“Những
cuộc chiến tranh tiềm tàng trong kỷ nguyên kỹ thuật số
đòi hỏi trước nhất là những người lãnh đạo đất
nước nhận thức được những nguy cơ của chiến tranh
thông tin trong không gian mạng. Từ đó yêu cầu giới công
nghệ thông tin xây dựng chiến lược, vạch ra kế hoạch,
chuẩn bị cho một sự chuyển đổi bắt buộc, vô điều
kiện và không thể tránh khỏi đối với những gì chúng
ta đang quen sử dụng hàng ngày hiện nay để sẵn sàng
cho cuộc chiến cam go và khó nhìn thấy này. Một cuộc
chiến không sử dụng các phương thức truyền thống, mà
sử dụng trí tuệ thông qua các hệ thống công nghệ
thông tin và truyền thông, cả phần cứng lẫn phần mềm,
đặc biệt là hệ điều hành. Đó là điều phải làm,
nếu quả thực Việt Nam muốn sống sót, và hơn thế, hy
vọng trở thành một cường quốc về công nghệ thông
tin”. Đó là một đoạn cảnh báo được nêu trong bài
“An
ninh không gian mạng, Việt Nam có phải thay đổi chiến
lược?”, trên tạp chí Tin học & Đời sống hơn
4 năm về trước của tác giả Trần Lê, số tháng
06/2009, trang 72-74.
Vào
thời điểm đó, có lẽ vụ việc mất an ninh lớn nhất
đã bị phanh phui, có liên quan tới Việt Nam và nhiều
nước khác trên thế giới là vụ
gián điệp GhostNet, được cho là do các tin tặc Trung
Quốc tiến hành, trong đó Việt Nam đứng thứ 2/103 quốc
gia bị tấn công, với 130/1295 máy tính bị tấn công trên
toàn thế giới, kéo dài 22 tháng, từ tháng 05/2007 tới
tháng 03/2009. Theo tài liệu của nhóm các chuyên gia an ninh
ở Trung tâm Munk, Đại học Toronto, Canada, nhóm đã phanh
phui vụ này, thì trong số 130 máy tính của Việt Nam bị
lây nhiễm, có 74 chiếc của PetroVietnam và 30 chiếc của
Bộ Công thương. Những máy tính bị lây nhiễm trong vụ
GhostNet đã bị chiếm quyền kiểm soát hoàn toàn và tin
tặc có khả năng muốn làm gì thì làm đối với các máy
tính bị lây nhiễm đó.
Vào
thời điểm đó, Stuxnet, vũ khí không gian mạng có tính
hủy diệt một cách vật lý các thiết bị trong các cơ
sở hạ tầng như điện/nước/giao thông/hạt nhân/dầu
khí/hóa học … còn chưa bị bóc trần, dù người anh em
họ gần và có thể là tiền thân của nó, Conficker, thì
đã gieo tai họa cho khắp thế giới, trong đó Việt
Nam cũng từng đứng số 1 thế giới về tỷ lệ IP
quốc gia bị lây nhiễm là 5%, với nhiều nhà cung cấp
dịch vụ Internet (ISP) của Việt Nam nằm ở các vị trí
đầu trong số 500 ISP bị lây nhiễm nhiều nhất thế
giới.
Vào
thời điểm đó, Chính phủ Việt Nam đã có “Chỉ
thị số 07/2008/CT-BTTTT ngày 30/12/2008
về Triển khai cài đặt và tổ chức tập huấn, hướng
dẫn sử dụng các phần mềm OOo (OpenOffice), Firefox,
Thunderbird, Unikey cho cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn
vị”. Chỉ thị đi kèm các thời hạn phải hoàn thành
việc chuyển đổi. Đáng tiếc, chỉ thị đó, vì những
lý do còn chưa ai biết rõ, đã bị đẩy tới chỗ không
khả thi về cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ
của chỉ thị
như: (1) các văn bản được đưa ra chưa đồng bộ, chậm
và chưa đúng thời điểm; (2) Không có đủ các điều
kiện triển khai về kinh phí, thời gian, kế hoạch và các
văn bản pháp lý liên quan khác cho nội dung chỉ thị. Nói
một cách đơn giản là chúng ta không có quyết tâm để
tiến hành chuyển đổi.
