Bài
viết cho Hội thảo ‘Tối ưu hóa quản trị tri thức số:
chính phủ – doanh nghiệp – thư viện’ do Trung tâm
Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU –
LIC) kết hợp với Liên Chi hội Thư viện Đại học Khu
vực phía Bắc (NALA); Liên Chi hội Thư viện Đại học
phía Nam (VILASAL) và Thư viện trường Đại học Nha Trang
(NTU) tổ chức ở Nha Trang 25-26/7/2019.
Bài
đăng trên kỷ yếu hội thảo các trang 596-609
----------------------------------------------------------------------------------------
Tóm
tắt: Truy cập Mở đầy đủ và tức thì tới các
xuất bản phẩm và dữ liệu nghiên cứu ở Liên minh châu
Âu (EU) là một con đường dài nhiều năm với vài mô
hình thí điểm ở các giai đoạn thời gian khác nhau và
với các chính sách tương ứng của EU/Ủy ban châu Âu
(EC) cho từng giai đoạn đó. Việt Nam có thể học được
gì từ cách tiếp cận của EU/EC về Truy cập Mở vì lợi
ích phát triển của mình.
----------------------------------------------------------------------------------------
1.
Đặt vấn đề
Tháng
9/2018, một nhóm các nhà cấp vốn nghiên cứu quốc gia và
châu Âu, gọi là Liên minh S (cOAlition S) đã đưa ra thông
báo về: Kế hoạch S - Tăng tốc chuyển đổi quá độ
sang Truy cập Mở đầy đủ và tức thì tới các xuất
bản phẩm khoa học[1], với nguyên tắc chính là như sau:
“Sau
ngày 01/01/2020 các xuất bản phẩm khoa học là kết quả
từ các trợ cấp nghiên cứu được nhà nước cấp vốn
do các hội đồng và các cơ quan cấp vốn nghiên cứu
quốc gia và châu Âu cung cấp, phải được xuất bản
trên các Tạp chí tuân thủ Truy cập Mở hoặc trên các
Nền tảng tuân thủ Truy cập Mở”.
Được
biết, sau một giai đoạn lấy ý kiến góp ý công khai
trên mạng, thời hạn đã được lùi 1 năm sang sau ngày
01/01/2021[2], trùng với thời điểm bắt đầu chương
trình mới về nghiên cứu và cách tân của Ủy ban châu
Âu, chương trình Horizon Europe[3], giai đoạn 2021 – 2027.
Trước
khi đi vào chi tiết các bước đi của Ủy ban châu Âu
trên con đường dài hướng tới Kế hoạch S này, dưới
đây sẽ nêu lại khái niệm Truy cập Mở và vài thông
tin có liên quan.
2.
Khái niệm Truy cập Mở
Định
nghĩa truy cập mở của UNESCO[4] là như sau:
“Với
“truy cập mở” tới tài liệu, chúng
tôi ngụ ý sự sẵn sàng tự do của nó
trên Internet công cộng, cho phép bất kỳ ai
đọc, tải về, phân phối, in, tìm kiếm, hoặc
liên kết tới các văn bản toàn văn của tài liệu đó,
khai thác sâu chúng để đánh chỉ mục, truyền chúng như
dữ liệu tới các phần mềm, hoặc sử dụng chúng vì
bất kỳ mục đích hợp pháp nào khác, không có các rào
cản về tài chính, pháp lý, hoặc kỹ thuật khác với
các rào cản không thể tách rời khỏi việc giành được
sự truy cập tới bản thân Internet.”
Điều
kiện tiên quyết để
một tài liệu trở thành mở là nó phải được cấp
phép mở, vì việc cấp phép mở cho tài liệu sẽ làm cho
nó trở nên hợp pháp khi được chia sẻ rộng rãi ở
dạng số trên Internet.
Bằng cách đó, tài liệu
được cấp phép mở và ở dạng số đó mới có khả
năng để được bất kỳ ai chia sẻ và sử dụng lại
một cách hợp pháp qua Internet.
Hệ
thống cấp phép mở phổ biến nhất trên thế giới hiện
nay là Creative Commons, viết tắt là CC. Việc cấp phép mở
bằng CC, như trên Hình 1, chia tài liệu mở thành
các dạng khác nhau: (1) tài nguyên truy cập mở; (2) tài
nguyên giáo dục mở; và (3) dữ liệu mở; và từng trong
số 3 loại tài liệu mở đó đều có những định nghĩa
riêng của nó.
