Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

Phân tích tư vấn công khai cho chính sách mới về tiêu chuẩn mở của nước Anh - Một tham chiếu cho Việt Nam


Tiếp theo bài kỳ trước trên Tin học & Đời sống số tháng 12/2012 “Chính sách bắt buộc các tiêu chuẩn mở có hiệu lực từ 01/11/2012 của nước Anh - Những ví dụ cần thiết”, bài kỳ này sẽ đưa ra những kết luận từ những phân tích các số liệu của cuộc tư vấn công khai cho chính sách trên, dù các độc giả có thể xem không chỉ các kết luận, mà còn cả chi tiết các số liệu của từng câu hỏi trong cuộc tư vấn công khai đó, được trình bày trong tài liệu: Phân tích tư vấn công khai về các tiêu chuẩn mở: các cơ hội mở, do Trung tâm Quản lý Chính sách và Sở hữu Trí tuệ tại Đại học Bournemouth hoàn thành cho Văn phòng Nội các Chính phủ Anh, tháng 08/2012.
LÀM QUEN VỚI CÁC KHÁI NIỆM RF, FRAND và RAND
Để có được một chính sách mới về các tiêu chuẩn mở bắt buộc trong các cơ quan nhà nước Anh từ 01/11/2012, một trong những vấn đề được bàn tới và gây nhiều tranh cãi nhất có liên quan tới các quyền sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế phần mềm và cấp phép theo RF, FRAND hay RAND, được nêu trong các tài liệu có liên quan như: (1) Phân tích tư vấn công khai về các tiêu chuẩn mở: các cơ hội mở; (2) Các nguyên tắc của các tiêu chuẩn mở trong CNTT Chính phủ: Rà soát lại bằng chứng; và (3) Tư vấn về các tiêu chuẩn mở - Trả lời của Chính phủ. Vậy, cấp phép theo RF, FRAND hoặc RAND là gì?
  • RF, viết tắt từ tiếng Anh của chữ “Roalty Free”, tạm dịch là, tự do về phí bản quyền. Khái niệm RF từng được gán cho các ý nghĩa khác nhau, bao gồm sự không đòi quyền lợi của một bên đơn phương hoặc sự có đi có lại đối với các quyền sở hữu trí tuệ và các giấy phép tự do về phí bản quyền. Nếu không phải là như trên, thì sẽ là FRAND. Trong khi khái niệm RF chính xác có thể là quan trọng trong những trường hợp đặc thù nhất định, đặc biệt khi có liên quan tới phần mềm nguồn mở (PMNM), thì đối với các mục tiêu của tài liệu rà soát lại bằng chứng của Chính phủ Anh, khía cạnh quan trọng của RF là SỬ DỤNG TIÊU CHUẨN KHÔNG PHẢI TRẢ TIỀN PHÍ BẢN QUYỀN (The important aspect of RF is that no royalty is charged for use of the standard).
  • FRAND, viết tắt từ tiếng Anh của chữ “Fair, Reasonable and Non-Discrimination”, tạm dịch là, công bằng - hợp lý và không phân biệt đối xử. Thuật ngữ này được sử dụng tại châu Âu và gần giống như với RAND, thường được sử dụng tại Mỹ. FRAND là một nguyên tắc cho việc đánh giá phí bản quyền.
  • RAND, viết tắt từ tiếng Anh của chữ “Reasonable and Non-Discrimination”, tạm dịch là, hợp lý và không phân biệt đối xử.
XUẤT XỨ CỦA TƯ VẤN CÔNG KHAI
Chiến lược CNTT-TT của Chính phủ, được xuất bản ngày 30/03/2011, đã cam kết Chính phủ sẽ tạo ra một hạ tầng CNTT chung và an ninh dựa vào một bộ các tiêu chuẩn mở bắt buộc, áp dụng các tiêu chuẩn mở phù hợp ở bất kỳ đâu có thể.
Theo điều này, Văn phòng Nội các Chính phủ Anh đã đưa ra một tư vấn về chính sách được đề xuất về các tiêu chuẩn mở đặc thù bắt buộc trong mua sắm nhà nước, bao trùm cả Chính phủ trung ương và các cơ quan ngang bộ, các cơ quan và đơn vị khác báo cáo cho họ.
Cuộc tư vấn công khai này bắt đầu vào ngày 09/02/2012 và dự tính kết thúc vào ngày 03/05/2012. Sau đó đã được mở rộng tới hết ngày 04/06/2012, nghĩa là kéo dài gần 4 tháng.
