Thứ Ba, 2 tháng 2, 2010

Trường học ở New Zealand bỏ Microsoft và đi hoàn toàn với nguồn mở

NZ school ditches Microsoft and goes totally open source

Một trường phổ thông trung học của New Zealand chạy hoàn toàn trên các phần mềm nguồn mở đã cắt bớt được các yêu cầu về máy chủ của mình với một con số gần 50 chiếc, dù một vụ làm ăn của chính phủ bắt phải sử dụng các phần mềm của Microsoft trong tất cả các trường học.

A New Zealand high school running entirely on open source software has slashed its server requirements by a factor of almost 50, despite a government deal mandating the use of Microsoft software in all schools.

Angus Kidman 25 January, 2010 06:03:00

Theo: http://www.cio.com.au/article/333686/nz_school_ditches_microsoft_goes_totally_open_source

Bài được đưa lên Internet ngày: 25/01/2010

Một trường phổ thông trung học của New Zealand chạy hoàn toàn trên các phần mềm nguồn mở đã cắt bớt được các yêu cầu về máy chủ của mình với một số gần 50 chiếc, dù một vụ làm ăn của chính phủ bắt phải sử dụng các phần mềm của Microsoft trong tất cả các trường học.

Albany Senior High School ở ngoại ô phía bắc của Auckand đã và đang chạy một hạ tầng hoàn toàn nguồn mở kể từ khi nó được mở vào năm 2009. Trường có 230 học sinh này đã được thiết lập để tuân theo các nguyên tắc học tập mở, đưa ra những lĩnh vực “học cộng đồng” rộng lớn nơi mà nhiều lớp học tương tác với nhau hơn là các lớp học theo truyền thống và bố trí mỗi tuần một ngày cho các học sinh làm việc với các dự án tự nghiên cứu.

Tiếp cận của trường này cũng được phản ánh trong hạ tầng IT của trường. Hiệu phó Mark Osborne đã được xác định để sử dụng các phần mềm nguồn mở khắp trường, ngay cả dù việc lên kế hoạch cho quá trình này đã bắt đầu ít hơn 2 tháng trước khi trường được mở.

Bỏ Microsoft là rất không bình thường trong khu vực giáo dục của New Zealand, khi mà hợp đồng lâu năm với chính phủ quốc gia đồng nghĩa việc người khổng lồ phần mềm này được trả tiền cho công nghệ đối với trường học ngay cả khi không phần mềm nào được sử dụng. Sự áp đảo của Microsoft cũng có nghĩa rằng hầu hết các tài liệu cho giáo dục coi như là một hạ tầng của Microsoft.

“Không gian giáo dục là tập trung vào Microsoft và được bao cấp nặng nề bởi chính phủ”, Patrick Brennan, kỹ sư trưởng từ các Chuyên gia Hệ thống Mở, mà dẫn dắt dự án IT này tại trường, trong một trình bày trên Linux.conf.au tại Welling ton, nói: “Mỗi kế hoạch tham chiếu đều dựa vào công nghệ của Microsoft”. Khung thời gian chặt chẽ – 2 tuần cho việc đánh giá, 1 tuần cho việc thiết kế và 2 tuần cho việc triển khai - không tạo ra nhiều sự phá vỡ, Brennan nói. “Dù mọi thứ đã không được trôi trảy như nó có thể, khi nhà trường đã mở tất cả các chức năng cốt lõi ở đó. Và nó đã được chạy một năm nay mà không có sự can thiệp đáng kể nào. Nó thực sự không phải động tới theo cách cơ bản nào kể từ đó”.

A New Zealand high school running entirely on open source software has slashed its server requirements by a factor of almost 50, despite a government deal mandating the use of Microsoft software in all schools.

Albany Senior High School in the northern suburbs of Auckland has been running an entirely open source infrastructure since it opened in 2009. The 230-pupil school was set up to follow open learning principles, offering large "learning commons" areas where multiple classes interact rather than conventional classrooms and setting aside one day each week for pupils to work on self-driven research projects.

Albany SHS' unorthodox approach is also reflected in its IT infrastructure. Deputy principal Mark Osborne was determined to use open source software throughout the school, even though planning for that process began less than two months before the school opened.

Ditching Microsoft is highly unusual within the NZ education sector, as a long-standing contract with the national government means the software giant is paid for technology for the school even though none has been used. Microsoft's dominance also means that most planning documents for education presume an Microsoft infrastructure.

"The education space is Microsoft-focused and heavily subsidised by government," said Patrick Brennan, lead engineer from Open Systems Specialists, which led the IT project at the school, during a presentation at Linux.conf.au in Wellington. "Every reference plan is based on Microsoft technology."

The tight time frame -- two weeks for evaluation, one week for design and two weeks for implementation -- didn't create too much disruption, Brennan said. "Although everything wasn't as polished as it could have been, when the school opened all of the core functionality was there. And it's been running for a year with no significant intervention. It hasn't really been touched in any fundamental way since then."

Việc triển khai sử dụng Ubuntu trên máy tính để bàn và Mandriva cho 4 máy chủ chính (một tường lửa, một lưu trữ và 2 siêu giám sát KVM). Mandriva đã được chọn vì sử dễ dàng sử dụng Máy chủ Thư mục của Mandriva để quản lý thư mục LDAP của trường, nhưng Brennan nói các hệ điều hành của cả máy tính để bàn và máy chủ đều có thể dễ dàng thay thế được.