Lưu
ý: Có định nghĩa tài liệu “MỞ” còn khắt khe hơn
rất nhiều so với định nghĩa ở trên, như định nghĩa
của Open Definition[5], nó nêu như sau:
“Mở
ngụ ý bất kỳ ai cũng có thể tự do truy cập, sử dụng,
sửa đổi, và chia sẻ vì bất kỳ mục đích gì (tuân
thủ, nhiều nhất, các yêu cầu giữ lại nguồn gốc và
tính mở”.
Theo
định nghĩa này, một tài liệu MỞ là tương ứng với
tài liệu dạng dữ liệu mở trên Hình 1.
Ngày
nay, các tài liệu mở hay các tài liệu được cấp phép
mở có thể
là các tài liệu với các dạng nội dung đa đạng khác
nhau như: (1) văn bản; (2) hình ảnh; (3) âm thanh; (4) video
- đa phương tiện; (5) dữ liệu; và cả (6) phần mềm (dù
tài liệu văn bản phần mềm thường được cấp phép mở
với các giấy phép khác với của CC). Tất cả các dạng
nội dung này, đều là các đối tượng quản lý của các
thư viện, đặc biệt là các thư viện số, trong kỷ
nguyên số ngày nay.
Hình
1. Phân loại các tài liệu mở theo hệ thống cấp
phép mở Creative Commons[6]
Còn
dưới đây là quan
điểm của Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội và Cơ sở
Thư viện[7]
- IFLA (International Federation of Library Associations and
Institutions) về Truy cập Mở:
Truy
cập mở bây giờ là cái tên được biết tới như là
khái niệm, phong trào và mô hình kinh doanh, mục tiêu của
nó là để cung cấp truy cập và sử dụng lại tự do tri
thức khoa học ở dạng các bài báo nghiên cứu, các
chuyên khảo, dữ liệu và các tài liệu có liên quan. Truy
cập mở làm điều này bằng việc dịch
chuyển các mô hình kinh doanh thịnh hành hiện nay khi những
người thuê bao thanh toán sau xuất bản sang mô hình cấp
vốn không lấy tiền của các độc giả hoặc các cơ sở
của họ để có được sự truy cập.
Vì thế, truy cập mở là vấn đề cơ bản trong chương
trình nghị sự thông tin của IFLA.
3.
Truy cập Mở - sự tiến hóa qua từng giai đoạn và chính
sách tương ứng ở châu Âu
Từ
các tài liệu do Ủy ban châu Âu xuất bản, có thể thấy
truy cập mở ở châu Âu đã trải qua các bước và giai
đoạn như sau:
3.1
Giai đoạn chương trình khung số 7 (Framework Programme 7) các
năm 2007-2013
Trong
giai đoạn này, Ủy ban châu Âu (EC) đã có thí điểm truy
cập mở[8]
với tóm
tắt như sau:
-
Phạm
vi của chương trình thí điểm. Sử
dụng 20% ngân sách của chương trình FP7 cho thí điểm
truy cập mở trong 7 lĩnh vực được chọn gồm: (1) Năng
lượng; (2) Môi trường; (3) Y tế; (4) Công nghệ thông
tin và truyền thông - các hệ thống nhận thức, tương
tác, người máy; (5) Các hạ tầng nghiên cứu - các hạ
tầng điện tử; (6) Khoa học Xã hội; và (7) Các khoa học
Kinh tế - Xã hội và Nhân văn.
-
Dạng
kết quả nghiên cứu cho truy cập mở.
Thí điểm này chỉ nhấn mạnh tới các xuất bản phẩm
nghiên cứu, chưa có đề cập tới dữ liệu nghiên cứu
nằm bên dưới các xuất bản phẩm đó.
-
Các
dạng truy cập mở
-
Xuất
bản Truy cập Mở (Open Access Publishing) hay
còn được gọi là
Truy cập Mở Vàng - Gold OA (Gold Open Access): các
khoản phí xử lý bài báo - APC (Article Processing Charges)
không do người sử dụng trả, mà do các tác giả trả
(thực tế thường do các cơ quan cấp vốn hỗ trợ cho
họ) hoặc các nguồn khác (thường là các thư viện đại
học). Dạng xuất bản này được các tạp chí truy cập
mở và các tạp chí “lai” chào (các tạp chí dựa vào
thuê bao chào cho các tác giả lựa chọn trả tiền cho
bài báo của họ để sẵn sàng là truy cập mở). Nó
đảm bảo rằng các bài báo nghiên cứu là sẵn sàng
tức thì theo chế độ truy cập mở ngay khi chúng được
xuất bản.