Mục tiêu của Chính phủ là để nhận diện ra các tiêu chí để xác định một tiêu chuẩn mở và những hoàn cảnh theo đó Chính phủ nên bắt buộc một tiêu chuẩn mở. Hơn nữa, chính sách này sẽ được sắp xếp phù hợp với các chính sách quốc tế về các tiêu chuẩn trong mua sắm CNTT của Chính phủ.
Tư vấn công khai bao gồm 3 tập các câu hỏi, được chia thành 3 phần:
  • Phần 1 về “định nghĩa tiêu chuẩn mở trong ngữ cảnh của CNTT Chính phủ”;
  • Phần 2 về “ý nghĩa của sự bắt buộc và các hiệu ứng mà các tiêu chuẩn mở bắt buộc có thể có lên các bộ của Chính phủ, lên các đối tác phân phối và các chuỗi cung ứng”;
  • Phần 3 về “sự sắp xếp quốc tế tính tương hợp xuyên biên giới”
Tài liệu này phân tích và tóm tắt các kết quả của tư vấn công khai về việc bắt buộc các tiêu chuẩn mở cho tính tương hợp của phần mềm, các định dạng dữ liệu và tài liệu trong chính sách mua sắm công của Vương quốc Anh. Những đóng góp và đệ trình được lượng hóa, được tóm tắt và được hệ thống hóa, không trình bày các ý kiến cá nhân của các tác giả. Hơn nữa, báo cáo không đưa ra bất kỳ chỉ số nào của chính sách trong tương lai của Vương quốc Anh trong lĩnh vực các tiêu chuẩn mở.
THỰC THI TƯ VẤN CÔNG KHAI
Văn phòng Nội các Chính phủ Anh đã nhận được các câu trả lời cho tư vấn thông qua vài kênh:
  1. Một bảng câu hỏi trực tuyến được Văn phòng Nội các làm sẵn sàng cho công chúng;
  2. Các đề xuất bằng văn bản gửi tới Văn phòng Nội các tuân theo cấu trúc của bảng câu hỏi trên trực tuyến;
  3. Các đề xuất bằng văn bản tới Văn phòng Nội các mà không tuân theo cấu trúc của bảng câu hỏi;
  4. Các thư điện tử và thư giấy tới Văn phòng Nội các;
  5. Bảy (7) thảo luận bàn tròn được Văn phòng Nội các tổ chức;
  6. Một bảng câu hỏi trực tuyến được một bên thứ 3 đưa ra, đề xuất các câu hỏi y hệt như của Văn phòng Nội các;
  7. Các cuộc họp với các bên tham gia đóng góp.
Tổng thể, hơn 480 đề xuất đã được Văn phòng Nội các tiếp tục dùng, được cân nhắc để thực hiện phân tích này. Những người trả lời cho tư vấn bao gồm các cơ quan Chính phủ, giới công nghiệp (các doanh nghiệp vừa và nhỏ - SME và các tập đoàn), các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn (SSO), các nhóm chuyên gia, các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức tình nguyện và cộng đồng và các nhóm chiến dịch, những người chuyên nghiệp (như các luật sư, những người chuyên nghiệp về CNTT); các viện trường, các nhà quan sát nước ngoài (như các công chức/những người chuyên nghiệp dân sự của Hà Lan), và công chúng nói chung.
Phần lớn nhất của những người trả lời được thực hiện từ các cá nhân tư nhân (43%). Nhóm này bao gồm các sinh viên, các lập trình viên phần mềm, và những người chuyên nghiệp về CNTT, cũng như các thành viên của SSO và các hiệp hội chuyên gia, những người đã đóng góp theo năng lực cá nhân. Một phần đáng kể khác những người trả lời là từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ - SME (23%). Các cơ quan Chính phủ bao gồm các bộ của Chính phủ trung ương, các cơ quan trực thuộc các bộ, các cơ quan nhà nước ngang bộ và các cơ quan khác mà theo đó họ có trách nhiệm và các nhà chức trách địa phương chiếm 7% các câu trả lời.
Nhiều tập đoàn (7%) và các tổ chức doanh nghiệp (3%) từ nền công nghiệp phần mềm, nền công nghiệp phần cứng, nền công nghiệp viễn thông, nền công nghiệp điện tử và các nền công nghiệp khác đã tham gia. Các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn, cả ở dạng các hiệp hội doanh nghiệp tự nguyện và các tổ chức chính thống (2%), và các hiệp hội chuyên gia (2%) cũng đã có đại diện.