Mạng không bị hạn chế chỉ đối với các máy tính để bàn Linux. “Chúng tôi muốn các học sinh có khả năng mang các thiết bị tới, bất kể là thứ gì, và kết nối chúng vào mạng và mong đợi chúng làm việc và sử dụng nó như một công cụ học tập”, Brennan nói. Phần cứng trải từ PSP tới Mác đã được kết nối, với một tiếp cận “mạng địch thủ” được sử dụng để đảm bảo an ninh. NFSv4 được sử dụng để kết nối những người sử dụng vào hệ thống, cho phép họ truy cập từ xa vào thư mục gốc của họ trên máy chủ thông qua Kerberos.

Các ứng dụng được sử dụng bên trong trường học này gồm OpenOffice, Google Docs, Moodle cho việc quản lý nội dung giáo dục, và Mahara cho hồ sơ của học sinh. Phần mềm Koha được sử dụng cho thư viện của trường cũng được tùy biến để tích hợp chặt chẽ hơn với hệ thống an ninh LDAP và để cho phép các khuyến cáo về sách. Trong khi Koha đã được trả tiền để tiến hành làm các thay đổi này, thì mã nguồn kết quả sẽ là sẵn sàng một cách tự do cho tất cả các trường học của New Zealand - một tiếp cận mà Brennan đã đối nghịch với các phần mềm của Microsoft, nơi mà những sửa đổi thường phải trả tiền tách biệt cho từng trường.

Dù chỉ sử dụng Windows trên một vùng ảo cho các phần mềm quản lý học sinh, mà nó chỉ sẵn sàng trên nền tảng đó, thì trường cũng không không có được bất kỳ tín dụng nào cho việc giảm chi phí. “Sự chói sáng của mô hình kinh doanh của Microsoft là họ lấy cùng một số tiền bất kể ai sử dụng nó”, Osborne nói. Tuy nhiên, trường này đã tiết kiệm được đáng kể trong các lĩnh vực, như không cần các bộ định tuyến đặc biệt để quản lý các kết nối tới hệ thống Watchdog được sử dụng để lọc các kết nối Internet của trường.

The implementation uses Ubuntu on the desktop and Mandriva for four key servers (one firewall, one storage and two KVM hypervisors). Mandriva was selected because of the ease of using Mandriva Directory Server to manage the school's LDAP directory, but Brennan said either desktop or server OS could easily be replaced.

The network is not restricted solely to Linux desktops. "We wanted students to be able to bring devices in, whatever they were, and connect them to the network and expect them to work and use it as a learning tool," Brennan said. Hardware ranging from PSPs to Macs has been connected, with a "hostile network" approach used to ensure security. NFSv4 is used to connect users into the system, allowing them to remotely mount into their home directory on the server via Kerberos.

Applications used within the school include OpenOffice, Google Docs, Moodle for managing education content, and Mahara for student portfolios. The Koha software used by the school library was also customised to integrate more closely with the LDAP security system and to allow book recommendations. While Koha was paid to make those changes, the resulting code will be freely available to all New Zealand schools -- an approach Brennan contrasted with Windows software, where modifications are typically charged separately for each school.

Despite only using Windows on a virtualised session for student management software, which is only available on that platform, the school doesn't get any credit for the reduced spending. "The brilliance of Microsoft's business model is they get the same amount of money regardless of who uses it," Osborne said. However, the school has saved significantly in other areas, such as not needing specialised routers to handle connections to the Watchdog system used to filter school internet connections.

Trong năm 2010, Albany SHS sẽ chuyển sang những tòa nhà mới xây có mục đích, bao gồm một phòng máy chủ chuyên dụng. Brennan đã lưu ý rằng các kiến trúc sư đã thiết kế không gian dựa trên các yêu cầu trường học tiêu chuẩn của New Zealand, bao gồm 4 giá mỗi giá có khả năng chứa được 48 máy chủ cho các hệ thống chính của trường. Hạ tầng chính này chỉ yêu cầu có 4 máy chủ, coi như tiết kiệm gần như 50 lần về các yêu cầu phần cứng.

Dù sự áp đảo của Windows, các giáo viên và học sinh đã chấp nhận rộng rãi để sử dụng các phần mềm này, Brennan nói. Nơi chủ yếu phản đối việc sử dụng này là các gói đặc biệt. “Có một sự thừa nhận rằng các học sinh phỉa đào tào với các sản phẩm thực sự của thế giới”, Brennan nói, nhưng điều đó được đánh giá cao bởi những ưu điểm của việc có khả năng đưa ra cho mỗi học sinh sự truy cập tới bất kỳ phần mềm nào mà họ cần, hơn là việc phải hạn chế sử dụng vì những giấy phép hạn chế, đặc biệt trong những lĩnh vực đặc thù như âm nhạc.

“Tôi thích mỗi trường tại đất nước này sẽ là tự do và mở”, Osborne nói. “Có nhiều cản trở đối với điều đó, nhưng chắc chắn có những trường học hiện hành mà chúng đang bắt đầu quá trình chuyển sang một thiết lập mở. Chúng tôi đã chỉ ra rằng điều đó là có thể”.

In 2010, Albany SHS will move into new purpose-built premises, which include a dedicated server room. Brennan noted that the architects designed the space based on standard New Zealand school requirements, including four racks each capable of holding 48 servers for its main systems. The main infrastructure only requires four servers, suggesting an almost 50-fold saving on hardware requirements.

Despite the dominance of Windows, teachers and students were largely receptive to using the software, Brennan said. The main area of objection was over the use of particular packages. "There's a perception that students should train with real-world products," Brennan said, but that was outweighed by the advantages of being able to give every student access to any software they needed, rather than having to restrict use because of limited licences, especially in specialist areas such as music.

"I would love for every school in the country to be free and open," Osborne said. "There's a lot of barriers to that, but there are definitely existing schools that are beginning the process of moving to having an open setup. We've shown that it's possible. "

Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.