(Bài
viết được đăng trên tạp chí Tia Sáng, bản điện tử
trên trực tuyến xuất bản ngày 14/04/2018 tại địa chỉ:
Lê
Trung Nghĩa
Hơn
4 năm đã trôi qua kể từ ngày Nghị quyết số 29-NQ-TW
được ban hành về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
với quan điểm chỉ đạo là “đổi mới hệ thống giáo
dục theo hướng mở”... tuy nhiên chúng ta vẫn chưa hiểu
rõ về hệ thống giáo dục mở và quá trình thúc đẩy
tài nguyên giáo dục mở (TNGDM). Bài viết này nhận diện
các thách thức đó và đề xuất giải pháp để thúc đẩy
TNGDM ở Việt Nam.
Giáo
dục mở là gì?
Trên
thế giới, đang phổ biến các định nghĩa về giáo dục
mở của Bộ Giáo dục Mỹ, SPARC - liên minh toàn cầu cam
kết làm cho Mở thành mặc định cho nghiên cứu và giáo
dục và Opensource.com - trang xuất bản các câu chuyện về
việc áp dụng và chia sẻ giải pháp nguồnmở. Tựu trung, họ đều cho rằng giáo dục mở là việc
loại bỏ các rào cản tài chính, pháp lý và kỹ thuật
để truy cập được tới các tài nguyên giáo dục, các
tài nguyên phục vụ cho việc dạy, việc học và việc
nghiên cứu, và rộng lớn hơn là để truy cập tới được
tri thức của nhân loại. Bằng việc loại bỏ các
rào cản truy cập tới tri thức đó, cơ hội được giáo
dục sẽ là sẵn sàng cho tất cả những người học, bất
kể họ là ai, bất kể tình trạng kinh tế của họ ra
sao. Vì vậy, hệ thống giáo dục mở, từ quan điểm của
thế giới nguồn mở, chính là hệ thống giáo dục không
có các rào cản được nêu ở trên.
TNGDM
(OER - Open Educational Resources) là phong trào toàn cầu khởi
đầu vào năm 2001 khi Viện Công nghệ Massachusetts ở Mỹ
đã đưa ra chương trình OpenCourseWare (Khóa học Mở) với
vài chục khóa học trực tuyến và năm 2002 UNESCO đưa rakhái niệm TNGDM
“là
bất kỳ dạng tư liệu giáo dục nào nằm trong phạm vi
công cộng hoặc được cấp một giấy phép mở. Các tư
liệu mở đó ngụ ý bất kỳ ai cũng có thể hợp pháp
và tự do sao chép, sử dụng, tùy biến thích nghi và sử
dụng lại chúng. TNGDM gồm nhiều loại từ
sách giáo khoa (SGK) đến chương
trình đào tạo, đề cương môn học, bài giảng, bài tập,
bài kiểm tra, báo cáo, âm thanh, hình ảnh và hoạt hình”.
Rất
cần phải thúc đẩy giáo dục mở ở Việt Nam, bởi chỉ
giáo dục mở mới đảm bảo được cho từng công dân
Việt Nam có khả năng có được tri thức nhân loại lớn
nhất với chi phí nhỏ nhất và với số lượng người
được tiếp cận các tri thức lớn nhất và là cách
nhanh nhất để có được các kỹ năng cần thiết để
sống, làm việc và học tập trong kỷ nguyên số - kỷ
nguyên tri thức.
Những
rào cản với TNGDM Việt Nam
Chưa
thay đổi nhận thức về TNGDM
Cả
các khóa học mở và TNGDM đều đã tới Việt Nam từ khá
sớm, từ khoảng những năm 2005, mặc dù vậy, cho tới
nay, TNGDM hầu như không phát triển ở Việt Nam, trong tất
cả các cơ sở giáo dục ở mọi cấp trong toàn quốc, cả
khu vực tư nhân và nhà nước.
Đầu
tiên, hai dự án về OpenCourseWare và TNGDM đã vào Việt
Nam từ năm 2005, nhưng hai tác nhân quan trọng nhất là Hội
Thư viện Việt Nam (nơi tập trung hầu hết các thư viện
các trường đại học trong cả nước) và VFOSSA (nơi tập
trung nhiều công ty cung cấp các giải pháp/sản phẩm/dịch
vụ dựa vào phần mềm tự do nguồn mở) đều chưa từng
bao giờ biết tới 2 dự án này.
