó. Khi chúng tôi đã thấy nhiều lượt xem hơn (các viếng thăm lên gấp đôi) tới bộ sưu tập đang có của chúng tôi trên trực tuyến như là kết quả của chính sách OpenGLAM, chúng tôi đã nghĩ về nhiều cách thức hơn để làm cho khả năng truy cập các bộ sưu tập của chúng tôi được nhiều người sử dụng biết tới.
Website viện bảo tàng được khởi xướng lại, bộ sưu tập trên trực tuyến và ứng dụng mới hướng dẫn khách viếng thăm đã được phát triển cho việc mở lại viện bảo tàng tất cả đều đặt các giấy phép mở ở các vị trí nổi bật có chủ ý. Điều này có lẽ giống như một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng để làm cho khái niệm về tính mở được biết đối với các nhân viên, những người còn chưa làm việc với chủ đề này trước đó.
Đã trở nên rõ ràng rằng mỗi phát triển mới và dạng truy cập mới chúng tôi đã trao cho những người sử dụng của chúng tôi tới bộ sưu tập, chúng tôi có lẽ không có khả năng kiểm soát hoặc thậm chí dõi theo những gì họ đã làm từ nó. Trong quá trình phát triển việc trình bày các bộ sưu tập được số hóa thông qua website chính và ứng dụng hướng dẫn khách thăm quan, chúng tôi đã nhận thức được chúng tôi cần nêu lại văn bản giấy phép thậm chí với các tuyên bố đơn giản hơn như “Hình ảnh này là tự do không mất tiền để sử dụng lại”. Trong khi các giấy phép cung cấp thông tin chính xác và mở rộng trong những gì người sử dụng có thể có hoặc không sử dụng hình ảnh, chúng tôi đã nhận thấy rằng người sử dụng nào chưa nhận thức được về khung Creative Commons có thể không luôn hiểu được các biểu tượng.
Tác phẩm nghệ thuật được trình bày trong ứng dụng hướng dẫn khách viếng thăm của Viện bảo tàng Quốc gia, và trong các tua du lịch trên trực tuyến trình bày các khía cạnh khác nhau của bộ sưu tập.
Một tác phẩm nghệ thuật được trình bày trong tua trên trực tuyến của Viện bảo tàng Quốc gia trình bày các khía cạnh khác nhau của bộ sưu tập.

Số hóa và các thách thức của biến đổi số
Cùng lúc, Viện bảo tàng Quốc gia đã chuẩn bị cho việc mở lại một cách vật lý (đã đóng từ năm 2013) bao gồm trình bày mới các bộ sưu tập sau gần 10 năm nghiên cứu các bộ sưu tập. Thảo luận xung quanh cách chúng tôi sẽ giám sát việc cập nhật dữ liệu và sản xuất văn bản khi chuẩn bị cho các triển lãm mới để mở lại, đã thắp sáng về những gì tôi nghĩ là vấn đề mang tính triệu chứng khi nói về biến đổi số trong các viện bảo tàng.
Nhiều cơ sở đối mặt với khoảng cách số giữa quay trình số hóa/làm catalog dài hạn và các nhu cầu ngắn hạn cho các dự án triển lãm và truyền thông số. Thường thì, nhiều nội dung thú vị (và thậm chí thường về công nghệ) được sản xuất khi chuẩn bị một triển lãm hoặc chương trình mới. Nghiên cứu khoa học được triển khai và nhiều sự việc được bổ sung thêm, được kiểm tra 2 lần và được cập nhật. Tư liệu đó được xuất bản và lưu trữ, nhưng thường không có sự kết nối với công việc số hóa và/hoặc làm catalog đang diễn ra.
Số hóa dài lâu, mặt khác, tuân theo tập hợp các quy định chính xác và thường là tĩnh nhưng nó đôi khi có một người sử dụng đầu cuối nhất định trong đầu. Nói một cách rõ ràng, số hóa các bộ sưu tập trong hầu hết các viện bảo tàng có mục tiêu hơi mơ hồ “số hóa toàn bộ bộ sưu tập”. Nó được cho là để giải quyết tất cả các vấn đề trong việc xử lý và làm tài liệu và phục vụ cho tất cả các câu hỏi khoa học có thể nảy sinh trong tương lai. Câu hỏi về chất lượng siêu dữ liệu, nghĩa là ghi công đúng, ngày tháng, nguồn gốc xuất xứ, .v.v. có mặt ở khắp nơi và thường giữ cho các cơ sở khỏi việc xuất bản bất kỳ điều gì còn chưa được kiểm chứng 2 lần.