-
Tự
lưu trữ (Self-archiving) hay còn được gọi là Truy cập
Mở Xanh - Green OA (Green Open Access): các
tác giả ký gửi các bản thảo được rà soát lại
ngang hàng các bài báo của họ vào các kho (còn được
gọi là các lưu trữ mở – Open Archives), sẽ là sẵn
sàng ở chế độ truy cập mở, đôi khi sau một giai
đoạn cấm vận để cho phép các nhà xuất bản lấy
lại các khoản đầu tư của họ.
-
Cơ
chế thanh toán từ EC. Thí điểm truy cập mở này của
FP7 là dựa vào truy cập mở “xanh” (tự lưu trữ). EC
cũng đưa ra cơ hội cho truy cập mở “vàng” trong FP7
bằng việc đền bù toàn bộ các chi phí xuất bản truy
cập mở trong quá trình diễn ra các dự án nghiên cứu
của FP7.
-
Yêu
cầu ký gửi
-
Bài
báo cuối cùng được xuất bản: phiên bản cuối
cùng của tài liệu của nhà xuất bản, bao gồm tất cả
các sửa đổi từ quy trình rà soát lại ngang hàng, sửa
bản sao và sửa phong cách, và các thay đổi về định
dạng (thường là một tài liệu PDF). Được kỳ vọng
rằng xuất bản phẩm trên một tạp chí truy cập mở
sẽ dẫn tới một bài báo cuối cùng đang được ký
gửi được xuất bản và sẵn sàng khi xuất bản; hoặc
-
Bản
thảo cuối cùng được rà soát lại ngang hàng: bản
thảo cuối cùng của tài liệu được rà soát lại
ngang hàng được chấp nhận để xuất bản trên tạp
chí, bao gồm tất cả các sửa đổi từ quy trình rà
soát lại ngang hàng, nhưng còn chưa được nhà xuất bản
đó định dạng (còn được tham chiếu tới như là
phiên bản “sau in” - Post-Print).
-
Bản
quyền tác giả. Ở những nơi các bài báo sẽ được
xuất bản trên các tạp chí không phải truy cập mở,
các bên hưởng lợi (trên thực tế thường là các nhà
nghiên cứu) nên khẳng định rằng bản quyền và các
điều kiện cấp phép của các tạp chí được lựa chọn
cho phép tuân thủ với thí điểm truy cập mở trong FP7.
-
Nơi
ký gửi. Kho của cơ sở hoặc kho theo chủ đề, hoặc
kho do EC tạo ra.
-
Giai
đoạn cấm vận. Xuất bản phẩm sẽ được làm
thành truy cập mở trong vòng 6 hoặc 12 tháng, phụ thuộc
vào lĩnh vực nghiên cứu theo FP7.
3.2
Giai đoạn chương trình Horizon
2020 các năm
2014-2020
Nhiều
thông tin chi tiết về truy cập mở trong giai đoạn này
được nêu trong vài tài liệu được các
cơ quan ở châu Âu xuất
bản[9]
[10]
với các chi tiết
được tóm tắt như sau:
-
Phạm
vi của
chương trình.
Giai đoạn này đặc trưng bằng việc truy cập mở tới
không chỉ vài lĩnh vực được lựa chọn, mà tất cả
các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
-
Dạng
kết quả nghiên cứu cho
truy cập mở.
-
Truy
cập mở tới tất cả các xuất bản phẩm khoa học
được rà soát lại ngang hàng cùng
với siêu dữ liệu thư mục (bao gồm thông tin cấp vốn
của EU), chủ
yếu là các bài báo, nhưng cũng khuyến khích áp dụng
truy cập mở cho: (1) các chuyên khảo; (2) sách; (3) kỷ
yếu hội nghị;
(4)
các tư liệu xám
(tư liệu được viết và được xuất bản không chính
thức; không được các nhà xuất bản khoa học kiểm
soát, như, các báo cáo).
Điều
29.2 của Thỏa thuận Trợ cấp với những người nhận
trợ cấp. “Theo
Horizon 2020, từng bên hưởng lợi phải đảm bảo truy cập
mở - thông qua một kho - tới tất cả các xuất bản phẩm
khoa học được rà soát lại ngang hàng có liên quan tới
các kết quả dự án (bao gồm không chỉ các bài báo trên
tạp chí, mà còn cả các kỷ yếu hội nghị và các xuất
bản phẩm văn bản dài như các chuyên khảo, các chương
sách, các tuyển tập có biên tập, .v.v.). Truy cập phải
được cung cấp hoặc tới phiên bản được xuất bản
hoặc tới bản thảo cuối cùng được rà soát lại ngang
hàng được chấp nhận để xuất bản. Để
đáp ứng được yêu cầu này, các bên hưởng lợi phải
đảm bảo rằng các xuất bản phẩm đó có thể đọc
được trên trực tuyến, tải về được và in được
(truy cập không mất tiền, trên trực tuyến cho bất kỳ
người sử dụng nào).