Có
lẽ, một trong những lý do trong sự thiếu quyết tâm ở
trên, nằm ở sự sợ nắm trách nhiệm để tiến hành
thực hiện sự chuyển đổi của hầu hết các lãnh đạo
công nghệ thông tin (CNTT) trong khu vực nhà nước, những
người luôn muốn bấu víu vào lý do dạng như: tốt nhất
cứ mua sản phẩm - dịch vụ của các công ty phần mềm
nguồn đóng, sở hữu độc quyền lớn của thế giới,
có vấn đề gì thì họ sẽ giúp, hoặc cái gọi là “cộng
đồng phần mềm nguồn đóng” sẽ giúp, các công ty
khổng lồ và cái gọi là “cộng đồng phần mềm nguồn
đóng” đó mà không giúp được, thì sẽ không còn có
ai có thể giúp được, và người mua sẽ đương nhiên vô
can, không mắc lỗi, không sai lầm; hoặc ngạo nghễ với
tư duy “phản động” rằng: phần mềm tự do nguồn mở
(PMTDNM) là thứ không mất tiền mua thì không thể nào có
chất lượng và sự hỗ trợ như của các công ty phần
mềm nguồn đóng, sở hữu độc quyền được, kiểu
“tiền nào của nấy”, trong khi họ lại không hiểu, và
có lẽ đúng hơn, không muốn hiểu về PMTDNM và cách thức
hỗ trợ của nó. Và có lẽ còn nhiều lý do khác nữa để
biện minh cho sự thiếu quyết tâm đó, mà chúng chẳng
liên quan gì tới phần mềm cả, dù là đóng hay mở hay
nửa đóng nửa mở...
Sự
thiếu quyết tâm chuyển đổi đó đã kéo dài từ đó
cho tới nay, dù trong quãng thời gian sau chỉ thị đó, đã
có nhiều sự mất an ninh thông tin (ANTT) trên không gian
mạng (KGM) đối với cả thế giới và Việt Nam, mà bài
viết này chỉ liệt kê một ít ví dụ. Với thế giới,
kể từ tháng 06/2010, các vũ khí KGM nguy hiểm, được
biết tới như là các mối đe dọa thường trực cao cấp
- APT (Advanced Persistent Threat) do các nhà nước quốc gia
đứng đằng sau đã tạo ra, lần lượt bị phát hiện
như: (1) Stuxnet - tháng 06/2010; Duqu - 09/2011; Flame - 05/2012;
Gauss – 08/2012... Chúng đã tấn công vào một số hạ
tầng của nhiều nước trên thế giới và đều là các
phần mềm nhằm vào các lỗ hổng trong hệ điều hành
Microsoft Windows, trong khi có tới 80%-90% các phần mềm diệt
virus hiện hành là không phát hiện được ra chúng, trong
khi số lượng các phần mềm độc hại mới được viết
ra trên toàn thế giới cho Microsoft Windows, theo các báo cáo
riêng rẽ của hãng an ninh Đức, G-Data, luôn là hơn 1
triệu loại sau mỗi 6 tháng và liên tục gia tăng kể từ
đầu năm 2010 cho tới hết 6 tháng đầu năm 2012 chiếm từ
99.4% - 99.8%, một cách tương ứng. Sẽ là không ngoa khi
nói: (1) Không
có virus máy tính, chỉ có virus Windows, sai số lớn nhất
0.6%;
(2) Phần mềm diệt virus, thông thường, chỉ là thuộc an
thần, không là thuốc chữa bệnh, vì có nhìn ra virus đâu
mà đòi diệt. Với Việt Nam, bạn có thể tham khảo các
vụ việc nổi bật về mất ANTT trên KGM trong bài “Cơ
hội chuyển đổi phần mềm đóng - mở, 6 năm qua và 1
năm còn lại”
đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống số tháng
04/2013, trang 56-57.
An
ninh thông tin (ANTT) và an ninh không gian mạng (KGM) đã đột
ngột trở nên đặc biệt nổi bật ngay từ những tháng
đầu năm 2013 này, với 2 vụ tiết lộ động trời.