Các tổ chức tự nguyện và cộng đồng, bao gồm cả các cộng đồng các lập trình viên phần mềm nguồn mở (PMNM), các nhóm chiến dịch, các phong trào chính trị và xã hội, chiếm tới 4% những người tham gia, nơi mà những người chuyên nghiệp như các luật sư và các nhà nghiên cứu hàn lâm đại diện đã chiếm khoảng 3% và 4% tổng số những người tham gia. Cuối cùng, các nhà quan sát bên ngoài, các công chức dân sự và những người chuyên nghiệp của các nước ngoài (đặc biệt từ Hà Lan) đã tiến hành đóng góp (1%).
Các thảo luận bàn tròn và những đóng góp không theo cấu trúc đã lặp đi lặp lại các chủ đề tư vấn trực tuyến và về những đề xuất bằng văn bản. Các kiểu dạng thư từ giữa các loại hình của những người trả lời và các lập trường về chính sách được đề xuất này cũng đã được khẳng định.


KẾT LUẬN TỪ PHÂN TÍCH CÁC SỐ LIỆU NÊU TRONG TÀI LIỆU: “PHÂN TÍCH TƯ VẤN CÔNG KHAI VỀ CÁC TIÊU CHUẨN MỞ: CÁC CƠ HỘI MỞ”.
Tổng quan
Tư vấn công khai về chính sách được đề xuất cho các tiêu chuẩn mở trong các đặc tả CNTT Chính phủ, liên quan tới tính tương hợp của phần mềm, các định dạng dữ liệu và tài liệu, đã tạo ra một số lượng lớn các đóng góp và câu trả lời. Số lượng và cấu tạo của những người tham gia chỉ ra mối quan tâm đáng kể, không chỉ trong nền công nghiệp CNTT và trong các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn, mà còn trong các lĩnh vực khác của nền công nghiệp và xã hội, bao gồm cả công chúng một cách rộng rãi. Hình thức của những người tham gia là cực kỳ đa dạng và tất cả các nhóm tham gia đóng góp có quan tâm trong chính sách này đều đã có đại diện.
Phương pháp luận
Tiếp cận có tính phương pháp luận được áp dụng cho phân tích này là một sự kết hợp của lý thuyết nền tảng cơ bản và các phương pháp nghiên cứu định lượng. Nó có liên quan tới việc tái lập nhóm các lý do tái diễn định kỳ từ những câu trả lời cho tư vấn trong các danh sách câu trả lời có cấu trúc. Điều này đã cho phép không chỉ nhận diện được các chủ đề lặp đi lặp lại, mà còng định lượng được tỷ lệ những người sử dụng ủng hộ cho từng lý lẽ.
Phần 1: Định nghĩa một tiêu chuẩn mở
Hầu hết những người trả lời (62%) đã thể hiện một quan điểm tích cực về định nghĩa một tiêu chuẩn mở được Chính phủ đề xuất. Tuy nhiên, đa số những người trả lời (95% bao gồm những người thể hiện quan điểm tiêu cực) đã gợi ý một số sửa đổi định nghĩa. Hầu hết những sửa đổi thích hợp là về những điều khoản về việc cấp phép sở hữu trí tuệ (IP) chống trụ cho các tiêu chuẩn mở.
Các quan điểm đã bày tỏ về tác động của chính sách này lên nền công nghiệp và các dịch vụ của Chính phủ phần lớn là tích cực. Hầu hết những người trả lời đã đồng ý rằng chính sách này có thể là sân chơi bình đẳng, cho phép các doanh nghiệp mới vào được thị trường CNTT của Chính phủ, có một ảnh hưởng tích cực lên tổ chức của họ, và làm gia tăng giá trị về tiền của sự cung cấp các dịch vụ của Chính phủ. Đa số những người trả lời đã khuyến cáo đầu tư của Chính phủ để hỗ trợ chính sách này trong việc cấp vốn và tham gia trong các tổ chức và ban lãnh đạo thiết lập tiêu chuẩn. Theo hầu hết những người trả lời, không nên có cơ sở hợp lý khác trong sự bắt buộc các tiêu chuẩn mở trong các giải pháp phần mềm dùng được ngay hoặc làm theo đơn đặt hàng.
Quan điểm tiêu cực của hầu hết những người trả lời cho tư vấn nhằm vào các chính sách có thể liên quan tới các quyền IP. Họ nói chung là tiêu cực về vai trò của các bằng sáng chế và các giấy phép trong việc hỗ trợ cho tính tương hợp; không tin tưởng vào các hệ thống cấp phép mà triển khai các giấy phép FRAND có thể là một sân chơi bình đẳng, và rất nghi ngờ về tính bền vững của những điều khoản phí bản quyền và về sự hứa hẹn của việc không đòi quyền lợi của các bằng sáng chế.
Phần 2: Bắt buộc các tiêu chuẩn đặc thù
Đa số lớn những người trả lời cũng là tích cực về sự bắt buộc các tiêu chuẩn đặc thù trong mua sắm CNTT Chính phủ. Tuy nhiên, đa số có bằng chứng với phần này của tư vấn là khá nhỏ hơn so với đa số có bằng chứng trong Phần 1. Điều này rõ ràng nổi lên từ sự so sánh các số liệu có liên quan tới câu hỏi hầu như tương tự được đưa ra trong Phần 1 và trong Phần 2. Về bản chất, sự bắt buộc các tiêu chuẩn mở nói chung đã tạo ra một sự đồng thuận lớn hơn so với sự bắt buộc của một hoặc nhiều hơn các tiêu chuẩn đặc thù. Tuy nhiên, đa số những người trả lời tin tưởng rằng chính sách này sẽ cải thiện giá trị về tiền trong các dịch vụ của Chính phủ, rằng không có những rào cản về pháp lý hoặc mua sắm cho chính sách này, và sự bắt buộc các tiêu chuẩn cạnh tranh là không hiệu quả. Hơn nữa, họ tin tưởng rằng chính sách này có thể không tạo ra hành vi chống cạnh tranh trong mua sắm công và rằng nó sẽ có một ảnh hưởng tích cực lên tổ chức của họ. Những thay đổi trong các công nghệ nên làm bật dậy nhanh sự rà soát lại một tiêu chuẩn được bắt buộc, theo đa số những người trả lời, và Chính phủ nên có một tiếp cận dần dần để làm việc với sự chuyển tiếp quá độ từ các hệ thống đã có trước đó sang các giải pháp mới tuân thủ với các tiêu chuẩn mở.
Sự cân bằng giữa các tiêu chuẩn và đổi mới không phải là mối quan tâm cho đa số những người trả lời, họ tin tưởng rằng chính sách của Chính phủ nên tập trung vào các tiêu chuẩn mở; đổi mới sẽ tự nhiên xây dựng trên đó. Việc kiểm thử tính tương hợp của một tiêu chuẩn bắt buộc nên được để lại cho Chính phủ, vì nó có thể tới lượt mình dựa vào các đặc tả kiểm thử của các SSO.
Cuối cùng, các tiêu chí sẽ được Chính phủ tuân theo trong việc bắt buộc các tiêu chuẩn mở từng được những người trả lời cho tư vấn này gợi ý đã không trệch nhiều khỏi các tiêu chí được Chính phủ đề xuất. Thay vào đó, họ đã gợi ý những sửa đổi nhỏ cho chính sách được đề xuất trên cơ sở của quan điểm chung của họ (xem “Những căng thẳng và xu thế” ở phần bên dưới).
Phần 3: Dàn xếp quốc tế
Hầu hết những người trả lời cho tư vấn công khai đã không thấy bất kỳ tính tương hợp nào giữa chính sách được đề xuất và pháp luật, các qui định hoặc chính sách của châu Âu, bao gồm cả Khung Tương hợp châu Âu (EIF) phiên bản v2.0 và tin tưởng rằng chính sách này sẽ có lợi cho đổi mới và sự cạnh tranh ở mức châu Âu, cho cả các doanh nghiệp của Vương quốc Anh và châu Âu.
Những căng thẳng và xu thế
Từ tất cả các câu trả lời cho tư vấn này, bao gồm cả các gợi ý cho những lựa chọn chính sách thay thế đã được nêu lên ở cuối của từng phần, và những đề xuất khác (như các thư tay, các thảo luận bàn tròn), 2 quan điểm chính nổi lên, chúng hầu như là trọng tâm về một vấn đề cơ bản: sự triển khai các quyền sở hữu trí tuệ trong chính sách này. Đây là lý do chính cho sự chia rẽ những người trả lời tư vấn và nó thấm vào toàn bộ tư vấn.
Trong Phần 1, sự tương phản chính được thấy trong phần định nghĩa các tiêu chuẩn mở, nhắc tới các bằng sáng chế, các giấy phép và hứa hẹn về sự không đòi quyền lợi. Một nhóm những người trả lời, bao gồm hầu hết các nhà cung cấp hiện nay của Chính phủ, không thỏa mãn với tham chiếu tới tính sẵn sàng ở “chi phí thấp hoặc bằng 0”, và việc cấp phép “tự do về phí bản quyền” của các tiêu chuẩn mang theo các bằng sáng chế. Họ nói các tiêu chuẩn công bằng, hợp lý và không phân biệt đối xử - FRAND được triển khai cả với tự do về phí bản quyềnmang theo phí bản quyền ở mức quốc gia và quốc tế, tuân theo với pháp luật của Liên minh châu Âu (EU). Họ khăng khăng về một sửa đổi cho phần này của định nghĩa. Nhóm khác những người trả lời, chủ yếu là các cá nhân và các SME, không được thỏa mãn tương tự với phần này của chính sách được đề xuất, nhưng vì những lý do khác. Họ tin tưởng rằng các giấy phép FRAND không đảm bảo rằng các điều kiện tự do về phí bản quyền được truyền tới những người chủ sở hữu tiếp sau của giấy phép, như các giấy phép nguồn mở (PMNM) làm. Các giấy phép FRAND, dù tự do về phí bản quyền, là không tương thích với PMNM, và vì thế bị kêu là sẽ loại trừ tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ triển khai dạng giải pháp này khỏi thị trường (như, sự cho phép các tiêu chuẩn FRAND sẽ không phải là một sân chơi bình đẳng).
Trong Phần 2, sự chia rẽ y hệt xuất hiện. Theo nhóm thứ nhất, trong khi bắt buộc các tiêu chuẩn mở, thì Chính phủ nên cho phép các nhà cung cấp tự do phác thảo các giấy phép FRAND của họ, bằng việc đưa vào các điều kiện hoặc tự do về phí bản quyền hoặc mang theo phí bản quyền. Ngược lại, nhóm thứ 2 có quan điểm về triển khai các tiêu chuẩn mở tương thích với PMNM, và vì thế không có FRAND, trừ phi FRAND là bắt buộc phải tuân thủ với các giấy phép của phần mềm tự do nguồn mở (PMTDNM).
Trong Phần 3, nhóm đầu tiên bảo vệ rằng chính sách này là không tương thích với EIF v2.0 và pháp luật khác của EU và quốc tế, vì nó không để cho các nhà cung cấp tự do triển khai FRAND mang theo phí bản quyền, điều được EIF v2.0 thừa nhận; trong khi nhóm thứ 2 nói rằng các điều khoản của chỉ thị này không tác động lên pháp luật mua sắm công của các quốc gia thành viên. Vì thế, EIF v2.0 là hoàn toàn tương thích với chính sách này.
Vì thế dường như là trong khi đa số những người trả lời nói chung là tích cực về chính sách được đề xuất, và chào đón sáng kiến của Chính phủ bắt buộc về các tiêu chuẩn mở trong mua sắm CNTT của Chính phủ, thì vấn đề gai góc về các giấy phép FRAND và tính tương thích của chúng với các mô hình kinh doanh nhất định, vẫn chưa giải quyết được.
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chính sách bắt buộc các tiêu chuẩn mở, có hiệu lực từ 01/11/2012, của Chính phủ Anh có nhiều điều để các bên liên quan của Việt Nam học hỏi, như các cơ quan có trách nhiệm ra chính sách của nhà nước, các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia, các hiệp hội ngành nghề CNTT và đặc biệt là các doanh nghiệp CNTT Việt Nam.
Một vấn đề lớn được đặt ra tại Việt Nam là nhu cầu tri thức về các quyền sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế phần mềm, các cách thức cấp phép trong các tiêu chuẩn và/hoặc giao diện phần mềm vì chúng có ảnh hưởng trực tiếp tới việc tham gia thị trường và một sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, đặc biệt khi hầu hết các doanh nghiệp CNTT Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bỏ qua những điều này, các doanh nghiệp CNTT vừa và nhỏ của Việt Nam có thể sẽ tự đánh mất sân chơi của mình bất kỳ lúc nào mà không hề hay biết. Điều đáng tiếc, cho tới lúc này, các vấn đề được nêu ở trên có lẽ còn rất xa lạ với hầu hết tất cả các doanh nghiệp CNTT Việt Nam.
Một điều rất quan trọng được rút ra cho các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ xung quanh các PMTDNM, là các giấy phép FRAND hiện nay là không tương thích với các giấy phép của PMTDNM. Hay nói một cách khác, chỉ có các giấy phép RF mới chắc chắn tương thích với các giấy phép của PMTDNM. Chính sách mới bắt buộc các tiêu chuẩn mở của Chính phủ Anh, may thay, là theo cách này.
Trần Lê
Dựa theo: “Phân tích tư vấn công khai về các tiêu chuẩn mở: các cơ hội mở”.
Bài đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 1+2 năm 2013, trang 82-85.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.