Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Những khái niệm cơ bản liên quan tới tài nguyên giáo dục mở


-->
Đã 3 số liên tục, kể từ số tháng 07 tới số tháng 09/2012, Tin học & Đời sống đã giới thiệu với các bạn độc giả một chuỗi các bài về các giấy phép mở Creative Commons cho các tư liệu sáng tạo mở, về cách thức ghi công - ghi nhận quyền (các) tác giả của các tư liệu đó, và một chút về cách tìm kiếm và sử dụng kho tư liệu mở khổng lồ bằng tiếng nước ngoài trên thế giới theo một cách thức văn minh và tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt trong kỷ nguyên thông tin số hiện nay.
Loạt bài đó đã gợi mở cho chúng ta một cách thức tiếp cận với mục đích để không chỉ khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên mở khổng lồ có sẵn và vô tận của thế giới, mà còn hướng tới việc tạo ra, sản xuất ra các kho tài nguyên mở tiếng Việt, phục vụ cho những nhu cầu học tập nghiên cứu của người Việt, dựa vào, trước hết, nguồn nhân lực khổng lồ của hơn 20 triệu người Việt đang làm việc trong khu vực giáo dục hiện nay, với sự trợ giúp của các công cụ CNTT-TT và, tất nhiên, Internet.
Một điều trùng hợp ngẫu nhiên xảy ra vừa mới đây đúng theo cách tiếp cận này, là Hội nghị Tài nguyên Giáo dục Mở - OER (Open Education Resources) Thế giới năm 2012 vừa được UNESCO tổ chức tại Paris, thủ đô nước Pháp, từ 20-22/06/2012.
Bổ sung thêm vào việc triển lãm các thực tiễn tốt nhất thế giới trong các chính sách về OER, những sáng kiến và các chuyên gia kỷ niệm lần thứ 10 diễn đàn UNESCO 2002 khi lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm “OER”, các quốc gia thành viên của UNESCO đã nhất trí thông qua Tuyên bố Paris về OER, kêu gọi các Chính phủ hỗ trợ sự phát triển và sử dụng OER.
Tuyên bố khuyến cáo các quốc gia thành viên UNESCO, trong đó có Việt Nam:
  1. Khuyến khích nâng cao nhận thức và sử dụng OER.
  2. Tạo thuận lợi cho các môi trường sử dụng CNTT-TT.
  3. Tăng cường sự phát triển các chiến lược và chính sách về OER.
  4. Thúc đẩy sự hiểu biết và sử dụng các khung cấp phép mở.
  5. Hỗ trợ xây dựng năng lực vì sự phát triển bền vững các tư liệu học tập chất lượng.
  6. Khuyến khích các liên minh chiến lược về OER.
  7. Thúc đẩy sự phát triển và áp dụng OER trong các ngôn ngữ và ngữ cảnh văn hóa khác nhau.
  8. Thúc đẩy nghiên cứu về OER.
  9. Tạo thuận lợi cho việc phát hiện, tìm kiếm sử dụng và chia sẻ OER.
  10. Thúc đẩy việc cấp phép mở các tư liệu giáo dục được tạo ra từ ngân sách nhà nước.
Để hưởng ứng lời kêu gọi trên, từ số này trở đi, Tin học & Đời sống sẽ giới thiệu tới các bạn độc giả loạt bài về OER và các vấn đề liên quan với mục đích hướng tới việc xây dựng kho OER tiếng Việt.
Trước khi đi vào phân tích toàn diện các vấn đề có liên quan tới việc khai thác các cách thức sử dụng OER có hiệu quả nhất, chúng ta sẽ đi qua một số câu hỏi thường gặp với mục đích để làm quen nhanh chóng với OER và những vấn đề liên quan đó. Bài này đưa ra những câu hỏi đáp thường gặp liên quan tới những khái niệm cơ bản xung quanh OER.
1. Các Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) là gì?
Ở dạng đơn giản nhất của nó, khái niệm OER mô tả bất kỳ tài nguyên giáo dục nào (bao gồm các chương trình đào tạo, các tư liệu khóa học, các sách giáo khoa, các video, các ứng dụng đa phương tiện và bất kỳ tư liệu nào khác được thiết kế để sử dụng trong việc dạy và học) mà là sẵn sàng cởi mở để các giáo viên và học viên sử dụng mà không có nhu cầu đi kèm phải trả phí bản quyền hoặc phí giấy phép.
