After the
crisis: let’s fix procurement
Alastair Parvin, Apr 19 · 16 min read
Bài được đưa lên Internet ngày:
19/04/2020
Trong những tháng sắp tới sẽ có nhiều
thảo luận về những gì các chính phủ ở khắp mọi nơi
có thể học được từ COVID-19, và những gì họ có thể
làm trong tương lai để được chuẩn bị tốt hơn cho các
khủng hoảng.
Danh sách đó sẽ - tôi hy vọng - bao gồm
các câu hỏi rất rộng về sự phục hồi của xã hội,
hạ tầng y tế, hạ tầng Internet, chính sách tiền tệ,
nhà, đất, và cấu trúc nền kinh tế của chúng ta. Nó
cũng sẽ có vài câu hỏi rất đặc biệt, thực tế về
sự phục hồi của chính phủ: việc xây dựng một chính
phủ số đầy đủ, an toàn, sao cho bất kỳ đội nào
trong bất kỳ phần nào của chính phủ cũng có thể chọn
các dịch vụ của họ và tái định vị trong ít giờ
đồng hồ mà không có sự ngắt quãng, và không làm tổn
thương tới sự an toàn, tính riêng tư hoặc trách nhiệm
dân chủ của các dịch vụ hoặc hoạt động của chính
phủ.
Nhưng trước khi chúng ta có thể làm bất
kỳ điều gì, có một hệ thống chúng ta cần phải sửa
trước nhất.
Một hệ thống mà
quá chán, quá không nhìn thấy được, nó có thể dễ
dàng bị bỏ qua: mua sắm. Đó là, chính phủ mua đồ
như thế nào.
Chúng ta đã học
được gì từ COVID-19?
Khi sự bùng phát trở thành dịch, các
chính phủ đã nhận thức được họ có lẽ cần phải
nâng cao năng lực các hệ thống y tế của họ để làm
việc với các nhu cầu đặc biệt rất, rất nhanh. Điều
đó ngụ ý hệ thống y tế quốc gia (NHS) từng cần nhiều
hơn tới hàng chục ngàn chiếc quạt, nhiều hơn vài bệnh
viện, nhiều hơn hàng triệu hạng mục PPE, bộ thử, xuất
ăn và những điều khác, và nhanh. Vấn đề từng là,
cách thức thông thường để có được những thứ đó
không mở rộng phạm vi được. Thông thường chúng có lẽ
được làm đều đặn bởi một hoặc hai công ty ở Vương
quốc Anh, hoặc, nhiều khả năng hơn, chúng được sản
xuất ở Trung quốc. Vấn đề rõ ràng trong trường hợp
sau là từng quốc gia trên trái đất này ít nhiều đã có
chính xác nhu cầu y hệt cùng một lúc. Trong
khủng hoảng, việc đơn giản dựa
vào người giàu có nhất trong căn phòng
hoặc là vô dụng, phi đạo đức hoặc cả hai. Vẫn
có, hóa ra là, vài điều mà tiền không thể mua.
Tuy nhiên, cùng lúc, khắp Vương quốc Anh đã có hàng ngàn
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), từ các doanh nghiệp thời
trang, chế tạo, xây dựng, các doanh nghiệp thực phẩm,
các phòng thí nghiệm kiểm thử, các doanh nghiệp in 3D và
hơn thế bỗng nhiên thấy bản thân họ không có khả
năng vận hành việc kinh doanh như bình thường, mà có
thiện chí và khả năng chuyển qua các dòng sản phẩm của
họ và thay vào đó đóng góp cho nỗ lực đó. Tôi đã
thấy và đã nghe về rất nhiều các ví dụ trong những
ngày và tuần gần đây, như Makerversity, người đã nhanh
chóng thiết lập một mạng chế tạo nhỏ gọi là
‘Shield’ (Lá chắn) để sản xuất các mặt nạ, khẩu
trang, găng tay và vô số PPE.
Thiện chí rõ ràng sẽ - và khả năng -
rút ra nỗ lực dạng ‘Dunkirk’ có ở đó; ở những nơi
sức mạnh tập thể của ‘nhiều thứ nhỏ’ có thể
nổi lên để đáp ứng cho thách thức lớn. Nó không bao
giờ hết làm tôi kinh ngạc những gì có thể đạt được
khi nhiều người thông minh, nhiệt tình tụ tập lại xung
quanh một mục tiêu chung. Nó là thứ gì đó chúng ta hiếm
thấy bên ngoài các cuộc chiến tranh, chạy đua vũ trụ
hay khủng hoảng. COVID-19 là một trong các khủng hoảng
như vậy.
Và vâng, sáng kiến Lá chắn - và nhiều
SME khác - đã
thấy nó quá khó khăn để làm cho các sản phẩm của họ
tới được những nơi họ cần chúng, để lại một
mình phải trả tiền. Trong nhiều trường hợp họ đã
kết thúc bằng việc tìm ra những người mua khác, hoặc
cho chúng đi và dựa vào những đóng góp tài trợ. Ở
những nơi các hợp đồng nhanh chóng được chính phủ
tiến hành thành công, dường như hầu hết từng có với
số lượng nhỏ các nhà cung cấp lớn, như Dyson, McLaren
F1 và Burberry, nhưng bên dưới thước đo này, dường như
là khó khăn hơn nhiều.
Vậy thì điều gì đang sai? Trong khi sẽ
có nhiều bình luận gợi ý rằng đây là vấn đề của
năng lực hoặc thiện chí chính trị - và có lẽ vài
trong số đó sẽ là hợp lệ - tôi nghi ngờ thực sự có
vấn đề cấu trúc nhiều hơn có ở đây: theo nghĩa
đen chính phủ không biết mua sắm thế nào từ hàng ngàn
SME. Và chính phủ chắc
chắn không biết mua sắm nhanh như thế nào.
Mua sắm cần sửa bằng mọi cách
Tất nhiên, chúng ta đã không cần COVID-19
hoặc các
công ty đường sắt không có các con tàu để nói cho
chúng ta rằng các hệ thống mua sắm của chúng ta bị gãy
vỡ. Chúng ta đã biết nó đôi lúc rồi. Từ
các tòa nhà, tới hạ tầng, tới các phần của máy móc,
tới các dịch vụ thu rác, tới CNTT, ở một vài thời
điểm tất cả chúng ta đã tự hỏi vì sao mỗi
khi chính phủ cố gắng mua bất cứ thứ gì thì cuối
cùng lại trở nên đắt
đỏ một cách kỳ lạ,
chậm chạp và khá thường xuyên, một
chút rác rưởi.
Những gì tôi sẽ gợi ý là (đối với
hầu hết các phần) điều này không phải vì các cá nhân
trong hệ thống không đủ năng lực hoặc ác tính, mà
thay vào đó đây là hoạt động của cách thức các hệ
thống mua sắm thế kỷ 20 của chúng ta đã được thiết
kế.