- Vụ thứ nhất là một tài liệu đi kèm một loạt các phụ lục được xuất bản vào cuối tháng 02/2013, có tên là “APT1 - Phát hiện một trong các đơn vị gián điệp không gian mạng của Trung Quốc”, tức đơn vị 61398 của Quân đội Trung Quốc, có trụ sở ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc, đã sử dụng một hạ tầng khổng lồ với gần 1.000 máy chủ chỉ huy kiểm soát đặt ở 13 quốc gia để tiến hành các hoạt động tác chiến mạng máy tính, chủ yếu là gián điệp và ăn cắp thông tin ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ít nhất từ năm 2006, APT1 đã tấn công vào gần 150 mạng của các nạn nhân trong hơn 20 lĩnh vực công nghiệp. Có mạng bị truy cập dai dẳng lặp đi lặp lại trong hơn 4 năm 10 tháng, và có mạng mất tới 6.5 terabyte dữ liệu được nén trong vòng 10 tháng. APT1 đã huy động trong các cuộc tấn công: (1) Kho vũ khí phần mềm độc hại của APT1 với 42 họ các cửa hậu với hàng loạt các công cụ và giao thức tự chế, tất cả nhằm vào hệ điều hành Microsoft Windows, cả máy chủ lẫn máy trạm; (2) Hàng ngàn tên miền bị lợi dụng; (3) Hơn 1.000 hàm băm MD5 có liên quan tới các phần mềm độc hại; (4) Hàng chục chứng thực số SSL; (5) Khoảng 3.000 chỉ số về sự tổn thương IOC; (6) Ví dụ về 3 con người cụ thể đứng đằng sau các cuộc tấn công. Tuy nhiên, điều đáng nói là APT1 chỉ là 1 trong số 20 đơn vị như vậy đang tấn công các hệ thống thông tin khắp thế giới theo mô hình, hệt như tên của một bài viết trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 08/2013, trang 42-47, đó là “Vòng đời các mối đe dọa thường trực cao cấp”, mà điểm mấu chốt của cách tấn công này là kiên trì bằng mọi cách bám lấy mục tiêu cho tới khi tiêu diệt được nó mới thôi. Với kiểu tấn công này, Việt Nam hiện nay chưa có khả năng đối phó được, chiểu theo 5 mức đối phó của “Mô hình độ chín an ninh không gian mạng”.
- Vụ thứ 2, còn khủng khiếp hơn nhiều lần so với vụ nêu trên, được Edward Snowden, một cựu nhân viên của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ - NSA (National Security Agency), thông qua nhà báo người Mỹ, Glenn Greenwald, làm việc cho tờ báo Guardian (Người bảo vệ), chi nhánh ở Brazil, đã tiết lộ bắt đầu từ đầu tháng 06/2013 cho tới nay và có lẽ còn nhiều tháng nữa trong tương lai. Có rất nhiều vấn đề trong vụ việc này, ở đây chỉ nêu ra một phần rất nhỏ từ các tài liệu được tiết lộ đó:
- NSA đã hợp tác với một loạt các hãng lớn về CNTT của Mỹ trong một chương trình tuyệt mật có tên gọi là PRISM để tiến hành thu thập và giám sát ồ ạt thông tin - dữ liệu của người sử dụng trên toàn cầu, cả người nước ngoài và người Mỹ. Các hãng đó, theo trật tự thời gian từ trước tới sau đã hợp tác với NSA bao gồm: Microsoft (từ 11/09/2007), Yahoo, Google, Facebook, PalTalk, YouTube, Skype, AOL và Apple (từ tháng 12/2012);
- Chương trình PRISM đã sử dụng công cụ Xkeyscore, được cài đặt trên khoảng 700 máy chủ ở 150 địa điểm trên khắp thế giới, có khả năng thu thập gần như tất cả các thông tin dữ liệu mà một người sử dụng thông thường thực hiện trên Internet, với tần suất khó tin là từ 1-2 tỷ bản ghi trong một ngày.
- Chương trình PRISM giám sát mạng của nhiều quốc gia, thậm chí đã giám sát cả các nước đồng minh thân cận của Mỹ, như Liên minh châu Âu, Đức, Pháp, Nhật... Nó đã gây ra một làn sóng phẫn nộ trên khắp thế giới, kể cả ở các nước đồng minh của Mỹ.
Điều
đáng nói ở đây là: Việt Nam với nền CNTT của quốc
gia nói chung, của khu vực nhà nước và giáo dục công
lập nói riêng, hiện hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào
các sản phẩm phần mềm của Microsoft, nhất thiết phải
lưu ý trong vụ này rằng Microsoft là hãng đầu tiên tham
gia hợp tác với NSA từ ngày 11/09/2007 và đã giúp NSA để
có khả năng truy cập trực tiếp tới các máy chủ của
hãng để thu thập thông tin - dữ liệu của người sử
dụng. Đặc biệt, Microsoft
đã tự phá mật mã của chính hãng
của mình, để tạo điều kiện cho NSA thu thập thông tin
- dữ liệu của người sử dụng của hãng trước khi
các thông tin - dữ liệu của người sử dụng được mã
hóa, điều hoàn toàn trái ngược với quảng cáo của
chính Microsoft: “Sự riêng tư của bạn là ưu tiên của
chúng tôi”. Tệ hơn, khi phần mềm của Microsoft có lỗi,
thì như một
bài viết khác nêu:
“Những gì các công ty và chính phủ muốn là các lỗi
đó sẽ được sửa càng nhanh càng tốt, sao cho chúng
không thể bị bọn tội phạm khai thác để gây ra thiệt
hại trong các hệ thống của họ, Và rồi bây giờ chúng
ta biết được rằng một trong những điều đầu tiên mà
Microsoft làm là gửi thông tin về các chỗ bị tổn thương
đó cho “nhiều cơ quan” - có thể đoán chừng là cả
NSA và CIA. Hơn nữa, chúng ta cũng biết rằng “dạng cảnh
báo sớm này đã cho phép Mỹ khai thác những chỗ bị tổn
thương trong phần mềm được bán cho các chính phủ nước
ngoài”. Những hành động như vậy của Microsoft là rất
khác khi so sánh với các hành động của các hãng nhỏ
của Mỹ, chuyên về thư điện tử có mã hóa an ninh, như
Lavabit
và Silent
Circle,
các hãng mà đã tự mình đóng cửa chỉ để bảo vệ sự
riêng tư hợp pháp của thông tin - dữ liệu khách hàng
của họ. Điều này cho thấy, thật
khờ dại khi tin vào Microsoft,
vào các sản phẩm - dịch vụ của hãng khi mà hãng, thay
vì bảo vệ quyền lợi người sử dụng, thì họ đã nói
dối và phản bội lại lòng tin của người sử dụng. Vụ
PRISM cho chúng ta thấy: (1) Lý lẽ “bản
quyền hợp pháp để sử dụng phần mềm nguồn đóng”
chỉ
là sự lừa dối người sử dụng của Microsoft và các
hãng phần mềm nguồn đóng độc quyền tương tự; (2)
Windows và phần mềm nguồn đóng, sở hữu độc quyền là
mối đe dọa lâu dài cho an ninh quốc gia!; (3) Tư
duy “mua sắm sản phẩm - dịch vụ của các Ông Lớn để
nếu có điều gì xảy ra thì họ sẽ giúp” - đã chết
hoàn toàn!
Bình
luận về vụ PRISM, Richard Stallman, Chủ tịch của Quỹ
Phần mềm Tự do – FSF (Free Software Foundation), người đã
khởi xướng ra phong trào phần mềm tự do thế giới, đã
nói trong một cuộc
phỏng vấn với hãng RT
như sau: “Nói theo nghĩa đen, các phần mềm của Apple và
Microsoft là các phần mềm độc hại và Windows 8.1 có thể
gọi là Windows phiên bản PRISM vì nó được thiết kế để
yêu cầu mọi người gửi các dữ liệu tới các máy chủ
của Microsoft và tất nhiên Microsoft sẽ chuyển bất kỳ
thứ gì từ những dữ liệu đó cho chính phủ Mỹ theo
yêu cầu”.
Trong
khi ở Việt Nam còn chưa biết giải quyết như thế nào,
khi mà vô số những người sử dụng Windows XP và Office
2003, hệ điều hành và bộ phần mềm văn phòng của
Microsoft phát hành lần đầu vào năm 2001 và 2003 một cách
tương ứng, sẽ
hết hạn bảo hành toàn cầu vào ngày 08/04/2014
và những người sử dụng chúng sau ngày đó sẽ gây hại
cho bản thân họ và cho cả xã hội, thì thông tin về
Windows 8.1 ở trên như một cú đấm bồi cho những người
sử dụng hâm mộ cuồng tín các sản phẩm và dịch vụ
của Microsoft ở Việt Nam. Lưu
ý quan trọng là, nếu tiếp tục đi theo con đường sử
dụng các hệ điều hành Windows, thì hôm nay hết hạn bảo
hành cho Windows XP, mai kia sẽ là Windows 7, 8, xx nào đó, và
Việt Nam sẽ luôn nằm trong hoàn cảnh mất an ninh thông
tin, mất an ninh hệ thống thông tin và vi phạm các quyền
sở hữu trí tuệ, trong khi luôn phải dùng các công nghệ
cũ kỹ với rủi ro mất an ninh luôn thường trực ở mức
cao nhất có thể.
Ngắn
gọn, việc tiếp tục đi theo các hệ điều hành Windows
của Microsoft, chỉ đơn giản là cách để “Tiền mất,
tật mang”.