Khái niệm OER phần lớn tương tự như với một khái nhiệm khác: Khóa học Mở - OCW (Open CourseWare), dù khái niệm sau có thể được sử dụng để tham chiếu tới một tập con có cấu trúc hơn về OER. Một OCW được Nhóm OCW (OCW Consortium) định nghĩa như là một xuất bản phẩm số tự do và mở các tư liệu giáo dục chất lượng cao mức đại học. Những tư liệu đó được tổ chức như các khóa học, và thường bao gồm các tư liệu kế hoạch khóa học và các công cụ đánh giá cũng như các nội dung theo chủ đề.
OER đã nổi lên như một khái niệm với tiềm năng lớn để hỗ trợ cho sự biến đổi giáo dục. Trong khi giá trị giáo dục của nó nằm trong ý tưởng sử dụng các tài nguyên như một phương pháp giao tiếp hữu cơ của các chương trình giảng dạy trong các khóa giáo dục (như học tập dựa vào tài nguyên), thì sức mạnh làm biến đổi của nó nằm trong sự dễ dàng truy cập tới các tài nguyên như vậy, khi được số hóa, có thể được chia sẻ qua Internet. Điều quan trọng, chỉ có một yếu tố khác biệt chủ chốt giữa OER và bất kỳ tài nguyên giáo dục nào khác: giấy phép tạo thuận lợi để tái sử dụng, tùy biến tiềm tàng, mà không có yêu cầu phải xin phép trước từ người nắm giữ bản quyền.
2. OER là y hệt như học tập điện tử e-learning?
OER không đồng nghĩa với học tập trực tuyến hoặc học tập điện tử e-learning, dù nhiều người mắc sai lầm khi sử dụng các khái niệm đó lẫn với nhau.
Nội dung được cấp phép mở có thể được sản xuất trong bất kỳ vật mang nào: văn bản trên giấy, video, âm thanh hoặc đa phương tiện dựa vào máy tính. Nhiều khóa học e-learning có thể dựa vào OER, nhưng điều này không có nghĩa là OER nhất thiết là e-learning. Quả thực, nhiều tài nguyên mở đang được sản xuất ra hiện nay - trong khi có khả năng chia sẻ trong một định dạng số - thì chúng cũng có khả năng in ấn ra được. Đưa ra những thách thức chung về băng thông rộng và sự kết nối tại một số quốc gia đang phát triển, có thể thấy rằng một tỷ lệ phần trăm cao các tài nguyên phù hợp cho giáo dục đại học tại các quốc gia như vậy được chia sẻ như những tài nguyên in ấn được ra giấy, hơn là đang được thiết kế để sử dụng trong e-learning.
3. OER có là y hệt như với học tập mở / giáo dục mở?
Dù sử dụng OER có thể hỗ trợ cho học tập mở / giáo dục mở (Open Learning/Open Education), thì 2 thứ này không là như nhau. Làm cho 'giáo dục mở' hoặc 'học tập mở' trở thành một ưu tiên có những tác động lớn hơn đáng kể so với chỉ cam kết phát hành các tài nguyên là mở hoặc sử dụng OER trong các chương trình giáo dục. Nó đòi hỏi phân tích có hệ thống các hệ thống đánh giá và công nhận, sự hỗ trợ của học viên, các khung chương trình giảng dạy, các cơ chế để nhận thức trước việc học, …, để xác định mức độ ở đó chúng cải thiện hoặc ngăn trở tính mở.
Học tập mở là một tiếp cận cho giáo dục, tìm kiếm để loại bỏ tất cả những rào cản không cần thiết cho việc học tập, trong khi nhằm tới để cung cấp cho học viên cơ hội thành công hợp lý trong một hệ thống giáo dục và huấn luyện được tập trung vào các nhu cầu đặc thù của họ và được định vị trong nhiều lĩnh vực học tập. Nó kết hợp vài nguyên tắc chủ chốt:
  • Cơ hội học tập nên là suốt đời và nên nhấn mạnh cả vào giáo dục và huấn luyện.
  • Qui trình học tập nên tập trung vào các học viên, xây dựng trên kinh nghiệm và khuyến khích suy nghĩ độc lập và tới hạn.
  • Cung cấp việc học tập nên là mềm dẻo sao cho những học viên có thể ngày càng có khả năng lựa chọn được, ở đâu, khi nào, những gì và làm thế nào họ sẽ học, cũng như nhịp độ ở đó họ sẽ học.