Phải
tới 2015, 2 tác nhân này, đặc biệt là khối thư viện
mới có những hoạt động về TNGDM tích cực hơn, điển
hình là các Hội thảo quốc tế về TNGDM trong 3 năm liền
với sự tham gia và cả tài trợ (các năm 2016-2017) của
UNESCO và một vài đối tác nước ngoài khác; bên cạnh
đó khối thư viện còn có các hoạt động nâng cao nhận
thức sơ bộ ban đầu về TNGDM thông qua các cuộc hội
thảo, các khóa huấn luyện ngắn ngày. Tuy nhiên, việc
thực hiện TNGDM ở các thư viện, các trường đại học
vẫn còn rất nhiều hạn chế, theo kết quả một báo cáomới đây do Khoa Thông tin – Thư viện, Trường ĐH
KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội thực hiện dưới sự tài trợ
của Văn phòng UNESCO. Cụ thể:
-
Xu
thế sử dụng tài liệu số đang gia tăng. Giảng viên và
sinh viên đã coi các nguồn học liệu số là kênh khai
thác thông tin thuận tiện và hữu hiệu. Có thể coi đây
là “văn hóa số” – điều kiện thuận lợi để phát
triển TNGDM. Tuy nhiên, việc sử dụng TNGDM ở các trường
đại học chưa phổ biến. Phần lớn chỉ khai thác các
nguồn thông tin miễn phí trên mạng, rất ít các trường
đại học triển khai TNGDM trong đơn vị mình, hầu hết
giảng viên cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các
nguồn học liệu miễn phí, chưa ý thức được việc
tạo lập và chia sẻ TNGDM.
-
Các
trường đại học đã có những nhận thức và hiểu
biết cơ bản TNGDM. Tuy nhiên việc thực thi bản quyền
tại các trường đại học chưa được coi trọng, thư
viện đặt kế hoạch số hóa tài liệu nhưng chưa quan
tâm nhiều đến vấn đề bản quyền. Bên cạnh đó hiểu
biết của họ về giấy phép mở (creative commons) chưa
đầy đủ.
-
Chưa
tin tưởng về lợi ích và giá trị mà TNGDM mang lại. Do
TNGDM là một nguồn học liệu mới, chưa phổ biến và
có cách tiến cận hoàn toàn khác so với việc phải bỏ
tiền mua các tài liệu do các nhà xuất bản phát hành.
Nhiều người nghi ngờ, liệu chất lượng TNGDM có thực
sự tốt và nguồn tài nguyên này có làm thay đổi cách
chúng ta tiếp cận tri thức cũng như hỗ trợ nâng cao
chất lượng đào tạo hay không.
Báo
cáo cũng khảo sát về nguồn nhân lực chuẩn bị cho sự
phát triển của TNGDM, gồm giảng viên, nhân viên thư viện
và sinh viên. Trong đó, đa phần giảng viên cho rằng sự
thiếu nhận thức về TNGDM là nguyên nhân chủ yếu nhất
cản trở việc tạo lập và phát triển TNGDM ... Có thể
nói, TNGDM vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam
hiện nay, và việc truyền thông, đào tạo bồi dưỡng để
nâng cao nhận thức về vấn đề này sẽ trở thành chìa
khóa cho việc triển khai phát triển TNGDM tại Việt Nam.
Đối với các cán bộ thư viện, cản trở lớn nhất
là thiếu kinh phí, sau đó là các rào cản về pháp lý,
quyền sở hữu, bản quyền trong phát triển TNGDM... Đây
cũng là hai lo ngại xuất phát từ chính bản chất công
việc của cán bộ thư viện, vốn dĩ cũng là hai vấn đề
lớn của ngành thư viện Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay. Đối với các sinh viên, trở ngại lớn nhất
là rào cản ngoại ngữ để tiếp cận với TNGDM tiếng
nước ngoài, tiếp sau là thiếu kiến thức và kỹ năng
tìm kiếm và hiểu biết về nguồn thông tin.