Bây
giờ sẽ là không ngoa để nói rằng: “Sử dụng các sản
phẩm - dịch vụ phần mềm của Microsoft là tiếp tay cho
gián điệp nước ngoài ăn cắp thông tin - dữ liệu”.
Điều này đúng không chỉ với PRISM của Mỹ, mà còn
đúng với cả APT1 của Trung Quốc. Điều này sẽ càng
đúng khi xét về những vụ việc mất an ninh mạng của
Việt Nam như được nêu ở trên, và nhất là khi mà
“Chừng nào còn xung đột ở Biển Đông, chừng đó còn
chiến tranh không gian mạng ở Việt Nam”.
Lối
thoát duy nhất khả dĩ cho Việt Nam lúc này là chuyển đổi
bắt buộc, vô điều kiện sang PMTDNM trong khu vực hành
chính nhà nước và giáo dục công lập, như đã được
nêu nhiều lần trên tạp chí Tin học & Đời sống,
ví dụ như các bài:
- An ninh không gian mạng, Việt Nam có phải thay đổi chiến lược?, số tháng 06/2009
- Cơ hội chuyển đổi phần mềm đóng - mở, 6 năm qua và 1 năm còn lại, số tháng 04/2013
- Mô hình phát triển và ứng dụng phần mềm tự do nguồn mở bền vững, số tháng 05/2013
Một
điểm cần được nhấn mạnh thêm ở đây rằng, để có
được an ninh tốt nhất cho thông tin và hệ thống thông
tin, ngay cả đối với PMTDNM thì chúng ta cũng phải làm
chủ được nó, phải kiểm soát được mã nguồn của
nó, chứ không chỉ đơn thuần là tải về để sử dụng.
Để làm được điều này, như 2 bài cuối trong số 3 bài
ở trên đã nêu, chúng ta cần phải tuân thủ mô hình
phát triển đúng của PMTDNM, tuân thủ một cách lặp đi
lặp lại 5 bước trong qui trình ngược lên dòng trên
(NLDT) khi phát triển PMTDNM (xem hình bên phải) như sau: (1)
Tải về mã nguồn; (2) Áp dụng các bản vá và tùy biến;
(3) Kiểm thử; (4) Đóng góp các thay đổi cho dự án NLDT;
(5) Đưa vào cây phát hành sản phẩm dòng dưới.
Từ
5 bước ở trên, nếu cộng đồng các lập trình viên
PMTDNM của Việt Nam có đủ trình độ và nhân sự khi
phát triển, ví dụ, một dự án PMTDNM nào đó có nguồn
gốc của thế giới, cộng đồng đó hoàn toàn có khả
năng vừa song hành phát triển với cộng đồng dự án đó
của thế giới và vừa triển khai liên tục các bược 2
và 3 trong 5 bước ở trên: (2) Áp dụng được bản vá và
tùy biến và (3) Kiểm thử được chất lượng của mã
nguồn. Đó chính là 2 bước giúp cộng đồng PMTDNM ở
Việt Nam làm chủ được và kiểm soát được chất lượng
mã nguồn của PMTDNM đang được phát triển cùng thế
giới đó.
Đây
cũng chính là khuyến cáo cho việc phát triển phần mềm
(xem hình bên trái) nói chung để sử dụng trong hành chính nhà
nước và giáo dục công lập, nó chỉ ra đường thoát có
lẽ là duy nhất cho Việt Nam về lâu dài, trong khi mọi
con đường khác đều sẽ đi vào đường tịt, ngõ cụt,
xét về vấn đề an ninh thông tin - an ninh hệ thống thông
tin và sở hữu trí tuệ.
Các
nội dung được nêu ở trên đều có trong bài: “An
ninh thông tin và việc chuyển đổi bắt buộc sang PMTDNM
trong hành chính nhà nước và giáo dục công lập”,
được trình bày tại phân ban B, “An ninh - an toàn thông
tin”, chiều ngày 30/08/2013 trong “Hội thảo Hợp tác
Phát triển CNTT-TT Việt Nam lần thứ 17” diễn ra tại
thành phố Huế, từ 29 đến 31/8/2013. Hội thảo do Bộ
Thông tin và Truyền thông, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội
Tin học Việt Nam và Hội Tin học Tp HCM đồng tổ chức
với chủ đề “Xây dựng hạ tầng CNTT-TT đồng bộ từ
Trung ương đến địa phương tạo động lực phát triển
kinh tế - xã hội”.
Tại
hội thảo, có ý kiến cho rằng, chưa nên từ bỏ thói
quen mua sắm các sản phẩm - dịch vụ phần mềm của
nước ngoài. Ở đây cần được nêu rõ rằng:
- Việc phát triển phần mềm hướng tới làm chủ công nghệ, tuân thủ đúng theo mô hình phát triển của PMTDNM thế giới, không đồng nghĩa với việc từ bỏ các sản phẩm - dịch vụ của nước ngoài nói chung, của nước Mỹ nói riêng, vì bản chất của sự phát triển PMTDNM là sự phát triển song hành đồng thời của cộng đồng PMTDNM Việt Nam và cộng đồng PMTNDM thế giới, không tách rời khỏi sự phát triển của PMTDNM thế giới, như bài viết về “Mô hình phát triển và ứng dụng phần mềm tự do nguồn mở bền vững” trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 05/2013 đã nêu.
- Việc loại bỏ các sản phẩm - dịch vụ độc hại của Microsoft, không đồng nghĩa với việc tẩy chay các hàng hóa - dịch vụ của các công ty Mỹ làm ăn nghiêm túc, không gây mất an toàn an ninh cho thông tin và hệ thống thông tin của những người sử dụng. Cần lưu ý rằng, cả PMTDNM và Internet mà chúng ta hiện đang sử dụng, đều bắt nguồn từ nước Mỹ, từ các cộng đồng PMTDNM ở nước Mỹ, với sự tham gia tích cực của nhiều công ty Mỹ. Liệu có khả năng viện tới Điều 7, Luật Sở hữu trí tuệ để loại bỏ các phần mềm gây hại đó chăng?
Chính
là bây giờ, chứ không phải bất kỳ lúc nào khác, Việt
Nam có khả năng biến các thách thức hiện nay thành các
cơ hội, bằng việc đưa vào dự thảo nghị quyết của
Bộ Chính trị về công nghệ thông tin và trong dự thảo
chỉ thị về PMTDNM của Việt Nam từ nay tới năm 2020
tinh thần của nội dung 5 điểm khuyến cáo đã được
nhắc tới trước trong vài số báo của Tin học & Đời
sống được nêu ở trên, được nhắc lại một lần nữa
ở đây, với việc bổ sung làm rõ thêm cho một số điểm,
gồm:
- Tuân thủ đúng mô hình phát triển của PMTDNM khi triển khai xây dựng các giải pháp dựa vào PMTDNM, tránh “cái chết hệ thống” được báo trước, có thể là vào năm 2016.
- Nhanh chóng có chính sách mua sắm công về CNTT dựa vào dịch vụ và các tiêu chuẩn mở để thay thế dần chính sách mua sắm dựa vào sản phẩm. Cần nhấn mạnh tới chiến lược “hướng tới làm chủ CNTT bằng việc loại bỏ phần mềm nguồn đóng, sở hữu độc quyền, trước hết là loại bỏ hoàn toàn hệ điều hành Microsoft Windows, cả ở phía các máy tính trạm và ở phía các máy tính chủ”.
- Giáo dục công lập tất cả các cấp học và tất cả các cơ quan nhà nước, bắt buộc sử dụng PMTDNM. Với hệ thống giáo dục công lập, nhấn mạnh tới tất cả khối các trường sư phạm, nơi đào tạo ra các giáo viên, thì yêu cầu các sinh viên thuộc khối trường đó sẽ ở mức cao hơn: không sử dụng thành thạo các công cụ PMTDNM trong các hoạt động dạy và học thì sinh viên sẽ không tốt nghiệp.
- Có chế tài mạnh đi kèm với chính sách về PMTDNM. Khi tiến hành chuyển đổi, những người thực hiện có thể làm đúng, có thể làm chưa đúng. Tuy nhiên, mọi tư duy không chịu chuyển đổi, viện đủ mọi lý do để không làm, trốn tránh trách nhiệm, cần phải chấn chỉnh bằng các chế tài, theo cách: kiên quyết loại bỏ những người chống đối và không làm.
- Xây dựng các cộng đồng các dự án PMTDNM theo đúng triết lý và pháp lý của nó. Các đại học làm nòng cốt trong việc này.
Trần
Lê
PS:
Đây là bài tham luận của tác giả đọc tại Hội thảo
Hợp tác và Phát triển CNTT&TT VN lần thứ 17, bài viết
phản ánh quan điểm của tác giả. Tựa do tòa soạn đặt.
Bài
đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng
09/2013, trang 44-47.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.