  • Các năng lực học được chứng minh trước đó, kinh nghiệm có trước đó nên được thừa nhận sao cho các học viên không nhất thiết bị ngăn cấm khỏi các cơ hội giáo dục chỉ vì thiếu các phẩm chất phù hợp;
  • Các học viên nên có khả năng tích lũy sự công nhận từ các ngữ cảnh học tập khác nhau;
  • Các nhà cung cấp nên tạo ra những điều kiện cho một cơ hội công bằng về thành công của những học viên.
Tất cả danh sách này miêu tả, trong khi sử dụng có hiệu quả OER có thể đưa ra sự thể hiện thực tế cho một số các nguyên tắc đó, thì 2 khái niệm là khác biệt nhau về cả phạm vi và ý nghĩa.
4. OER có liên quan tới khái niệm học tập dựa vào tài nguyên không?
Đã có sự nhấn mạnh đáng kể được đặt ra trong các thảo luận về OER về chất lượng của OER. Điều này làm cho khái niệm về học tập dựa vào tài nguyên (Resource-Based Learning) được đặc biệt quan tâm. Bất chấp điều đó, những tranh luận về OER từng thường tạo ra ít tham chiếu tới khái niệm học tập dựa vào tài nguyên cho tới gần đây. Điều này có thể vì sự nhấn mạnh trong hầu hết thảo luận OER trên toàn cầu từng là về việc chia sẻ và cấp phép cho các tư liệu đang tồn tại, một tỷ lệ đáng kể của nó đã đưa vào việc chia sẻ một cách đơn giản những lưu ý bài giảng và các trình chiếu PowerPoint được sử dụng trong các bài giảng theo lối tiếp xúc mặt đối mặt.
Lưu ý về học tập dựa vào các tài nguyên, về cơ bản, có ý nghĩa gì? Nó có nghĩa là việc dịch chuyển khỏi lưu ý truyền thống về 'giáo viên nói' khi truyền đạt chương trình giảng dạy; một tỷ lệ đáng kể những thay đổi của giao tiếp giữa các học viên và giáo viên không phải là tiếp xúc mặt đối mặt, mà là diễn ra thông qua sử dụng các phương tiện khác khi cần thiết. Điều quan trọng, tiếp xúc mặt đối mặt diễn ra thường không liên quan tới các dạng hỗ trợ khác cho học viên, ví dụ, các sách chỉ dẫn, thảo luận ngang hàng theo nhóm hoặc công việc thực tế.
Học tập dựa vào tài nguyên không đồng nghĩa với giáo dục từ xa (Distance Education). Thay vào đó, học tập dựa vào tài nguyên đưa ra một cơ sở cho việc biến đổi văn hóa dạy học khắp tất cả các hệ thống giáo dục để xúc tác cho các hệ thống đó đưa ra giáo dục chất lượng tốt hơn tới được số lượng học viên nhiều hơn đáng kể. Nhiều khóa học và chương trình ở tất cả các mức độ giáo dục bây giờ kết hợp sử dụng tăng cường các tài nguyên được thiết kế để dạy học, khi các giáo viên đã học được những hạn chế của các chiến lược dựa vào bài giảng để truyền đạt thông tin tới các học viên.
Để tóm tắt:
  • Không có mối quan hệ trực tiếp giữa OER và học tập dựa vào tài nguyên.
  • Nhiều OER có sẵn trên trực tuyến không hoàn toàn được thiết kế như một phần của chiến lược có chủ ý để dịch chuyển sang học tập dựa vào tài nguyên.
  • Cũng vậy, hầu hết thực tiễn trong học tập dựa vào tài nguyên hiện sử dụng các tư liệu có bản quyền hoàn toàn (All Rights Reserved) hơn là OER với một số quyền được lưu giữ (Some Rights Reserved).
Dù vậy, việc liên kết OER và học tập dựa vào tài nguyên đưa ra một cơ hội để làm đòn bẩy cho cả 2 một cách có hiệu quả nhất.
5. Giấy phép mở - mở thế nào?
Một sự hiểu lầm phổ biến là các nội dung 'được cấp phép mở' thuộc về miền công cộng, và rằng tác giả vứt bỏ tất cả các quyền của họ đối với tư liệu. Điều này là không đúng. Trong thực tế, sự nổi lên của các giấy phép mở từng được dẫn dắt mạnh mẽ bằng ước nguyện bảo vệ các quyền của một người nắm giữ bản quyền trong các môi trường nơi mà nội dung (đặc biệt khi được số hóa) có thể thật dễ dàng được sao chép và chia sẻ thông qua Internet mà không cần yêu cầu tới sự cho phép.