Ở Viện bảo tàng Quốc gia, thông tin cơ bản về các phần được số hóa của bộ sưu tập đã được công khai cho công chúng từ 2010, dù với chất lượng dữ liệu chưa nhất quán, nhưng vài cơ sở chọn chỉ xuất bản các điểm chính thay vì trao truy cập tới tất cả tài liệu của họ. Mục tiêu thường là để phân phối siêu dữ liệu chất lượng cao trong toàn bộ bộ sưu tập, nhưng không giống như các cuộc triển lãm, số hóa chung trong các viện bảo tàng hiếm khi có thời hạn chót phải đáp ứng nên nó phát triển rất chậm.
Hầu hết những người chuyên nghiệp trong viện bảo tàng không hoàn toàn làm việc về các câu hỏi ưu tiên số hóa thấp hơn so vói tất cả các mối quan tâm khác. Trong hầu hết các trường hợp điều này dẫn tới ít nhiều các cơ sở dữ liệu nội bộ và trên trực tuyến được duy trì tốt, theo đó ít thành viên nhân viên có sự hiểu biết hoặc kiểm soát đầy đủ đối với chúng. Các hệ thống đó thường không đáp ứng mối quan tâm về khoa học vì hoặc dữ liệu không có đủ, dữ liệu không đủ chính xác hoặc các hình ảnh chất lượng không đủ cho hầu hết các tài sản. Mặt khác, thường là khó để xây dựng cam kết xung quanh chúng, vì các nhân viên truyền thông không luốn biết những gì đã được số hóa và sẵn sàng, và với chất lượng nào nó được làm thành tài liệu, hoặc thậm chí điều hướng như thế nào trong hệ thống nội bộ đó.
John Jennings Esq., anh trai và chị dâu của ông, của Alexander Roslin. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Thiết kế lại các quy trình quản lý thông tin
Đối với Viện bảo tàng Quốc gia, do đó, nó đã tập trung vào trình bày mới bộ sưu tập sắp tới trong hầu hết các quy trình mà thu hẹp được khoảng cách truyền thống đó và để lại toàn bộ cơ sở sử dụng dữ liệu được cung cấp. Chúng tôi đặt hệ thống quản lý bộ sưu tập vào trung tâm của việc làm tài liệu và lập kế hoạch trình bày mới và theo dõi tất cả các bản sửa lỗi, các bản bổ sung và cập nhật trong nó. Thực tế là mối quan tâm trong bộ sưu tập được số hóa của chúng tôi đã gia tăng bên ngoài cơ sở đã mở mắt cho chúng tôi về các khả năng mới đối với tư liệu ngoài sử dụng được dự kiến như các văn bản được in trong triển lãm sắp tới.
Tất nhiên, sự khởi đầu số hóa chính, việc làm catalog và việc cập nhật dự án từng không quá nhiều vì chính sách OpenGLAM. Đã có sự bùng phát về sự cần thiết phải chuyển vật lý 400.000 hiện vật ra khỏi viện bảo tàng trước khi xây dựng mới lại. Dù vậy, không có mối quan tâm gia tăng xung quanh các bộ sưu tập số của chúng tôi trên các nền tảng khác nhau, nó có lẽ đã hầu như không có khả năng để thúc đẩy và thực hiện sự cần thiết về việc không chỉ đăng ký số lượng, tên và hình ảnh đủ cho kiểm soát công việc hậu cần, mà thậm chí còn giám sát các mô tả, thông tin còn thiếu, ngày tháng, .v.v. theo cách thức được tập trung hóa và bền vững.
Khi viện bảo tàng đã đồng ý về cách để xử lý quy trình cập nhật thông tin và các mô tả đối với hơn 5.000 hiện vật mà có thể tạo thành trình bày mới của bộ sưu tập trong viện bảo tàng được mở lại, thông tin này từng truy cập được qua toàn bộ cơ sở và vì thế hữu dụng cho nhiều mục đích hơn là chỉ trở thành một nhãn mới trong viện bảo tàng. Việc chuẩn bị các nhãn và các thông tin khác đã được điều chỉnh với quy trình số hóa, nó đã giúp biến cơ sở dữ liệu quản lý bộ sưu tập thành kho tri thức đáng tin cậy (với hầu hết các hình ảnh “đủ tốt” cho tất cả các hiện vật được trưng bày mà có thể được sử dụng như là nguyên liệu thô cho việc kể chuyện và tham gia trên trực tuyến thông qua các nền tảng phương tiện khác nhau.
Công ty vui vẻ của Jan Massys. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Mở truy cập và tâm trí
Có lẽ dường như là lạ lẫn đề khen việc sử dụng một hệ thống nội bộ hơn 10 năm tuổi như là dấu hiệu của biến đổi số thành công. Tuy nhiên, công việc thường nhật của chúng tôi từng là về việc có tri thức sẵn sàng trong cơ sở và tin tưởng các đồng nghiệp với sự tinh thông khác nhau để xử lý nó có trách nhiệm. Trong một cơ sở truyền thống như Viện bảo tàng Quốc gia, bước tiến đó từng khó khăn hơn nhiều nếu chúng tôi đã không có khả năng trỏ tới chính sách OpenGLAM xuyên khắp các thảo luận. Làm thế nào chúng tôi có thể bảo vệ ý tưởng của OpenGLAM nếu chúng tôi không chia sẻ thông tin tự do và ở mức giám sát nội bộ?