Mua sắm của chính phủ là chủ đề phức
tạp khổng lồ, và nhiều sự rà soát lại và sách trắng
của chính phủ đã được mọi người chuyên gia hơn tôi
nhiều đã viết. Nhưng trong cốt lõi của nó, nó được
thiết lập dựa vào vài nguyên lý khá nền tảng cơ bản.
Trước tiên, ý tưởng
rằng nếu bạn muốn giá tốt nhất, bạn cần cạnh tranh
thị trường, và nếu bạn muốn cạnh tranh thị trường,
bạn cần vài hệ thống đấu thầu. Điều này từng
luôn đúng, và sẽ vẫn đúng.
Thứ 2, ý tưởng rằng to hơn là tốt hơn.
Hợp đồng càng lớn, giá càng tốt, vì người mua lớn
hơn có sức mạnh thương thảo nhiều hơn và các nhà cung
cấp lớn hơn có thể đầu tư nhiều hơn vào chuỗi cung
ứng hiệu quả, nên có thể sản xuất các sản phẩm và
dịch vụ hiệu quả hơn. Điều này
từng là đúng, nhưng trong thế kỷ 21, các công nghệ như
web và các công cụ chế tạo kỹ thuật số chi phí thấp
có thể chứng minh điều đó chỉ đúng đôi
khi, và thường là sai.
Nhiều điều hơn về điều đó nói sau.
Thứ 3, vì nó liên quan
tới các quan chức nhà nước đưa ra các quyết định
nhân danh túi tiền của công chúng, có rủi ro cao về tham
nhũng (hoặc rõ ràng, ở những nơi các ân huệ và phong
bì tiền trao tay, hoặc thầm lặng, vì quan chức nhà nước
đi với bất kỳ lựa chọn nào thuận lợi hơn cho cá
nhân họ, hoặc những lợi ích
một người bạn của bạn .v.v.). Trong kinh tế học
điều này được gọi là vấn đề ‘Đại lý Chính’
(Principal
Agent). Điều làm cho cần thiết phải đặt ra các biện
pháp tại chỗ để chống tham nhũng rất chặt chẽ, được
tiêu chuẩn hóa.
Tất cả điều này dường như khá hợp
lý. Thế vấn đề là gì?
Vâng, Tôi muốn gợi ý có 3 điều. Hãy
gọi chúng là vấn đề của ‘thị trường đóng’, vấn
đề ‘đổi mới sáng tạo’ và vấn đề ‘băng thông
rộng’.
Vấn đề của ‘Thị
trường Đóng’
Trong những thập kỷ gần đây, đã có xu
hướng tham chiếu tới một điều được gọi là ‘Thị
trường’ thực sự không nghi ngờ những gì điều đó
ngụ ý. Thông thường, trong mua sắm công khi mọi người
nói ‘Thị trường’ những gì họ thực sự ngụ ý là
‘Một nhúm nhỏ các công ty lớn đang là các nhà cung cấp
hiện có’. Theo định nghĩa của Adam Smith, đây thực sự
là gần với điều ngược lại của thị trường.
Cội rễ của vấn đề ‘thị trường
đóng’ nằm ở câu hỏi chính phủ thực sự đang mua gì.
Họ có đang mua chỉ sản phẩm hay dịch vụ hay không? Hay
họ cũng, có hiệu lực, đang mua sắm nghiên cứu và phát
triển - R&D - của nó? Họ đang mua sắm một gói có
liên quan tới việc thiết lập toàn bộ chuỗi cung ứng
mới từ đầu? Họ đang mua sắm tài chính đối với các
hợp đồng sản phẩm đó (như, ‘Sáng kiến Tài chính
Tư’ - PFI (Private Finance Initiative)? Trong các thập kỷ gần
đây, câu trả lời cho câu hỏi này rất thường là: tất
cả những điều ở trên. Thuê ngoài mọi thứ, đó chính
là cách dễ dàng hơn.
Vấn đề với việc đánh đống mọi thứ
cùng nhau giống như điều này là các hợp đồng đó trở
thành các triển khai khổng lồ mà chỉ các tay chơi lớn,
với ‘hồ sơ theo dõi’ được thiết lập mới có thể
thắng thầu các hợp đồng đó. Rất nhiều điều là
không thể đối với các SME và những người mới vào
thị trường có tính đổi mới sáng tạo để đột nhập
vào. Điều này ngụ ý cái gọi là ‘thị
trường’ trở thành một nhóm nhỏ các công ty lớn húp
hết tất cả các hợp đồng đó. Có nhiều mức độ
phạm vi cho sự thông đồng ngấm ngầm giữa cái vòng
đóng này của các công ty, để giữ cho giá thành cao.
Hiệu ứng phụ thứ 2 của các hợp đồng
chi phí đầu tư cao đó là các nhà thầu yêu cầu thời
hạn hợp đồng dài để bù lại khoản đầu tư ban đầu
của họ; đôi khi thậm chí 10 năm hoặc nhiều hơn. Vì
thế chắc chắn, có một pha ngắn cạnh tranh thị trường
trong pha thầu, đúng cho tới thời điểm các chữ ký được
đặt vào hợp đồng. Nhưng ở thời điểm đó, công ty
trúng thầu (thường là nhà thầu thấp nhất) đã thắng
sự độc quyền 10 năm. Từ thời điểm mực có trên
trang giấy đó, nhà cung cấp đó có sự khích lệ trực
tiếp, hợp lý để tối thiểu hóa chất lượng sản
phẩm hoặc dịch vụ (hãy nghĩ về các trường PFI đổ
nát), và bỏ ra con số không vào đổi mới sáng tạo,
điều có thể làm lợi cho khách hàng, xã hội, nền kinh
tế hoặc môi trường. Bổn phận chuyên nghiệp của họ
là để tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ đông của họ,
và điều đó ngụ ý giữ cho sản phẩm hoặc dịch vụ
tồi tệ như họ có thể tránh xa. Ví dụ, mọi người
biết rằng chúng ta cần biến đổi triệt để hệ thống
rác của chúng ta ở Vương quốc Anh ngày nay, nhưng các
công ty đã hợp đồng phân phối thu rác và các dịch vụ
xử lý có ít hoặc không có sự khích lệ để làm thế.
Điều này không phải vì các nhân viên hoặc các lãnh đạo
của họ hơi tham lam hoặc không quan tâm - họ là những
người tốt, giống như bất kỳ ai khác - nhưng mô hình
kinh doanh chúng ta đã tạo ra ngụ ý họ có nghĩa vụ
không làm điều đó.