Các bên hưởng lợi cũng được khuyến khích cung cấp
các quyền xa hơn có thể làm cho chúng thậm chí hữu dụng
hơn (như, quyền sao chép, phân phối, tìm kiếm, liên kết,
đào sâu và khai thác).”
Hình
2[11].
Truy cập Mở tới xuất bản phẩm khoa học và dữ liệu
nghiên cứu trong ngữ
cảnh phổ biến và khai thác rộng lớn hơn
-
Thí
điểm truy cập mở
tới dữ liệu
nghiên cứu thông
qua Thí điểm
Dữ liệu Nghiên cứu Mở - ORD Pilot (Open Research Data
Pilot), tuân thủ
các nguyên tắc dữ liệu tìm kiếm được, truy cập
được, tương hợp được, sử dụng lại được –
FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Reusable). Các
ví dụ dữ liệu nghiên cứu bao gồm các số liệu thống
kê, các kết quả thí nghiệm, các phép đo, các quan sát
là kết quả từ làm việc trên hiện trường, các kết
quả khảo sát, các bản ghi phỏng vấn và các hình ảnh.
-
Các
dạng truy cập mở. Vẫn
sử dụng truy cập mở vàng và truy cập mở xanh, nhưng
được phân thành bước rõ ràng với mục đích để kết
quả nghiên cứu luôn được lưu trữ dài hạn và truy
cập mở được.
-
Hướng
dẫn của chương trình Horizon 2020 có 2 bước:
(1) Bước 1: Ký gửi các xuất bản phẩm vào kho; (2)
Bước 2: Cung cấp truy cập mở tới các xuất bản phẩm.
-
Hướng
dẫn của Hội đồng Nghiên cứu châu Âu có 3 bước:
(1) Bước 1: Ký gửi các xuất bản phẩm vào các kho
(lưu trữ trên trực tuyến); (2) Lựa chọn dạng truy cập
mở vàng hoặc xanh; (3) Cung cấp truy cập mở tới các
xuất bản phẩm.
-
Cơ
chế thanh toán của
EC. Duy trì cơ
chế thanh toán đền bù toàn bộ các chi phí xuất bản
Truy cập Mở Vàng trong quá trình diễn ra các dự án
nghiên cứu của Horizon 2020.
-
Bản
quyền tác giả.
Trong tất cả các trường hợp, EC khuyến khích các tác
giả giữ lại bản quyền của họ và trao các giấy phép
thích hợp cho các nhà xuất bản. Sử dụng các giấy
phép Creative Commons như là công cụ pháp lý tốt để
cung cấp truy cập mở theo nghĩa rộng rãi nhất của nó
(như CC BY).
-
Sử
dụng các mã nhận diện thường trực duy nhất.
Để quản lý, lần
vết, thừa nhận ghi công tác giả và trích dẫn tài
nguyên số được tốt, các mã nhận diện thường trực
duy nhất được sử dụng, như mã nhận diện đối tượng
số DOI (Digital Object Identifier); mã
nhận diện các nhà nghiên cứu / những người đóng góp
sáng tạo – ORCID (Open Researcher and Contributor ID); hay
DataCite cho các mã nhận diện dữ liệu.
3.3
Kế hoạch S với chương trình Horizon Europe các năm 2021 -
2027
Vì
thời hạn hiệu lực của Kế hoạch S sau khi đã có sửa
đổi điều chỉnh là sau ngày 01/01/2021 và có thể còn
có những sửa đổi tiếp nữa, bên dưới đây nêu những
điều được dự kiến triển khai để phục vụ cho mục
đích so sánh các giai đoạn khác nhau của bài viết này,
dựa vào tài liệu hướng dẫn của nhóm các nhà cấp vốn
cOAlition S[12].
-
Phạm
vi của chương trình. Truy cập mở tới tất cả các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
-
Dạng
kết quả nghiên cứu cho Truy cập Mở. Truy cập mở
tới cả các xuất bản phẩm nghiên cứu, dữ liệu nằm
bên dưới và các siêu dữ liệu đầy đủ thông tin đi
kèm bài báo.