Cùng lúc, chúng tôi đã trải nghiệm ở phạm vi nhỏ về các câu hỏi như làm thế nào để làm cho các hình ảnh sẵn sàng, làm thế nào để xây dựng các hạng mục đầu vào hấp dẫn cho bộ sưu tập được số hóa của chúng tôi mà không cần đầu tư quá nhiều vào hạ tầng hoặc phát triển kỹ thuật. Khi khởi xướng lại website, và phát triển ứng dụng mới hướng dẫn khách thăm quan, chúng tôi có thể sử dụng các kinh nghiệm đó để hưởng lợi trong phạm vi rộng lớn hơn. Ứng dụng hướng dẫn khách viếng thăm của chúng tôi có số lượng người sử dụng và người xem lại tốt (đối với một ứng dụng của viện bảo tàng), nhưng chuyện vui nội bộ nói rằng các nhận xét nhiệt tình nhất phải tới từ các đồng nghiệp vì từng người là quá tự hào về nó.
Trong khi tôi đang không biện hộ rằng bất kỳ ai trong chúng tôi nên phát triển bất kỳ ứng dụng nào hơn, tôi vẫn thích nghĩ về câu chuyện đùa đó như là một thành tích. Biến đổi số của một cơ sở chỉ làm việc với bất kỳ ai tham gia vào. Chúng tôi vẫn cần các thí điểm phạm vi nhỏ và nhiều dự án hải đăng hơn để hướng dẫn chúng tôi, nhưng chúng tôi chắc chắn cần thiết lập sự hiểu biết thực sự về cộng tác số và tính mở bên trong cơ sở ở phạm vi rộng lớn hơn - điều có thể chỉ làm việc được bằng việc cung cấp dịch vụ số mà hầu hết các thành viên nhân viên có thể tích cực cảm thấy rằng họ đã đóng góp.
Máng gỗ. Cảnh mùa đông. Từ “Ngôi nhà (26 màu nước)”, của Carl Larsson. Viện bảo tàng Quốc gia, phạm vi công cộng

Các suy nghĩ để kết thúc
Trong khi tôi không đồng tình với hầu hết các rủi ro (như lạm dụng nội dung) mà đối khi có liên quan tới OpenGLAM, tôi muốn kết thúc bằng việc chỉ ra rằng có thách thức với quyết định có lợi cho OpenGLAM. Không cơ sở nào có thể kỳ vọng rằng việc đồng thuận về một chính sách mở sẽ chỉ “tạo ra” nhiều tương tác hơn với công chúng, nếu không thay đổi gì hơn.
Là đúng rằng “việc mở bộ sưu tập ra cung cấp phương tiện cho việc cam kết các sứ mệnh của cơ sở có liên quan tới việc giáo dục và thông tin cho công chúng, trong khi mời gọi các thực hành mới cho việc thu hút công chúng đó”, nhưng nó cần công việc tích cực (và được ưu tiên) với các thực hành mới vì cam kết đó và với các cộng đồng có liên quan.
Việc triển khai truy cập mở ngụ ý tiến hành bước đầu trong chuyển đổi quá độ mà sẽ dẫn tới một môi trường viện bảo tàng số hơn và cộng tác hơn, cả bên trong và bên ngoài. Sự biến đổi này đôi khi sẽ gây sợ hãi và đau đớn, nhưng nếu các viện bảo tàng muốn hưởng lợi từ những lợi ích có liên quan tới OpenGLAM, thì bước đầu tiên là thừa nhận rằng “việc thiết lập văn hóa trong viện bảo tàng nơi sự cộng tác mở là chuẩn mức là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ sự cộng tác nào với các cộng đồng” (Seb Chan, 2018).
Cách duy nhất để xây dựng tương lai số bền vững cho lĩnh vực văn hóa là bằng việc ôm lấy các nguyên lý của tính mở và sự cộng tác. 

Tài liệu



St. Catherine of Alexandria, by Artemisia Gentileschi. Nationalmuseum, Public Domain
“It is only when cultural institutions start using digital technologies to foster new research methods and to work collaboratively (…), that they have truly begun to think digitally.” Professor Ellen Euler.
The quote above summarises my experience of working with digitisation and digital development at Nationalmuseum, Sweden’s museum for art and design, over the last seven years. But what does the buzzword “thinking digitally” mean in a cultural organisation and what has Open Access got to do with it?