Dự
án triển khai TNGDM nhưng không có bất kỳ hoạt động
nào mở
Ở
quy mô cấp quốc gia, trong thực tế, đã có dự án xây
dựng kho tài nguyên giáo dục mở sử dụng nguồn ngân
sách nhà nước được viết ra. Tuy nhiên, vì nhiều lý do
khác nhau, nó không có bất kỳ hoạt động dự án nào
tuân theo các nguyên tắc phát triển của nguồn mở vàTNGDM, cả về tính mở, mô hình phát triển, mô hình cấp
phép và mô hình kinh doanh để đảm bảo tính bền vững
của dự án sau khi thời hạn cấp vốn nhà nước kết
thúc. Điều này cho thấy thách thức lớn từ quản lý,
khi mà nhận thức chung về TNGDM và/hoặc nguồn mở của
cả xã hội còn rất thấp, kể cả trong các doanh nghiệp
CNTT và có lẽ, đa số các nhà quản lý - các nhà cấp
vốn có liên quan.
Giải
pháp thúc đẩy TNGDM ở Việt Nam
Không
có cách nào khác để thúc đẩy TNGDM ở Việt Nam ngoài
cách thông qua các hoạt động giáo dục và truyền thông
để vừa nâng cao nhận thức toàn xã hội, vừa huấn
luyện đào tạo năng lực và các kỹ năng ứng dụng và
phát triển TNGDM, bên cạnh các hoạt động hỗ trợ khác.
Dưới đây là một vài gợi ý để thúc đẩy ứng dụng
và phát triển TNGDM.
Thành
lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về TNGDM
Cần
thiết phải thành lập ban chỉ đạo quốc gia về TNGDM,
bởi vì TNGDM (hoặc Giáo dục Mở, Khoa học Mở) không chỉ
là vấn đề của riêng ngành giáo dục, mà có liên quan
chặt chẽ với giới khoa học, các nhà nghiên cứu, các
nhà cấp vốn nghiên cứu, giới công nghệ thông tin, giới
thư viện, các vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ,
tiêu chuẩn, các nhà xuất bản…, trong khi các vấn đề
này ở Việt Nam không chỉ do Bộ Giáo dục Đào tạo quản
lý, mà còn liên quan tới các bộ khác như Bộ Khoa học
và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa
Thể thao Du lịch.
Bên
cạnh đó, TNGDM còn có liên quan chặt chẽ với các thành
phần khác của Khoa học Mở như truy cập mở tới các
xuất bản phẩm, dữ liệu nghiên cứu
mở, rà soát lại ngang hàng mở (open peer review), tạp
chí truy cập mở, nhà xuất bản truy cập mở, các kho
truy cập mở, những vấn đề chắc chắn Việt Nam cũng
sẽ không thể bỏ qua trong xu thế phát triển Khoa học Mở
của thế giới, và chúng sẽ liên quan tới nhiều bộ
ngành hơn nữa, chứ không chỉ như được nêu ở trên.
Ví dụ, việc ứng dụng và phát triển dữ liệu mở chắc
chắn sẽ liên quan tới không chỉ các văn bản quy phạm
pháp luật về dữ liệu mở, mà còn cả về đảm bảo
an toàn và tính riêng tư các thông tin - dữ liệu cá nhân
và dữ liệu bí mật quốc gia, cũng như các vấn đề về
tính liên ngành - liên lĩnh vực của dữ liệu mở và/hoặc
dữ liệu nghiên cứu mở.
Xây
dựng chính sách truy cập mở
TNGDM
trước hết là tài nguyên truy cập mở được. Vì vậy
việc xây dựng chính sách truy cập mở là điều kiện
cần thiết để phát triển TNGDM. Không có chính
sách truy cập mở ở các cấp quốc gia/bộ/địa
phương/cơ sở thì không cơ sở nào, đặc biệt là các
cơ sở giáo dục công lập, có khả năng triển khai các
hoạt động ứng dụng và phát triển TNGDM được.
Để
xây dựng chính sách truy cập mở, đặc biệt là ở mức
quốc gia, một lần nữa, cần có sự tham gia của nhiều
bên như các cơ quan quản lý nghiên cứu, các cơ quan cấp
vốn nghiên cứu, các trường đại học, các nhà xuất
bản, các thư viện của các trường đại học và viện
nghiên cứu để thảo luận về hiện trạng hệ thống
truyền thông nghiên cứu ở Việt Nam và cách thức để
dịch chuyển hệ thống đó sang tiếp cận truy cập mở
sao cho lợi ích của từng bên có thể là hài hòa ở mức
tất cả các bên đều có thể chấp nhận được.
Nếu
Việt Nam, vì bất kỳ lý do gì, không thể xây dựng
được chính sách truy cập mở ở các mức như được
nêu ở trên, đặc biệt ở mức quốc gia, thì nhiều khả
năng sẽ không thể thúc đẩy ứng dụng và phát triển
TNGDM và cùng với nó, cả dữ liệu mở và khoa học mở.
Cách
tiếp cận từ dưới lên
Hình
1. Lược đồ tạo và chia sẻ video truy cập mở
Sáng
kiến này có khả năng khắc phục được các khó khăn ở
trên, vừa tuân thủ các nguyên tắc của nguồn mở và
tận dụng được các kho tài nguyên truy cập mở khổng
lồ miễn phí trên thế giới, đồng thời, trong giai đoạn
đầu, giúp cho các cán bộ thư viện, các thủ thư, các
giảng viên tham gia phát triển - tạo lập các tài nguyên
truy cập mở hoàn toàn sạch về bản quyền và sở hữu
trí tuệ, nhằm từng bước xây dựng kho các tài nguyên
truy cập mở và TNGDM. Cách làm này rất cần thiết trong
giai đoạn thí điểm trong điều kiện kinh phí hết sức
hạn hẹp hiện nay.
Trong
quá trình triển khai thí điểm ở các đơn vị được
chọn, sẽ tiến hành các khóa huấn luyện huấn luyện
viên về các vấn đề liên quan tới ứng dụng và phát
triển TNGDM, cả lý thuyết và thực hành, để tạo ra các
đội xung kích cho giai đoạn mở rộng tiếp sau. Kết thúc
giai đoạn thí điểm sẽ có báo cáo tổng kết, rút kinh
nghiệm và nhân rộng các thực hành tốt nhất cho các
giai đoạn tiếp sau.
Truyền
thông, nâng cao nhận thức xã hội
Tthật
khó để làm việc gì đó ở phạm vi rộng như TNGDM mà
lại không có các hoạt động truyền thông của báo đài,
các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội đi
kèm để tạo ra các thảo luận trao đổi, các phản hồi
từ các cộng đồng để nâng cao nhận thức và tiến tới
sự đồng thuận của xã hội. Các hoạt động truyền
thông này cần được nhúng vào nội dung của các dự án
thí điểm như được nêu ở trên.
Kết
luận
Bất
kỳ sự chuyển đổi nào từ ĐÓNG sang MỞ đều sẽ gặp
vô số các trở ngại khó khăn ở Việt Nam, và con đường
để hướng tới việc ứng dụng và phát triển TNGDM cũng
vậy. Cách để thúc đẩy TNGDM vì thế cần làm từng
bước một, chắc chắn, theo đúng các chuẩn mực quốc
tế và quan trọng nhất, có sự ủng hộ từ những người
đứng đầu ở tất cả mọi cấp, bao gồm cả cấp cao
nhất của chính phủ, bằng các chính sách truy cập
mở/TNGDM cụ thể, quyết liệt và thiết thực, cùng với
sự đồng thuận của cả xã hội, thông qua các con đường
giáo dục và truyền thông.
Trên
con đường đó, cần có giai đoạn 2-3 năm triển khai thí
điểm trong thực tế theo tiếp cận từ dưới lên để
nhận diện ra được tất cả các thách thức và có được
các bài học thực tế với chi phí thấp nhất có thể,
đồng thời xây dựng ra được các nhóm hạt nhân nòng
cốt để phục vụ cho việc nhân rộng các thực hành tốt
ở các giai đoạn sau.
Các
đối tượng chính cần được chọn trong giai đoạn thí
điểm nên là các cán bộ thư viện, các thủ thư và các
giảng viên/các nhà nghiên cứu với sự trợ giúp của bộ
phận công nghệ thông tin ở một số trường đại học
nghiên cứu/cao đẳng thực hành được chọn có đủ năng
lực triển khai thí điểm TNGDM trải khắp cả nước, cả
khu vực nhà nước và tư nhân, đặc biệt trong khối sư
phạm (vì khối này được ví như những chiếc máy cái
tạo ra những chiếc máy con cho xã hội).
Thí
điểm và mở rộng ứng dụng và phát triển TNGDM thành
công, sẽ là tiền đề cần thiết và quan trọng để ứng
dụng và phát triển dữ liệu mở và khoa học mở trong
tương lai ở Việt Nam.