Một phổ rộng lớn các khung pháp lý đang nổi lên để điều hành cách mà OER được cấp phép sử dụng. Một số khung pháp lý đơn giản cho phép việc sao chép, nhưng những khung khác cung cấp cho những người sử dụng để tùy biến các tài nguyên mà họ sử dụng. Được biết tốt nhất trong số các khung đó là khung cấp phép Creative Commons (www.creativecommons.org). Nó cung cấp các cơ chế pháp lý để đảm bảo rằng các tác giả của các tư liệu có thể giữ lại được sự thừa nhận đối với tác phẩm của họ trong khi cho phép tác phẩm được chia sẻ, có thể tìm cách để hạn chế hoạt động thương mại nếu họ muốn, và có thể nhằm tới để ngăn chặn mọi người khỏi việc áp dụng nó nếu phù hợp. Vì thế, một tác giả mà áp dụng một giấy phép Creative Commons (CC) cho tác phẩm của họ đặc biệt tìm cách để giữ lại bản quyền đối với tác phẩm đó, nhưng đồng ý - thông qua giấy phép - bỏ đi một số quyền.
Nói một cách khác, một tác phẩm mà (các) tác giả gắn cho nó một giấy phép CC là để họ giữ lại một số quyền (Some Rights Reserved), tác phẩm đó không thuộc về miền công cộng, nơi mà không có quyền nào được giữ lại cả (No Right Reserved), nhưng tác phẩm đó cũng không ở dạng (các) tác giả giữ lại tất cả các quyền (All Rights Reserved) (Xem bài “Các giấy phép Creative Commons cho các tư liệu mở”, đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 7/2012 để có thêm thông tin chi tiết).
6. Sự khác biệt giữa OER và xuất bản truy cập mở là gì?
Xuất bản truy cập mở (Open Access Publishing) là một khái niệm quan trọng, nó rõ ràng có liên quan tới - nhưng khác biệt với – OER.
Wikipedia lưu ý rằng khái niệm 'truy cập mở' được áp dụng cho nhiều khái niệm, nhưng thường tham chiếu tới hoặc những thứ sau đây:
  • '(Xuất bản) truy cập mở'; hoặc
  • 'Truy cập tới tư liệu (chủ yếu là các xuất bản phẩm học tập) thông qua Internet theo một cách thức mà tư liệu đó là tự do cho tất cả để đọc và sử dụng (hoặc sử dụng lại) ở các mức độ khác nhau'; hoặc
  • 'Tạp chí, các tạp chí truy cập mở mà trao sự truy cập mở tới tất cả hoặc một phần hữu hạn các bài báo của chúng'.
Xuất bản truy cập mở thường tham chiếu tới các xuất bản phẩm nghiên cứu của một số dạng có liên quan theo một giấy phép mở. OER tham chiếu tới các tư liệu dạy và học được phát hành theo một giấy phép như vậy. Rõ ràng, đặc biệt trong giáo dục đại học, có một sự chồng lấn, khi mà các xuất bản phẩm nghiên cứu thường tạo thành một phần quan trọng của toàn bộ tập hợp các tư liệu mà các học viên cần để truy cập tới các nghiên cứu hoàn chỉnh của chúng một cách thành công, đặc biệt ở mức độ sau đại học.
Dù vậy, sự khác biệt dường như đáng giá áp dụng vì nó cho phép thảo luận và lên kế hoạch có sắc thái hơn về các dạng giấy phép mở nào có thể là phù hợp nhất cho các dạng tài nguyên khác nhau.
TÓM LƯỢC
Bài viết giới thiệu những khái niệm xung quanh và gần giống với OER và giải thích về những khác biệt và/hoặc sự chồng lấn đan xen giữa chúng, như: (1) Khóa học mở OCW (Open Couseware); (2) Học tập điện tử (e-Learning); (3) Học tập mở - Giáo dục mở (Open Learning/Open Education); (4) Học tập dựa vào tài nguyên (Resource-Based Learning); (5) Giáo dục từ xa (Distance Education); (6) Xuất bản truy cập mở (Open Access Publishing). Bài viết cũng nhắc lại và nhấn mạnh một số khía cạnh pháp lý cần lưu ý của các giấy phép mở CC trong ngữ cảnh của OER.
Bài kỳ sau: Khía cạnh pháp lý của OER.
Trần Lê
Dựa theo: Chỉ dẫn cơ bản về các Tài nguyên Giáo dục Mở (OER)
Bài đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 10/2012, trang 66-69.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.