In the last few years, we have seen a paradigm shift where museums adjust or re-interpret their mission statements towards encouraging dialogue and empowering visitors to shape their own cultural experiences. Ideally, the museum’s role in this scenario shifts from being primarily a collecting, teaching and preserving institution to a more fluid role of providing access, enabling discussion and exchange.
The wider digital transformation of society partly initiated, and is fuelling, this transformation of the museum’s role. “Digital” lowers barriers of access, allows participation and discussion in a much easier form and, most importantly, it offers the potential for everyone to build upon the assets and to extend the knowledge that the museum offers.
However, this inherent potential does not mean it is used to its full extent. Although aiming to be an open institution is fundamental to most museums’ goals, a consensus on how “openness” is best achieved seems far from being reached.
Lake View at Engelsberg, Västmanland, by Olof Arborelius. Nationalmuseum, Public Domain
Giving up control with Open GLAM
The terms on which institutions provide access to their digital collections, to some extent, express their willingness to cede control around the stories told about those collections. How do museums design user experiences around their digitised collections? How do they encourage — or not encourage — re-use of the digital assets?
The movement known as Open GLAM builds on the premise that cultural heritage data should be shared openly, i.e. ‘Open data and content can be freely used, modified, and shared by anyone for any purpose. The principle of openness has been a natural part of web development long before it reached the cultural heritage sector. For art museums in particular, Open GLAM means that digitisation should never add a new copyright — and thus means of control — to cultural works of art in the public domain.
In allowing free reuse, digitised collections shift from passive showcases to become raw material for every user to enjoy, learn from and build upon. Although there has been resistence against the Open GLAM movement, the growing number of institutions adopting open policies is suggestive of a slow but unstoppable momentum towards greater openness.
Apostle Paul by Jan Lievens. Nationalmuseum, Public Domain
Open GLAM influencers and the Nationalmuseum
The Open GLAM movement in the museum sector was spearheaded in Europe by the Rijksmuseum already in 2011, and several American institutions followed suit, with the Smithsonian Instiution as the latest, most illustrious addition to the Open GLAM crowd. Already in 2012, the first Swedish museum organisation, the government agency of Livrustkammaren och Skoklosters slott med Stiftelsen Hallwylska Museet (LSH), decided to open its image archive for unrestricted reuse, in collaboration with Wikimedia Sweden.
The Danish National Gallery, SMK, had been a strong pro-Open GLAM voice since the very beginning. It made its collection downloadable and reusable on a large scale in 2015. Shortly afterwards, the Museum für Kunst und Gewerbe opened its collection for free reuse, the first German art museum to do so.
These examples helped to accelerate the discussion towards more openness at Nationalmuseum, resulting in its Open GLAM policy announcement in October 2016 — a few month before the Metropolitan Museum of Art, as one of the heavyweights in the art museum sector, published its Open Access initiative in 2017.
When the Met’s Chief Digital Officer, Loic Tallon, decided to leave his post in March 2019, the Met’s Director General Max Hollein lauded his work by framing “the Open Access initiative, through which the Museum has released over 400,000 images of artworks in the collection for unrestricted use by any individual around the world” as one of his most important legacies. The Open Access initiative, said Hollein, “has transformed how The Met connects with audiences, and was greatly amplified through building strong partnerships”.
Cat on a flowery meadow by Bruno Liljefors. Nationalmuseum, Public Domain
Despite these positive examples, institutions still shy away from providing full access to their digitised collections, let alone free reuse. Some point out that they are not willing to give up their prerogative of interpretation. Most institutions are generally in favour of open access, but feel they need a more thorough risk assessment. They worry whether the potential benefits will outweigh the risks of opening up.
Every institution has its own set of risks and arguments that speak against joining the movement that was described as New Online Openness in 2015. But the potential benefits of Open GLAM are consistent and can be summarised as: broader reach, higher visibility, more users and more intense collaboration with the museum’s audiences.
Does this mean Open GLAM automatically “transforms the way we connect with audiences”, as Max Hollein stated? Let’s have a closer look at what happened before, during and after the Nationalmuseum decided to implement what we have come to call our “OpenGLAM-Policy”.
The Artist’s Mother by Akseli Gallen-Kallela. Nationalmuseum, Public Domain
Balancing the risk of harm with the public good
Nationalmuseum launched its Open GLAM policy in 2016, following intense internal discussions, including, but not limited to: costs of technical infrastructure to provide access to the collections; missing resources for digitization and metadata cataloguing; loss of income by not being able to sell image licences anymore and concerns about morally inappropriate use of the artworks. Based on Simon Tanner’s research, the feared loss of income was declared a myth by Merete Sanderhoff in 2013. Even for Nationalmuseum it was true that the museum was no longer generating profit by selling images. I will come back to the inevitable question of investing into digital infrastructure, but want to start by discussing the fear of misuse.