-
Các
dạng truy cập mở. Không ưu tiên cho bất kỳ con
đường truy cập mở nào, miễn là đáp ứng các yêu cầu
của cOAlition S về truy cập mở đầy đủ và tức thì.
-
Cơ
chế thanh toán. Không trang trải APC cho xuất bản truy
cập mở lai, trừ phi có thỏa thuận chuyển đổi quá
độ. Nói cách khác, ‘mô hình xuất bản lai là không
tuân thủ các nguyên tắc’ của Kế hoạch S[13].
-
Bản
quyền tác giả. Nhóm cOAlition S yêu cầu các tác giả
phải ở vị thế đăng các xuất bản phẩm của họ lên
một nền tảng hoặc tạp chí tuân thủ do họ lựa chọn,
và có khả năng sử dụng lại nội dung theo bất kỳ
cách gì họ thấy phù hợp. Nhóm cOAlition S cũng khuyến
cáo các tác giả cấp các giấy phép Creative Commons cho:
-
Các
xuất bản phẩm nghiên cứu, bao gồm cả dữ liệu
nghiên cứu: khuyến cáo giấy phép CC BY, nhưng cũng chấp
nhận cả các giấy phép CC BY-SA và CC0 để tối đa hóa
sử dụng lại các bài báo.
-
Siêu
dữ liệu mức bài báo: cấp giấy phép CC0 hoặc hiến
tặng vào phạm vi công cộng.
-
Sử
dụng các mã nhận diện thường trực duy nhất.
Các tạp chí và
các nền tảng phải sử dụng mã nhận diện đối tượng
số DOI cùng với việc đánh số phiên bản trong trường
hợp có sửa lại.
4.
Vài nhận xét về truy cập mở khi so sánh 3 giai đoạn với
nhau
Bảng
1. Độ phủ các đối
tượng truy cập mở theo từng giai đoạn
Để
tiến
tới được Kế hoạch S như ngày nay, châu Âu có
3 giai đoạn phát triển với một vài lưu ý sau đây:
-
Đi
từ thí điểm tới mở rộng ra toàn bộ.
Các đối tượng chính của truy cập mở là các xuất
bản phẩm - chủ yếu là các bài báo nghiên cứu, và dữ
liệu nghiên cứu đều trải qua giai đoạn thí điểm ban
đầu, rồi mới mở rộng ra toàn bộ.
-
Về
thanh
toán APC.
Trong 2 giai đoạn trước Kế hoạch S, các nhà cấp vốn
chấp nhận đền bù cho các nhà xuất bản APC phát sinh
trong chương trình. Tuy nhiên, tới giai đoạn của Kế
hoạch S, điều này đã không còn đúng nữa vì các tạp
chí lai sẽ không còn nhận được tiền đền bù cho các
APC nữa, ngoại trừ trường
hợp
có các thỏa thuận chuyển đổi quá độ với sự khẳng
định của các nhà xuất bản về lộ trình chuyển đổi
quá độ sang truy cập mở đầy đủ và
tức thì.
-
Các
con đường truy cập mở.
Vì mục đích để ưu tiên lưu trữ lâu dài các kết quả
nghiên cứu, việc tự lưu trữ - truy cập mở xanh, luôn
được ưu tiên trước trong 2 giai đoạn đầu. Với Kế
hoạch S, “các
xuất
bản phẩm khoa học là kết quả từ các trợ cấp nghiên
cứu được nhà nước cấp vốn do các hội đồng và
các cơ quan cấp vốn nghiên cứu quốc gia và châu Âu
cung cấp, phải được xuất bản trên các Tạp chí tuân
thủ Truy cập Mở hoặc trên các Nền tảng tuân thủ
Truy cập Mở”.
-
Về
bản quyền tác giả.
Từ gợi ý cho các tác giả nên khẳng định bản quyền
với FP7 cho tới khuyến cáo và hướng dẫn cụ thể để
các tác giả giữ lại bản quyền tác giả với Horizon
2020, cho tới khuyến cáo cấp phép Creative Commons với các
giấy phép CC BY, CC BY-SA và CC0 - các giấy phép này đảm
bảo
các quyền tự do cao nhất cho người sử dụng như quyền
chia sẻ, pha trộn và sử dụng cho các mục đích thương
mại, như được minh họa trên Hình
1.
-
Về
sử
dụng mã nhận diện thường trực duy nhất.