Tệ hơn nữa, các nhà cung cấp có sự
khích lệ mạnh không thể kháng cự để thiết kế sản
phẩm hoặc dịch vụ theo cách thức để làm cho nó càng
khó và càng đắt có thể càng tốt cho khách hàng của họ
để chuyển sang đối thủ cạnh tranh khi hợp đồng đi
tới hồi kết. Ví dụ, lấy các hợp
đồng phần mềm, nơi các nhà cung cấp thường cố gắng
giữ lấy các quyền sở hữu trí tuệ đối với các chức
năng cơ bản hoặc các đăng ký dữ liệu công khai; hoặc
làm cho phần mềm của họ càng không tương hợp được
càng tốt để làm cho các khách hàng trả thêm cho ‘các
kết nối’; hoặc làm cho nó càng khó có thể càng
tốt cho các khách hàng để phục hồi dữ liệu của
riêng họ và chuyển nó qua một hệ thống mới. Hiệu
ứng kết hợp là, ở bất kỳ thời điểm nào về thời
gian, hầu hết các cơ quan nhà nước đang làm việc với
các phần mềm lỗi thời ít nhất 10 năm. Điều đó,
đổi lại, tạo ra thậm chí sự phụ thuộc nhiều hơn
vào các dịch vụ được thuê ngoài, và dẫn tới những
thất bại như Cuộc
tấn công của phần mềm tống tiền Wannacry, lấy đi của
NHS 92 triệu £.
Điều chớ trêu lớn của mô hình mua sắm
công ‘lớn’ này là chính phủ trở nên quá phụ thuộc
vào các công ty khổng lồ đó mà họ trở thành ‘quá
lớn để thất bại’. Vì thế khi họ thất bại, chính
phủ phải bảo lãnh cho họ hoặc chịu chi phí bằng mọi
cách.
Một ví dụ rõ ràng từng là nhà thầu
Carillion, nó thực sự ít là hãng xây dựng so với một
phương tiện tài chính đối với rủi ro thuê ngoài làm
(công việc xây dựng thực tế đã được các nhà thầu
phụ làm). Các cổ đông và các lãnh đạo đã trích ra
lợi nhuận và các phần thưởng lớn đáng kể từ công
ty đó, trước khi để lại cho những người đóng thuế
chịu hóa đơn 148
triệu £.
Vì thế, cuối cùng, hóa ra là người
đóng thuế chịu rủi ro tất.
Vấn đề ‘đổi mới sáng tạo’
Vấn đề ‘thị trường đóng’ là vấn
đề đổi mới sáng tạo đủ tồi rồi, nhưng còn có một
vấn đề khác nữa.
Nhiều ý tưởng cho cách để cải thiện
hạ tầng công cộng hoặc của chính phủ không tới từ
bên trong khu vực nhà nước. Chúng tới từ các công dân,
doanh nghiệp, hoặc các doanh nhân xã hội.
Việc kết nối những người đó với
những người trong khu vực nhà nước với trạng thái gần
với, tri thức của và trách nhiệm đối với các vấn đề
chung là đủ khó rồi. Nhưng thậm chí nếu họ xử trí
để tìm lẫn nhau, và thậm chí nếu họ có thể tìm thấy
ngân sách để làm điều đó, họ sau đó phát hiện ra
rằng học có một vấn đề khác. Mua nó thế nào?
Các quy định mua sắm ngụ ý trên một
ngưỡng nhất định, vụ thầu mở phải được đưa ra,
tìm kiếm ít nhất 3 nhà thầu. Tại thời điểm này, một
trong những công ty đương nhiệm đang có với hồ sơ theo
dõi dài lâu có thể chào phân phối một phiên bản đề
xuất kinh khủng, tước bỏ tất cả giá trị xã hội,
kinh tế hay môi trường (tất cả những thứ đó là khó
để tính), với các điều khoản kinh khủng, nhưng với
giá thấp. Trừ phi những người đề xuất gốc ban đầu
có thể đo đếm được điều không đo đếm được, và
chứng minh được điều không chứng minh được, rồi thì
nhà chức trách nhà nước phải chọn nhà thầu có
giá rẻ hơn. Đề xuất ban đầu bị tấn công và diễn
ra một cuộc đua xuống đáy.
Và vì thế chính các quy định mua sắm
từng có ý định ban đầu để ngăn ngừa tham nhũng có
thể kết thúc bằng việc tạo ra các mức ác mộng về
sự phi lý quan liệu và thất bại thông thường. Sự giải
thích không thể được đưa ra ở cánh cửa của bất kỳ
hành động nào của một người, hoặc bất kỳ một điểm
thất bại nào; thay vào đó nó là hiệu ứng tổng hợp
của nhiều hành động hợp lý độc lập, các tầng hiệu
ứng của chúng trở thành thảm họa tập thể.
Trong tình huống này, lựa chọn duy nhất
sẵn sàng cho quan chức nhà nước là cố gắng đánh lừa
hệ thống, bằng việc viết một vụ thầu thật đặc
biệt cho người đề xuất gốc ban đầu sao cho hầu hết
không ai khác có thể thắng chúng. Nhưng nếu nó làm việc,
tất cả điều nó thể hiện là các quy định có ý định
để ngăn chặn tham nhũng là không có hiệu quả: chúng có
thể là chiêu trò. Mẹo mực y hệt có thể dễ dàng được
sử dụng để cấp vốn cho các dự án không đại diện
cho giá trị của nhà nước. (Vài người có thể viện lý
rằng điều này chính xác là những gì đã xảy ra trong
trường hợp thất bại ‘Cầu
nối Vườn’ của Luân Đôn.
Hiệu ứng ngột ngạt này về đổi mới
sáng tạo cũng có hiệu ứng phụ của việc cho vay đạn
dược cho những ai có thể viện lý rằng chúng ta nên
‘cắt bỏ băng đỏ’ bằng việc cắt bỏ các quy định
hoặc nới lỏng các biện pháp bảo vệ chống tham những.
Ý tưởng rất tồi.
Vấn đề ‘Băng thông rộng’
Vấn đề thứ 3 - băng thông rộng - là
bằng
chứng rất rõ trong trường hợp cung cấp PPE cho NHS và
các nhân viên y tế, nhưng nó cũng chỉ ra ở nhiều
dạng mua sắm khác nhau, như mua nhà kham được.
Đơn giản, những người mua chỉ cho băng
thông rộng thần kinh hữu hạn, các mạng hữu hạn và
năng lực làm việc hữu hạn thông qua tổng chi phí hành
chính của việc đấu thầu. Đặc biệt ngày nay, vì nhiều
quy trình liên quan vẫn còn rất tương tự (analog) và tăng
cường truyền thông. Mọi vụ thầu phải được thiết
kế, kiểm tra, đưa ra để bình luận, và sau đó một cửa
sổ thời gian được tạo ra cho các câu hỏi đáp từ các
nhà cung cấp. Tất cả chúng bổ sung thêm vào thời hạn
quyết định mà giám đốc khu vực tư nhân có thể đưa
ra trong ít giờ đồng hồ biến thành công việc của
nhiều tuần lễ.
Các chi phí giao dịch cao đó ngụ ý vẫn
còn dễ hơn nhiều, nhiều để mua 1.000 đơn vị từ 1
người so với mua 1 đơn vị từ 1.000 người.
Kết quả là, năng lực tiềm tàng khổng
lồ trong ‘cái
đuôi dài’ là không khai thác được, và tiền nhà
nước có thể đi tới các SME địa phương chảy tới các
nhà thầu lớn và các cổ đông của họ.
Bạn giải quyết vấn đề như mua sắm
như thế nào?
Vì thế, nếu đã thiết kế lại mua sắm
cho thế kỷ 21, hãy thử tưởng tượng một hệ thống mà
là nhanh hơn, rẻ hơn, hiệu quả hơn, cạnh tranh hơn, mở
hơn, có được giá trị chung tốt hơn và cung cấp sự
bảo vệ tốt hơn chống lại tham nhũng, điều đó có lẽ
trông giống những gì?
Vâng, tôi không biết. Nhưng nếu bạn vừa
đọc điều này, bạn có lẽ có đủ quan tâm về vấn đề
này và bạn có lẽ có vài ý tưởng. Chúng là của tôi:
1. Các nền tảng kỹ thuật số
Động thái đầu tiên và rõ ràng nhất là
sử dụng web để giải quyết vấn đề băng thông rộng.
Đây là những gì web làm được tốt nhất. Chính phủ có
thể học từ tính hiệu quả của các nền tảng như
Amazon, Ebay, AirBnB, Alibaba và App store; tất cả được làm
cho có khả năng bằng các thỏa thuận mẫu được tiêu
chuẩn hóa, các giao thức đơn giản và các giao diện số
được thiết kế tốt nhằm có được các chi phí giao
dịch càng gần tới không (0) càng tốt. Thị trường Số
và Khung Đám mây Chính phủ (Digital
Marketplace and GCloud framework) là một bước tiên theo
hướng này. Mục đích nên là để tạo ra các thị trường
thực sự mở - đó là, các thị trường nơi mà bất kỳ
người mới tới nào cũng có thể ra nhập và nhanh chóng
chứng minh bản thân họ có năng lực phân ph ối. Càng xa
có thể càng tốt, chúng có thể dịch chuyển từ việc
điền vào các tài liệu ứng dụng dài dòng, sang một
tiếp cận giống như ‘xếp hạng’ nhiều hơn, nơi mà
nhà cung cấp có thể dễ dàng có được đơn đặt hàng
nhỏ đầu tiên và chứng minh bản thân họ. Sự chứng
minh thực tế luôn nằm trong cái bánh pudding, và thậm chí
phần nhỏ nhất nói cho bạn nhiều hơn so với toàn bộ
các cuốn sổ hóa đơn. Ngay bây giờ, một lãnh đạo y tế
bận rộn, căng thẳng, tin cậy của NHS nên có khả năng
lên trên trực tuyến, và đặt hàng 200 thiết bị che chắn
mặt từ từng 10 công ty, trong ít hơn 10 phút.
Tuy nhiên, những gì làm cho các nền tảng
web hiệu quả không chỉ là hạ tầng số viễn tưởng,
điều cho phép những người mua kết nối với những
người bán và ngược lại. Thành công của họ nằm trong
sức mạnh của chủ sở hữu nền tảng đó để định
hình thị trường: để thiết lập các tiêu chuẩn và ép
tuân thủ các quy định tham gia. Uber làm điều đó. Điều
gì sẽ xảy ra nếu chính phủ cũng làm thế?
2. Mua sắm dựa và các quy định
Khả năng này để tổng hợp sức mạnh
mua sắm công kết hợp của khu vực nhà nước để thiết
lập các quy định của thị trường là công cụ
sức mạnh to lớn duy nhất mà chính phủ đang không sử
dụng.
Hãy quay lại ví dụ tôi đã nhắc tới
trước đó, về các hợp đồng CNTT. Khoảng một năm
trước, cộng tác với Connected Places Catapult, Tech UK và
với những đóng góp từ một dải các chuyên gia và các
nhà cung cấp, chúng
ta đã phác thảo một
danh sách 15 kiểm tra cơ bản mạnh cho bất kỳ hợp đồng
nào về CNTT của chính phủ địa phương. Nó bao gồm
những điều giống như quyền của khách hàng để trích
xuất dữ liệu của riêng họ bất cứ lúc nào, và cấm
bất kỳ hợp đồng nào dài hơn 2 năm. Chúng ta đã hiện
thực hóa điều đó nếu chính phủ làm cho tất cả các
hợp đồng CNTT của khu vực nhà nước trở thành có điều
kiện nếu đáp ứng được 15 quy định đó, chính phủ
có thể ngăn chặn được hầu như, nếu không nói là tất
cả, các dạng thất bại của thị trường chúng ta thấy
xuyên khắp lĩnh vực CNTT của khu vực nhà nước mỗi
ngày, nơi mà chính phủ kết thúc bằng việc thanh toán
hàng triệu tiền cho các phần mềm rác rưởi, lỗi thời.
Nói cách khác, không có thứ như vậy được gọi là ‘Thị
trường’. Có nhiều thị trường có thể, và chính phủ
có nhiều quyền lực hơn so với nó nghĩ nó phải định
hình các thị trường ở những nơi hầu như không thể
đối với họ để đi quá sai lầm. Tôi muốn viện lý
rằng không phải chỉ chính phủ có cơ hội sử
dụng sức mạnh nền tảng của nó hiệu quả hơn, trên
thực tế nó có bổn phận đạo đức phải làm thế.
Tất nhiên, đã có vài (không nhiều như
bạn có lẽ nghĩ, tôi nên bổ sung) những xì xầm từ các
nhà cung cấp cũ nói ‘nếu bạn làm cho các quy định
cuộc chơi quá khắt khe, chúng tôi sẽ không chơi’. Nhưng
đó là toàn bộ điểm cạnh tranh. Nếu các công ty cũ
không có thiện chí để chơi, họ rời bỏ thị trường
mở ra cho các công ty trẻ hơn, nhỏ hơn, đói hơn, đổi
mới sáng tạo hơn sẽ tham gia. Và hãy tin tôi đi, họ sẽ.
Tôi đã viết về điều này trước đây theo khái niệm
của ‘Dân chủ như một Nền tảng’ (Democracy
as a Platform).
(Lưu ý bổ sung: Trong một lĩnh vực
khác, điều này có thể đi xa hơn. Ví dụ, trong các
trường hợp nơi một hợp đồng sẽ không thể tránh
khỏi tạo ra sự độc quyền tạm thời, hoặc nơi có sự
cấp bạch đặc biệt để đi nhanh trong khủng hoảng, các
nhà thầu có thể được giới hạn cho các công ty không
vì lợi nhuận (không có lợi nhuận cho các cổ đông) với
các trần lương tháng).
3. Làm hợp đồng mở, theo module
Một tiếp cận khác chúng ta đã và đang
khai phá, đặc biệt liên quan tới mua sắm các tòa nhà,
là dịch chuyển khỏi thực hành đánh đống mọi thứ
cùng nhau (R&D, tài chính, phân phối, rủi ro, .v.v.) vào
một hộp đen hợp đồng khổng lồ, và thay vì làm chính
xác điều ngược lại: tách mọi điều bạn muốn mua
thành các module nhỏ, tách biệt, đoán trước được,
minh bạch, từng trong số đó được làm thành tài liệu
cho tất cả cùng thấy, và có thể được mua sắm từ
bất kỳ (hoặc vài) trong dãy các nhà cung cấp bất kỳ
lúc nào.
Hãy để tôi đưa ra ví dụ từ công việc
của chúng tôi trên WikiHouse.
Trong những năm gần đây, nếu hội đồng muốn xây dựng
nhà xã hội ở một địa điểm, họ có lẽ đi tới một
nhà thầu duy nhất để làm toàn bộ thứ đó. Tất nhiên,
có số lượng có giới hạn các hãng xây dựng có khả
năng triển khai nhiệm vụ với rủi ro của mức độ phạm
vi này, nên giá thầu cao. Tất cả thiết kế IP, các chi
phí, dữ liệu tác vụ .v.v. là trong hộp đen, được giữ
bởi từng nhà thầu mà các chi phí của chúng phần lớn
dựa vào công việc dự đoán. Vì thế khi dự án tiếp
sau tới, không có gì tốt hơn, rẻ hơn hoặc dễ dự đoán
hơn. Các hội đồng bị kẹt trong đó, tái thầu đối
với nhóm các hãng xây dựng y hệt, và bắt đầu từng
dự án từ đầu.
Việc chế tạo kỹ thuật số cho phép
chúng ta thay đổi điều này, vì nó cho phép xây dựng
được chia thành các tác vụ rõ ràng, đoán trước được,
mà hầu hết bất kỳ ai cũng có thể làm được.
Vì thế điều gì sẽ xảy ra nếu, thay vì
đi ra ngoài để đấu thầu, hội đồng bắt đầu bằng
việc trả tiền cho một đội R&D để phát triển
thiết kế dạng nhà tùy biến được, với hợp đồng IP
cho phép họ sử dụng thiết kế đó bao nhiêu lần tùy ý
(điều này có thể là một giấy phép nguồn mở, hoặc
thương mại). Mỗi thành phần, mỗi tác vụ là đoán
trước được và được làm thành tài liệu tách bạch
nahu, tất cả được ghi lại trong các bảng tính và các
sách chỉ dẫn được ráp lại mà mỗi người có thể
thấy. Các nhà cung cấp có triển vọng (những người có
lẽ là các công ty cửa hàng nhỏ dưới phố) rồi đưa
ra các quy tắc ngón tay cái cho chi phí của từng tác vụ
(như ‘£200 mỗi ngày’ hoặc ‘£21 cho mỗi tấm gỗ
dán’). Các quy tắc ngón tay cái đó là ‘vụ thầu’
của họ mà có thể được sử dụng cho chi phí một tác
vụ. Nếu khách hàng chào họ công việc đó, họ không
phải thay đổi thầu của họ, họ chỉ phải nó ‘có’
hoặc ‘không’. Nếu họ chấp nhận, họ có bổn phận
đo đếm khi họ đi và nuôi ngược trở lại trong thiết
kế và làm tài liệu, nên khả năng biết trước chi phí
và khung thời gian sẽ có được tốt hơn theo thời gian,
mà bất kỳ ai cũng thấy được. Điều này cũng ngụ ý
là thay vì bị mắc kẹt với y chang các nhà cung cấp lớn
cũ kỹ, hội đồng có thể phát triển một mạng mở các
SME có khả năng phân phối các sản phẩm và dịch vụ y
hệt, và chuyển giữa qua lại giữa chúng bất kỳ lúc
nào. Cạnh tranh liên tục, cộng tác liên tục và đổi
mới sáng tạo lanh lẹ liên tục.
Tiếp cận này có lợi ích bổ sung mà,
bằng việc chấp nhận rủi ro bổ sung (và sau đó sử
dụng phản hồi để làm rủi ro đó) khách hàng cũng
giành lại được sự kiểm soát về chất lượng thiết
kế. Sự khích lệ của các nhà thầu để làm giảm chất
lượng được loại bỏ một cách lịch sự khỏi phương
trình đó.
Tiếp cận này có thể không làm việc cho
mọi điều, nhưng tôi ngờ nó có thể áp dụng được
cho sự đa dạng khổng lồ các tác vụ mua sắm. Nó chắc
chắn có thể được sử dụng trong trường hợp của PPE
COVID-19.
(Cập nhật: Sau khi tôi đang bài này,
Richard
Pope đã chia sẻ với tôi bài đăng này
trên công trình tiên phong do 18F làm trong Hợp đồng theo
Module. Rất đáng để đọc nó).
5. Định giá
phẳng
Ý tưởng cuối cùng
- chắc chắn sẽ không áp dụng được cho mọi tình
huống, nhưng có thể áp dụng cho một vài - liên quan tới
việc lật trò chơi thầu bản thân nó lộn ngược lại.
Tư duy hợp
đồng truyền thống là bạn mời thầu về giá
thành từ các nhà cung cấp khác nhau để ‘để thị
trường tìm ra điểm giá thành’. Bạn sau đó chọn lấy
một (thường là nhà thầu bỏ giá thấp nhất thứ hai).
Vấn đề với điều này, như chúng tôi đã khai phá rồi,
là nó tạo ra sự khích lệ mạnh đối với các nhà cung
cấp để bỏ thầu thấp để thắng công việc, rồi ngay
lập tức tham gia vào cuộc đua xuống đáy về chất lượng
hoặc sự phục hồi. Cuối cùng, tiền tiết kiệm được
bằng việc có được các nhà cung cấp bỏ thầu thấp
thường hóa ra là tiết kiệm sai.
Nhưng trong nhiều tình huống có lẽ ngày
càng trở nên có khả năng sử dụng dữ liệu được
chia sẻ để đoán trước đại khái điểm giá thành sẽ
là gì, hoặc những gì khách hàng có thể kham được để
chi trả cho nó. Vì thế điều gì xảy
ra nếu, thay vì có được các nhà cung cấp đấu thầu về
giá thành, chúng ta cố định giá thành xuyên khắp tất
cả các nhà cung cấp tiềm năng, nhưng sau đó mời họ
thầu với nhau để trả giá cao hơn về chất lượng hoặc
hiệu suất. Hệ quả là, để
kích hoạt cuộc chạy đua lên đỉnh về chất lượng và
các kết quả đầu ra về xã hội và kinh tế khác.
Đây là cách mở rộng lời mời mở cho tất cả các nhà
cung cấp có thể, bao gồm cả những người mới tới, và
nói ‘đây’ là tiền được chào, bạn có thể làm gì
với nó?
Tất nhiên, nếu không nhà cung cấp nào
bước tiếp, thì giá thành đó có thể phải được nâng
lên cho tới khi vài công ty chào các dịch vụ của họ.
Hãy sửa việc mua sắm dường như cuộc
sống của chúng ta phụ thuộc vào nó. Vì nó làm thế.
Hoặc có thể, tất cả các ý tưởng đó
là vô dụng, và đó là toàn bộ một ý tưởng khác.
Nhưng hãy nói về nó. Trên thực tế hãy làm nhiều hơn
nói. Hãy bắt đầu đưa ra mẫu thử, thí điểm và trải
nghiệm, ngay bây giờ.
Vì, tất nhiên, COVID-19 không là khủng
hoảng duy nhất thế hệ của chúng ta đối mặt. Quả
thực, vì dịch này là tàn khốc và bi thảm, nó có lẽ
chỉ là một cảnh báo sớm ngắn từ tương lai. Trong các
thập kỷ tới, các chính phủ của chúng ta sẽ phải trả
lời cho nhiều khủng hoảng phạm vị rộng hơn; một vài
bỗng nhiên, một vài dần tới. Họ sẽ cần bước vào
các chương trình khổng lồ để xây dựng hạ tầng mới,
để nâng cấp các thành phố và nhà cửa của chúng ta,
để xây dựng các dịch vụ chính phủ số phục hồi
được, để biến đổi cung ứng thực phẩm của chúng
ta. Các chính phủ sẽ cần có khả năng hành động nhanh
chóng và hiệu quả để bảo vệ phúc lợi của mọi
người, để bảo vệ môi trường, định hình các thị
trường mới, và xây dựng kinh tế và xã hội phục hồi
được.
Và tất cả điều đó có thể được làm. Tốt
hơn, và với ít tiền hơn nhiều, nhiều so với bạn
có lẽ nghĩ. Nhưng chỉ nếu chúng ta học được bài học
đó bây giờ, và sửa mua sắm trước.
In
the coming months there will be many conversations about what
governments everywhere can learn from COVID-19, and what they can do
in future to be better prepared for crises.
The
list will — I hope — include very wide questions about social
resilience, health infrastructure, internet infrastructure, monetary
policy, housing, land, and the structure of our economy. It will also
some very specific, practical questions about government resilience:
building a fully digital, secure government, so any team in any part
of government can pick up their devices and relocate in a few hours
without interruption, and without compromising the security, privacy
or democratic accountability of government services or functions.
But
before we can do any of those things, there is one system that we
need to fix first. One that is so boring, so invisible, that it could
easily get missed: procurement. That is, how
government buys things.
As
the outbreak became a pandemic, governments realised they would need
to increase the capacity of their health systems to deal with a
specific need very, very fast. That meant the NHS was going to need
tens of thousands more ventilators, several more hospitals, millions
more items of PPE, testing kits, meals and so on, and quickly. The
catch was, the normal way of getting those things isn’t scaleable.
Ordinarily they are probably made steadily by one or two companies
here in the UK, or, more likely, they are manufactured in China. The
obvious problem in the latter case being that every country on earth
had more or less exactly the same need at the same time. In a crisis,
simply relying
on being the richest person in the room is either useless,
immoral or both. There are still, it turns out, some things that
money can’t buy.
However,
at the same time, across the UK there were thousands of small and
medium enterprises (SMEs), from fashion businesses, manufacturers,
constructors, food businesses, testing labs, 3D printing businesses
and so on who suddenly found themselves unable to carry on business
as usual, but are willing and able to switch over their product lines
and contribute to the effort instead. I’ve seen and heard of so
many examples in recent weeks and days, such as Makerversity, who
rapidly set up a micro manufacturing network called ‘Shield’ to
produce masks, face-shields, gloves and a variety of PPE.
Clearly
the will – and the capability – to pull-off a ‘Dunkirk’ style
effort is there; where the collective power of ‘many small’ can
rise to meet a big challenge. It never ceases to astound me what can
be achieved when many smart, passionate people are aligned around a
common goal. It is something we rarely see outside wars, space races
or crises. COVID-19 is one such crisis.
And
yet, the Shield initiative — and many other SMEs — have
found it extremely hard to get their products to where they are
needed, let alone paid for. In many cases they’ve ended up
finding other buyers, or giving them away and relying on donations.
Where rapid deals have successfully been made by government, it seems
to have mostly been with a small number of large providers, such as
Dyson, McLaren F1 and Burberry, but below this scale, it seems to be
much more difficult.
So
what’s going wrong? While there will be lots of criticism
suggesting that this is a problem of political competence or will —
and perhaps some of it will be valid — I suspect there is actually
a more structural problem at play here: government
literally does not know how to procure from a thousand SMEs.
And it certainly doesn’t know how to do it rapidly.
Of
course, we didn’t need COVID-19 or ferry
companies with no ships to tell us that our procurement systems
are broken. We’ve known it for some time. From buildings, to
infrastructure, to machine parts, to waste collection services, to
IT, at some point all of us have wondered why it is that whenever
government tries to buy anything it ends up being weirdly
expensive, slow and quite often, a bit rubbish.
What
I’m going to suggest is that (for the most part) this is not
because individuals in the system are unusually incompetent or
malign, but rather it is a function of the way that our 20th century
procurement systems were designed.
Government
procurement is a hugely complex topic, and many government reviews
and white papers have been written by people far more expert than I.
But at its core, it is founded on some pretty basic fundamental
tenets.
First,
the idea that if you want the best price, you need market
competition, and if you want market competition, you need some system
of bidding. This has always been true, and will remain true.
Second,
the idea that bigger is better. The bigger the deal, the better the
price, because a bigger buyer has more negotiating power and bigger
suppliers can invest more into an efficient supply chain, so can
produce products and services more efficiently. This was once true,
but in the 21st century, technologies like the web and low-cost
digital fabrication tools may prove it to be only sometimes
true, and often false. More on that later.
Third,
because it involves public officials making decisions on behalf of
the public purse, there is a high risk of corruption (either
explicit, where favours or envelopes of money change hands, or tacit,
because the public official goes with whichever option is more
convenient for them personally,
or that benefits a friend of a friend etc.) In economics this is
called the
‘Principal Agent’ problem. It makes it necessary to put very
tight, standardised, anti-corruption measures in place.
Well,
I’d suggest there are three. Let’s call them the ‘closed
market’ problem, the ‘innovation’ problem and the ‘bandwidth’
problem.
In
recent decades, there has been a tendency to refer to a thing called
‘The Market’ without really questioning what that means. Usually,
in public procurement when people say ‘The Market’ what they
actually mean is ‘The small handful of large companies who are the
existing suppliers’. By Adam Smith’s definition, this is actually
closer to the opposite
of a market.
The root of the
‘closed market’ problem lies in the question of what it is
exactly that the government is buying. Are they buying just the
product or service? Or are they also, in-effect, procuring its R&D?
Are they procuring a package that involves setting up a whole new
supply chain from scratch? Are they procuring finance for the product
(eg, ‘Private Finance Initiative’ (PFI) contracts)? Are they
outsourcing risk (eg. ‘Design & Build’ style construction
contracts)? In recent decades, the answer to this question has very
often been: all of the above. Outsource everything, it’s just
easier that way.
The
problem with bundling everything together like this is that these
contracts become such huge undertakings that only big players, with
an established ‘track record’ can successfully bid for them. It’s
pretty much impossible for SMEs and innovative new market entrants to
break-in. This means the so-called ‘market’ becomes a small
cartel of huge companies hoovering up all the contracts. There is
plenty of scope for tacit collusion between this closed circle of
companies, to keep prices high.
A
second side-effect of these high-capital-cost-contracts is that
bidders demand long contract durations to recoup their initial
investment; sometimes even 10 years or more. So sure, there is a
brief phase of market competition during the tendering phase, right
up until the moment the signatures are put onto the contract. But at
that point, the winning company (often the lowest bidder) has
effectively won a 10-year monopoly. From the moment the ink hits the
page, the supplier has a direct, rational incentive to minimise
the quality of the product or service (think of those crumbling PFI
schools), and to spend zero on innovation that would benefit the
customer, society, the economy or the environment. Their professional
duty is to maximise returns to their shareholders, and that means
keeping the product or service as bad as they can get away with. For
example, everyone knows that we need to radically transform our waste
system in the UK today, but the companies contracted to deliver waste
collection and disposal services have little or no incentive to do
it. This is not because their staff or executives are somehow greedy
or don’t care – they’re good people, like anyone else – but
the business model we have created means they have a duty not to do
it.
Worse
still, the suppliers have an irresistibly strong incentive to design
the product or service in such a way as to make it as difficult and
as expensive as possible for their customer to switch to a competitor
when the contract does come to an end. Take, for example, software
contracts, where suppliers often try to hold intellectual property
rights over essential functions or public data registers; or make
their software as un-interoperable as possible in order to make
customers pay extra for ‘connectors’; or make it as difficult as
possible for customers to recover their own data and port it over to
a new system. The combined effect is that, at any given moment in
time, most public bodies are working with software that is at
least 10 years out of
date. That, in turn, creates even further dependence on outsourced
services, and results in failures like the Wannacry
ransomware attack, which cost the NHS £92m.
The
great irony of this ‘big’ public procurement model is that
government becomes so utterly dependent on these huge companies that
they become ‘too big to fail’. So when they do, government ends
up having to bail them out or pick up the cost anyway.
An
obvious example was the contractor Carillion, which in truth was less
a construction firm than a financial vehicle for outsourcing risk
(the actual construction work was done by subcontractors).
Shareholders and executives extracted significant profits and bonuses
from the company, before leaving the taxpayer to pick up a £148m
bill. So, in the end, it turns out it was the taxpayer who was
carrying the risk all along.
The
‘closed market’ problem is already a bad enough innovation
problem, but there is also another one.
Many
ideas for how to improve government or public infrastructure don’t
come from within the public sector. They come from citizens,
businesses, or social entrepreneurs.
Connecting
these people with those in the public sector with proximity-to,
knowledge-of and responsibility-for public problems is already hard
enough. But even if they do manage to find each other, and even if
they can find budget to do it, they then discover that they have
another problem. How to buy it?
Procurement
rules mean that above a certain threshold, an open tender must be put
out, looking for at least three bids. At this point, one of the
existing incumbent companies with a long track record can offer to
deliver a terrible version of the proposal, stripped of all social,
economic or environmental value (all the stuff that is difficult to
account for), on terrible terms, but at a low price. Unless the
original proposers can measure the immeasurable, and prove the
unprovable, then the public authority must
choose the cheaper of the bids. The original proposal is hijacked and
taken on a race to the bottom.
And
so it is that procurement rules that were originally intended to
prevent corruption can end up creating Kafka-esque levels of
bureaucratic absurdity and common-sense failure. The explanation
can’t be laid at the door of any one person’s actions, or any one
point of failure; rather it is the compound effect of many
independently reasonable actions, whose effects cascade to become
collectively catastrophic.
In
this situation, the only option available to the public official is
to try to cheat the system, by writing a tender that is so specific
to the original proposer than almost no one else can beat them. But
if it works, all it demonstrates is that the rules intended to
prevent corruption are ineffective: they can be gamed. The same trick
could just as easily be used to fund projects that do not represent
public value. (Some would argue that this is exactly what happened in
the case of London’s ill-fated ‘Garden
Bridge’).
This
stifling effect on innovation also has the side effect of lending
ammunition to those who would argue that we should ‘cut red tape’
by cutting regulations or relaxing anti-corruption protection
measures. Very bad idea.
The
third problem – bandwidth — is very
evident in the case of providing PPE to the NHS and care workers,
but it shows up in many other forms of procurement too, such as
affordable housing.
Put
simply, buyers only have a finite mental bandwidth, finite networks
and finite capacity to work through the administrative overheads of
tendering. Especially today, since many of the processes involved are
still very analogue and communication-intensive. Every tender has to
be designed, checked, put out for comment, and then a time window
created for questions and responses from suppliers. These all add up
to turn a decision that a private sector executive could make in a
few hours into the business of weeks.
These
high transaction costs mean that it remains much, much easier to buy
1000 units from 1 person than it is to buy 1 unit each from 1000
people.
As
a result, huge potential capacity in the ‘long
tail’ is left un-tapped, and public money that could be going
to local SMEs flows to large contractors and their shareholders.
So,
if we were to redesign procurement for the 21st century, to try to
imagine a system that is faster, cheaper, more effective, more
competitive, more open, gets better public value and provides better
protection against corruption, what might that look like?
Well,
I don’t know. But if you’ve read this far, you’re probably
interested enough in this problem that you might have some ideas.
These are mine:
The
first and most obvious move is to use the web to solve the bandwidth
problem. It’s what the web does best. Government can learn from the
effectiveness of platforms like Amazon, Ebay, AirBnB, Alibaba and the
App store; all made possible by standardised template agreements,
simple protocols and well-designed digital interfaces that aim to get
the transaction costs as close as possible to zero. The
Digital Marketplace and GCloud framework are a first step towards
this. The objective should be to create truly open markets – that
is, markets where any new entrant can join and quickly prove
themselves capable of delivering. As far as possible, these could
shift from filling in long application documents, towards a more
‘ratings’ like approach, where a supplier can easily get a small
first order and prove themselves. The real proof is always in the
pudding, and even the smallest portion tells you more than whole
books of recipes. Right now, a busy, stressed, NHS care trust
executive should be able to get online, and order 200 face shields
each from 10 companies, in less than 10 minutes.
However,
what makes web platforms effective is not just the frictionless
digital infrastructure, that lets buyers connect with sellers and
vice versa. Their success lies in the power of the platform owner to
shape the market: to set standards and enforce rules of engagement.
Uber do it. What if government did too?
This
ability to aggregate the public sector’s combined purchasing power
to set the rules
of the market
is the single most powerful tool that government is not using.
Let’s
return to the example I mentioned earlier, of IT contracts. A year or
so ago, in collaboration with Connected Places Catapult, Tech UK and
with contributions from a range of experts and suppliers,
we drafted a
checklist of 15 simple but robust basic checks for any local
government IT contract. It included things like a customer’s
right to extract their own data at any time, and a ban on any
contract longer than 2 years. We realised that if government were to
make all public sector IT contracts conditional on meeting those 15
rules, government could prevent most, if not all, of the kinds of
market failure we see across public sector IT every day, where
government ends up paying millions for rubbish, outdated software. In
other words, there is no such thing as ‘The Market’. There are
many possible markets, and government has more power than it thinks
it has to shape markets where it is almost impossible for them to go
too far wrong. I would argue that not only does government have an
opportunity
to use its platform power more effectively, it in fact has a moral
obligation to do so.
Of
course, there were some (not as many as you might think, I should
add) murmurs from the old suppliers who said ‘if you make the rules
of the game too stringent, we won’t play’. But that’s the whole
point of competition. If the old companies aren’t willing to play,
they leave the market open to younger , smaller, hungrier, more
innovative companies who will. And believe me, they will. I’ve
written about this before under the concept of ‘Democracy
as a Platform’.
(Additional
note: In other domains, this could go further. For example, in cases
where a contract will inevitably create a temporary monopoly, or
where there is a particular urgency to move fast in a crisis, bids
could be limited to non-profit companies (no profits to shareholders)
with wage ceilings.)
Another
approach we’ve been exploring, particularly in relation to
procurement of buildings, is to shift away from the practice of
bundling everything together (R&D, finance, delivery, risk etc)
into a massive contractural black box, and instead doing the exact
opposite: breaking everything you want to buy into small, separate,
predictable, transparent modules, each of which is documented for all
to see, and can be procured from any (or several) of a range of
suppliers at any time.
Let
me give an example from our work on WikiHouse.
In recent years, if a council wanted to build social housing on a
site, they might go to a single contractor to do the whole thing. Of
course, there are a limited number of construction firms capable of
taking on a task and risk of this scale, so the bids come in high.
All the design IP, costings, task data etc is black-boxed, kept by
each contractor whose costs are largely based on guesswork. So when
the next project comes along, nothing gets much better, cheaper or
more predictable. Councils are stuck in groundhog day, re-tendering
to the same group of construction firms, and starting every project
from scratch.
Digital
manufacturing allows us to change this, because it allows
construction to be broken into clear, predictable tasks, that almost
anyone can do.
So
what if, instead of going out to tender, the council were to start by
paying an R&D team to develop a customisable house type design,
with an IP agreement that allows them to use that design as many
times as they please (this might be a open source, or a commercial
licence). Every component, every task is predictable and separately
documented, all recorded in spreadsheets and assembly manuals that
everyone can see. Prospective suppliers (who might be small
shop-fitting companies down the road) then provide rules of thumb for
the costing of each task (eg ‘£200 per day’ or ‘£21 per sheet
of plywood’). These rules of thumb are their ‘bid’ that can be
used to cost a task. If the customer offers them the job, they don’t
get to change their bid, they only get to say ‘yes’ or ‘no’.
If they do accept, they are obliged to measure as they go and
feed–back into the design and documentation, so the predictability
of cost and timescales gets better and better over time, for everyone
to see. This also means that instead of being stuck with the same old
large suppliers, the council can grow an open network of SMEs capable
of delivering the same product or service, and switch between them at
any time. Continuous competition, continuous collaboration and
continuous agile innovation.
This
approach has the additional benefit that, by taking on additional
risk (and then using feedback to reduce it) the customer also regains
control over design quality. The contractors’ incentive to
drive-down quality has been politely removed from the equation.
This
approach may not work for everything, but I suspect it could be
applied to a huge variety of procurement tasks. It could certainly be
used in the case of the COVID-19 PPE.
(Update:
After I posted this, Richard
Pope shared with me this
post on pioneering work done by 18F on Modular Contracting. It’s
very much worth a read.)
The
final idea — which certainly won’t apply to every situation, but
might apply to some — involves flipping the game of bidding itself
upside-down.
The
traditional contracting mindset is that you invite bids on price from
different suppliers in order to ‘let the market find the price
point’. You then pick one (often the second-to-lowest bidder). The
trouble with this, as we have already explored, is that it creates a
strong incentive for suppliers to bid low to win the job, then
immediately engage in a race-to-the-bottom on quality or resilience.
In the end, the money saved by getting suppliers to bid-low often
turns out to be a false saving.
But
in many situations it may increasingly become possible to use shared
data to predict roughly what the price point should
be, or what the
customer can viably afford for it to be. So what if, instead of
getting suppliers to bid on price, we were to fix the price across
all potential suppliers, but then invite them to outbid each other on
quality or performance. In effect, to trigger a race
to the top on quality
and other social or economic outcomes. It’s a way of extending an
open invitation to all possible suppliers, including new entrants,
and saying ‘here’s the money that’s on offer, what could you do
with it’?
Of
course, if no suppliers step forward, then the price would have to be
raised until several companies offer their services.
Or
perhaps, all these ideas are useless, and it’s another idea
entirely. But let’s talk about it. In fact let’s do more than
talk about it. Let’s start prototyping, piloting and experimenting,
now.
Because,
of course, COVID-19 is not the only crisis our generation faces.
Indeed, as disruptive and as tragic as this pandemic is, it may only
be an early warning shot from the future. In the coming decades, our
governments are going to have to respond to more large-scale crises;
some sudden, some gradual. They will need to embark on massive
programmes to build new infrastructure, to upgrade our cities and
homes, to build resilient, digital government services, to transform
our food supply. Governments will need to be able to act rapidly and
effectively to protect people’s wellbeing, to protect the
environment shape new markets, and to build a resilient economy and
society.
And
it can
all be done. Better, and for much, much
less money than you might think. But only if we learn the lesson now,
and fix procurement first.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.