Most of our institutions are doing their best to be open and inviting places. And yet 46% of the citizens who do not participate in art or design museums cited “It’s not for someone like me” as a barrier. In discussions about open licences the question of misuse always arises. And while I agree that there might be sensitive collections that should not be reusable without limits outside a scientific sphere, when it comes to art, we should question ourselves how much a closed image licensing policy will communicate an attitude of “this collection is not for someone like you” in the digital sphere.
As Hamilton and Saunderson point out, if you are struggling with the loss of control, it is extremely helpful to break down the vague “risk of abuse” to the very precise questions: “If […] control is lost, how will this damage us? Will it damage the material? The information’s veracity?”
And while thinking about veracity, it is worth posing the opposite question: “Will restrictive licensing damage us, the material, the public or the information’s veracity?”. It is important to remember that closed licenses do not safeguard the museum’s recourses from being misused. I believe that the harm done to the public, the material and especially to the information’s veracity and retrievability is far greater if the material is not opened for reuse than the potential risk of abuse. If the material cannot easily be reused, “scholarship [is] left undone, knowledge not preserved for the next generation, creative use of digital opportunities truncated”.
Restrictive licences don’t always stop bad people from doing bad stuff with the museum’s material, but they will always stop good people from doing good.
Fortunately, during its almost six-year renovation, Nationalmuseum took the view that if it was going to reopen a physical museum for everyone, it needed to make sure that its collections were perceived as everyone’s, online as well as onsite. Berndt Arell, then Director General, announced the Nationalmuseum’s Open GLAM policy in October 2016, stating:
“We are committed to fulfilling our mission to promote art, interest in art, and art history by making images from our collections an integral part of today’s digital environment. We also want to make the point that these artworks belong to and are there for all of us, regardless of how the images are used. We hope our open collection will inspire creative new uses and interpretations of the artworks.”
While such a moment might look like the end of a long development, it was just the beginning. In my opinion, open institutions which foster participation and inclusion are no longer be able to sensibly argue for restrictive licences. On the other hand, an organisation does not automatically become inclusive just by applying open access policy.
As stated earlier, the open movement was initiated and fuelled by the general digital transformation we are seeing in society. Unfortunately, digital transformation, especially in the museum sphere, is still mainly understood to be a technical issue, a problem about streamlining digital infrastructure and at best — a communication channel. In the same way, open licensing is often seen as a matter of copyright policy, IT infrastructure, or metadata cataloguing. While it is natural to start the discussion this way, we should be mindful that this transformation is about people, not techniques.
The real challenge of openness is changing a museum’s attitude towards its users, no matter where we are in the process of digitising the collections or making them available. And it is only by change attitudes that the promised and often expected benefits of open access policy can be realised.
Kalmar Castle by Moonlight, Carl Johan Fahlcrantz. Nationalmuseum, Public Domain
Developing open access at Nationalmuseum
The Nationalmuseum’s first and most important step, marking around 50,000 images with a CC BY-SA licence instead of ©, went almost unnoticed. It was only in 2016, when we went from CC BY-SA to Public Domain, and tethered the new policy to an active collaboration with Wikimedia Sweden and its community, that we began to see an impact.
The museum began to understand that fulfilling its mission to “provide meaningful encounters between people and art” did not necessarily mean getting people to visit the building or the website. In fact, the real opportunity to make the museum’s collections better known to a large audience was to publish them on popular platforms such as Wikipedia.
Nationalmuseum’s collaboration with Wikimedia Sweden started at a relatively small scale: 3000 high-resolution images depicting paintings in the Nationalmuseum’s collection were uploaded to Wikimedia Commons and the affiliated metadata was uploaded to Wikidata. Within a week, images had been used in over 100 articles and had been seen 104,000 times. By March 2019, the images had been used in over 1800 articles, and today they are viewed approximately 1.5 million times every month.
The news of Nationalmuseum’s Open GLAM policy attracted some national and international media coverage, but most importantly it generated a presence on social media we had not seen before. The fact that Nationalmuseum’s openly licensed images were used in an illustration by IKEA in 2019 (see image below) serves as an example how much more our artworks are now exposed to the public, even without the museum actively taking part.
Prints from Nationalmuseum’s collection are used as decoration in an IKEA post in March 2019. A user asks for the source of the images and IKEA’s answer points the user directly to the Nationalmuseum’s website and cites the free licences.
This interest around the digitised collection came as a surprise to some colleagues, but it was used in an ongoing repositioning of the museum’s brand and tone of voice by the communication team. Email exchanges with our users show how much open access was, and often still is, met with awe and thankfulness.
Open access communication at Nationalmuseum
We realised that we needed to be more vocal about our Open GLAM policy, inside and beyond the institution. The open release had created genuine interest so we needed to ensure that it remained a priority. The licensing policy quickly became a part of general training for new staff. It raised awareness of the different platforms where users could interact with Nationalmuseum’s collections without the collection being physically exhibited to the public.
In 2017 Nationalmuseum was preparing the relaunch of a new website, knowing that it would launch at a time where there was no main museum building to attract visitors to, and no major temporary exhibition. The content that we had for our digital channels before the museum reopened (in October 2018) were stories about ongoing renovation and content from the collection itself. When we saw more traffic (visits doubled) to our existing collection online as a result of the Open GLAM policy, we were thinking of more ways to make the accessibility of our collections known to the users.
The relaunched museum website, collection online and new visitor guide app which were developed for the museum reopening all put open licences in deliberately prominent positions. This might seem like a minor detail but it was important for making the concept of openness known to staff who had not dealt with this topic before.
It became evident that with every new development and new form of access that we granted our users to the collection, we would not be able to control or even follow up what they made from it. During the development of presenting the digitised collections via the main website and the visitor guide app, we realised we needed to rephrase the licence text to even simpler statements such as “The image is free to reuse”. While licences provide concise and extensive information on what the user may or may not use an image for, we realised that users unaware of the Creative Commons framework would not always understand the icons.
An artwork presented in the Nationalmuseum Visitor Guide App, and in online tours presenting different aspects of the collection.
An artwork presented in the Nationalmuseum’s online tour presenting different aspects of the collection.
Digitisation and the challenges of digital transformation
Simultaneously, Nationalmuseum was preparing for its physical reopening (having been closed since 2013) including new display of the collections after almost ten years of collections research. The discussion around how we were going to keep track of updating data and text production when preparing the new exhibitions for the reopening, shed light on what I think is a symptomatic problem when it comes to digital transformation in museums.
Many institutions are faced with a traditional gap between long-term digitisation/cataloguing process and the short term needs for exhibition projects and digital communication. Often, a lot of amazing content (and often even technology) is produced when preparing a new exhibition or program. Scientific research is carried out and a lot of facts are added, double-checked and updated. The material is published and archived, but often with no connection to ongoing digitisation and/or cataloguing work.
Long term digitisation, on the other hand, follows a precise and often static set of rules but it seldom has a specific end user in mind. To put it dramatically, collections digitisation in most museums has the somewhat vague goal to “digitise the whole collection”. It is supposed to solve all the problems in handling and documentation and to serve all scientific questions that might arise in the future. The question of metadata quality, i.e. correct attribution, dates, provenance etc. is omnipresent and often keeps institutions from publishing anything which has not been doublechecked.
At Nationalmuseum, basic information on the digitised parts of the collection has been exposed to the public since 2010, albeit with inconsistent data quality, but several institutions choose to only publish highlights instead of granting access to all their documentation. The goal is often to deliver high-quality metadata on the whole collection, but unlike exhibitions, general digitisation in museums seldom has a deadline to meet so it develops very slowly.
Most museum professionals not working exclusively in digital prioritise digitisation questions lower than all other concerns. In most cases this leads to more or less well-kept internal and online databases, of which a few members of staff have full understanding or control over. These systems often fall short for scientific interest as there is either not enough data, not concise enough data or insufficient high-quality images for most assets. On the other hand, it is often hard to build engagement around them, as communications staff do not always know what has been digitised and available, and in what quality it is documented, or even how to navigate in the internal system.
John Jennings Esq., his Brother and Sister-in-Law, by Alexander Roslin. Nationalmuseum, Public Domain
Redesigning information management processes
For Nationalmuseum, it was consequently focusing on the upcoming new display of the collection in almost all processes which closed that traditional gap and let the whole institution make use of the data provided. We put the collection management system at the centre of documenting the planning of the new display and kept track of all corrections, additions and updates in it. The fact that interest in our digitised collection had risen outside the institution opened our eyes for new possibilities for the material apart from the intended use as printed text in the upcoming exhibition.
Of course, the initiation of the major digitisation, cataloguing and updating project was not so much due to the Open GLAM policy. It was sparked by the necessity to physically move 400,000 objects out of the museum before the building renovation. Nonetheless, without the increased interest around our digital collections on various platforms, it would have been almost impossible to promote and effectuate the necessity of not only registering a number, title and image sufficient for logistic control, but to even oversee descriptions, missing information, dates, etc. in a centralised and sustainable way.
When the museum had agreed on how to handle the process of updating information and descriptions on over 5000 objects which would form the new presentation of the collection in the reopened museum, this information was accessible throughout the whole institution and thus usable for more purposes than just becoming a new label in the museum. Preparing labels and other information was streamlined with the digitization process, which helped growing the collection management database into a reliable knowledgebase (with mostly “good enough” images for all exhibited objects) that could be used as raw material for online storytelling and engagement via different media platforms.
A Merry Company by Jan Massys. Nationalmuseum, Public Domain
Opening access and minds
It might seem strange to praise the use of a more than 10-year-old internal system as a sign of successful digital transformation. However, our working routine was about having knowledge available within the institution and to trust colleagues of different expertise to handle it responsibly. In a traditional institution like Nationalmuseum, that step had been a lot harder if we had not been able to point to the Open GLAM policy throughout discussions. How could we champion the idea of Open GLAM if we do not share information freely and at eye-level internally?
At the same time, we had been experimenting at small scale on questions like how to make images available, how to build engaging entries to our digitised collection without investing too much on infrastructure or technical development. When relaunching the website, and developing a new visitor guide app, we could use those experiences to benefit on a larger scale. Our visitor guide app has good user numbers and reviews (for a museum app), but an internal joke claims that the most enthusiastic remarks must come from colleagues because everyone is so proud of it.
While I am not advocating that any of us should develope any more apps, I still like to think of that joke as an achievement. Digital transformation of an institution only works with everyone on board. We still need small-scale experiments and more lighthouse projects to guide us, but we definitely need to settle a genuine understanding of digital collaboration and openness inside the institution at a larger scale — which might just work by providing a digital service which most staff members can actively feel that they contributed to.
The Timber Chute. Winterscene. From “A Home (26 watercoulours)”, by Carl Larsson. Nationalmuseum, Public Domain
Closing thoughts
While I disagree with most of the risks (such as content misuse) that are sometimes associated with Open GLAM, I want to end by pointing out that there is a challenge with a decision in favour of Open GLAM. No institution can expect that agreeing on an open policy will just “create” more interaction with the public, if nothing else changes.
It is true that “opening collections provides a vehicle for engaging institutional missions related to educating and informing the public, while inviting new practices for engaging that public”, but it needs active (and prioritised) work with those new practices for engagement and with the related communities.
Implementing open access means taking the first step in a transition that will lead to a more digital and more collaborative museum environment, externally and internally. This transition will at times be frightening and painful, but if museums want to profit from the benefits associated with Open GLAM, the first step is to acknowledge that “setting a culture in the museum where open collaboration is the norm is a prerequisite for any collaboration with other communities” (Seb Chan, 2018).
The only way to build a sustainable digital future for the cultural sector is by embracing the principles of openness and collaboration.
Literature
Aufderheide et al: Copyright, Permissions, and Fair Use among Visual Artists and the Academic and Museum Visual Arts Communities An Issues Report, 2014, available at http://www.collegeart.org/pdf/FairUseIssuesReport.pdf [2019–03–31]
Dilenschneider, Colleen: They’re Just Not That Into You: What Cultural Organizations Need to Know About Non-Visitors (DATA), 2019, available at http://www.colleendilen.com/2019/02/06/theyre-just-not-that-into-you-what-cultural-organizations-need-to-know-about-non-visitors-data/ [2019–03–31]
Euler, Ellen: Open Access, Open Data und Open Science als wesentliche Pfeiler einer (nachhaltig) erfolgreichen digitalen Transformation der Kulturerbeinrichtungen und des Kulturbetriebes, in: Herrmann, C. und Pöllmann, L. (eds.): Digitaler Kulturbetrieb, Springer-Nature 2019, available at http://archiv.ub.uni-heidelberg.de/artdok/6135/1/Euler_Open_access_open_data_open_open_science_als_wesentliche_Pfeiler_2018.pdf [2019–03–31]
Ellen Euler/Klammt, Anne/ Rack, Oliver: -Willing to share?, 2017, available at https://www.deutsche-digitale-bibliothek.de/content/journal/hintergrund/bereit-zu-teilen [2019–03–31]
Glasemann, Karin: ‘Offener Zugang als Katalysator für die interne Entwicklung. Wie die Zusammenarbeit mit Europeana, Wikimedia und Linked Open Data Initiativen die Innensicht des Museums verändert.’, presentation given at MAI-Tagung — musuems and the internet — 2016, available at https://mai-tagung.lvr.de/media/mai_tagung/pdf/2016/MAI-2016-Glasemann-DOC.pdf [2019–03–31]
Hamilton, Gill/Saunderson, Fred: Open Licensing For Cultural Heritage, London 2017
Kapsalis, Effie: The Impact of Open Access on Galleries, Libraries, Museums, & Archives, 2016, available at https://siarchives.si.edu/sites/default/files/pdfs/2016_03_10_OpenCollections_Public.pdf [2019–03–31]
Kelcher, Jen: Digital transformation’s people problem. Digital transformation involves technologies and humans. Unfortunately, we tend to ignore the latter when leading change, 2017, available at https://opensource.com/open-organization/17/7/digital-transformation-people-1 [2019–03–31]
Parry, Ross/ Barnes Sally-Anne/ Kispeter, Erika/ EIkhof, Doris Ruth: Mapping the Museum Digital Skills Ecosystem Phase One Report, Leicester 2018, available at https://doi.org/10.29311/2018.01 [2019–03–31]
Pekel, Joris: Making a Big Impact on a Small Budget. How the Livrustkammaren och Skoklosters slott med Stiftelsen Hallwylska museet (LSH) Shared Their Collection with the World, 2015, available at https://pro.europeana.eu/files/Europeana_Professional/Publications/Making%20Impact%20on%20a%20Small%20Budget%20-%20LSH%20Case%20Study.pdf [2019–03–31]
Sacco, Pier Luigi: Culture 3.0: A new perspective for the EU 2014–2020 structural funds programming, 2011, available at http://www.interarts.net/descargas/interarts2577.pdf [2019–03–31]
Sanderhoff, Merete: ‘Open Images. Risk or opportunity for art collections in the digital age?’, in: Nordisk Museologi, 2013/2, p.131–146, available at https://doi.org/10.5617/nm.3083 [2019–03–31]
Sanderhoff, Merete: ‘This belongs to you’, in Sanderhoff, Merete (ed.): Sharing is Caring. Openness and Sharing in the Cultural Heritage Sector. Copenhagen 2014, available at https://www.smk.dk/en/article/this-belongs-to-you [2019–03–31].
Schmidt, Antje: ‘MKG Collection Online: The potential of open museum collections.’, in: Hamburger Journal Für Kulturanthropologie (HJK), 2018/7, 25–39. Available at https://journals.sub.uni-hamburg.de/hjk/article/view/1191 [2019–03–31]
Stinson, Alex: We applaud the Cleveland Museum of Art’s new open-access policy — and here’s what remains to be done, 2019, available at https://wikimediafoundation.org/2019/01/24/we-applaud-the-cleveland-museum-of-arts-new-open-access-policy-and-heres-what-remains-to-be-done/ [2019–03–31]
Szraiber, Tanya: The Collection Catalogue as the Core of a Modern Museum’s Purpose and Activities. Keynote at the CIDOC Conference Access and Understanding. Networking in the Digital Era, 6.–11. 9. 2014 in Dresden, available at http://www.cidoc2014.de/images/sampledata/cidoc/papers/Tanya-Szrajber_Keynote.pdf [2019–03–31]
Tallon, Loic: Introducing Open Access at the Met. THE MET BLOG. 2017, available at https://www.metmuseum.org/blogs/digitalunderground/2017/open-access-at-the-met [2019–03–31]
Tanner, Simon: Open GLAM: The Rewards (and Some Risks) of Digital Sharing for the Public Good, in: Wallace, Andrea/ Deazley, Ronan (eds.), Display At Your Own Risk: An experimental exhibition of digital cultural heritage, 2016, available at https://kclpure.kcl.ac.uk/portal/files/52249306/Display_At_Your_Own_Risk_Publication.pdf [2019–03–31]
Tanner, Simon: Reproduction charging models & rights policy for digital images in American art museums: A Mellon Foundation funded study. King’s College London, 2004, available at https://kclpure.kcl.ac.uk/portal/en/publications/reproduction-charging-models--rights-policy-for-digital-images-in-american-art-museums(95d04077-f8ec-4094-b8c1-d585c6b16d9b)/export.html [2019–03–31]
Visser, Jasper: The future of museums is about attitude, not technology, in: Sanderhoff, Merete (ed.): Sharing is Caring. Openness and Sharing in the Cultural Heritage Sector. Copenhagen 2014, available at https://www.smk.dk/en/article/the-future-of-museums-is-about-attitude-not-technology/ [2019–03–31].
Wallace, Andrea/McCarthy, Douglas: Survey of GLAM open access policy and practice (started 2018), available at https://docs.google.com/spreadsheets/d/1WPS-KJptUJ-o8SXtg00llcxq0IKJu8eO6Ege_GrLaNc/edit#gid=1216556120 [2019–03–31]
Wallace, Andrea/Pavis, Mathilde: Response to the 2018 Sarr-Savoy Report. Statement on Intellectual Property Rights and Open Access relevant to the digitization and restitution of African Cultural Heritage and associated materials, 2019, available at https://docs.google.com/document/d/1-RIGHXiYjB6nFhzeOn6gHapFL-w9oontJFZfAjlSXkI/ [2019–03–31]
Weinard, Chad: ‘Maintaining’ the Future of Museums, 2018, available at https://medium.com/@caw_/maintaining-the-future-of-museums-d72631f6905b [2019–03–31]
Dịch: Lê Trung Nghĩa



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.