Không được nhắc tới trong giai đoạn của FP7; nhưng đã
trở thành bắt buộc cho 2 giai đoạn sau, cả với Horizon
2020 và Horizon Europe. Cùng với các mã nhận diện thường
trực duy nhất, các nguyên tắc dữ liệu FAIR cũng trở
thành chủ đạo.
5.
Vài gợi ý cho Việt Nam
Hình
1
cho thấy, về khía cạnh cấp phép mở, dữ liệu mở và
tài nguyên giáo dục mở có
thể được xem
là 2 trường hợp đặc biệt của truy cập mở. Vì
vậy, nếu không giải được bài toán truy cập mở, thì
tài nguyên giáo dục mở và dữ liệu mở khó có thể
phát triển được trơn tru, thuận lợi.
Nhắc
lại gợi ý trong bài viết[14] cho Hội thảo ‘Truy cập
mở thông tin: động lực phát triển bền vững[15]’ do
Khoa Thông tin - Thư viện của Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày
20/10/2016, như là điểm gợi ý tiếp theo về Truy cập Mở:
“Có
lẽ, việc đầu tiên Việt Nam có thể và nên làm, là
thành lập một nhóm nghiên cứu có đại diện từ các
bên tham gia đóng góp như các trường đại học, các nhà
cấp vốn, các nhà xuất bản, và các xã hội học tập
để thảo luận về hiện trạng hệ thống truyền thông
nghiên cứu ở Việt Nam và cách thức để dịch chuyển
hệ thống đó sang tiếp cận truy cập mở sao cho lợi ích
của từng bên có thể là hài hòa ở mức tất cả các
bên đều có thể chấp nhận được chăng?”
Đây
là
cách tiếp cận mà nhóm Finch đã làm rất thành công ở
Vương quốc Anh năm 2012[16].
Chỉ
sau khi có được chính sách về truy cập mở, bước tiếp
sau có thể tính tới việc thí điểm truy cập mở tới
các xuất bản phẩm nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu.
Là quốc gia đi sau, có thể là tốt cho Việt Nam nếu thí
điểm cùng lúc truy cập mở tới cả 2 đối tượng đó
ở một số lĩnh vực được lựa chọn.
Trong
khi chờ đợi, các hoạt động sau đây có thể được
lưu ý triển khai càng sớm càng tốt:
-
Chuyển
đổi số phải
đi với cấp
phép mở.
Các
tài liệu nội sinh hoặc
các
bài báo là kết quả của các nghiên cứu khoa học từ
ngân sách nhà nước
có thể là sự khởi đầu tốt. Điều
kiện
tiên quyết để một tài liệu trở thành mở là nó phải
được cấp phép mở, vì việc cấp phép mở cho tài liệu
sẽ làm cho nó trở nên hợp pháp khi được chia sẻ rộng
rãi ở
dạng số
trên Internet,
nhờ
đó tài liệu mới có khả năng được sử dụng lại
một cách hợp pháp.
-
Chuyển
đổi số phải
đi với mã
nhận diện thường
trực duy nhất.
Các
bài báo là kết quả của các nghiên cứu khoa học có
thể là sự khởi đầu tốt. Các
mã nhận diện thường trực duy nhất và đánh số phiên
bản sẽ giúp để quản lý tốt các đối tượng số,
tránh đúp bản, dễ tìm
kiếm và truy
cập, dễ lần
vết, và quan trọng hơn, giúp cho máy
đọc được
(ví
dụ như với mã
nhận diện tài nguyên thống nhất - URI (Uniform Resource
Identifier))
- một trong những đặc tính quan trọng bậc nhất trong
CMCN4. Ngoài
các mã nhận diện thường trực được nêu ở trên như
DOI, ORCID
hay
DataCite, các
mã khác cũng rất cần được quan tâm như URI
cả ở mức quốc gia[17]
và mức lĩnh vực, ngành nghề; và
mã nhận diện tài nguyên nghiên cứu - RRID (Research
Resource Identifiers).
-
Đưa
nội
dung truy cập mở, cả lý thuyết và thực hành, vào
chương trình giảng dạy ở các Khoa Thông tin - Thư viện.
Xem
gợi ý trong
bài viết[18]
nhân Hội
thảo khoa học ‘Đào tạo ngành thông tin - thư viện
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0’ do Khoa Thông tin -
Thư viện của Đại học Khoa
học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh
tổ chức ngày 05/12/2018 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng
chú giải
Lê
Trung Nghĩa
PS:
Tự do tải về bài viết ở định dạng PDF: