Lê
Trung Nghĩa, letrungnghia.foss@gmail.com
Bài
viết cho hội thảo khoa học TT-TV với chủ đề: "Tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến hoạt
động thông tin - thư viện"
Tại
Trung tâm Học liệu và Truyền thông, Trường Đại học
Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, ngày 07/12/2017
Tóm
tắt: Để tiếp cận được với cách mạng công
nghiệp 4.0 (CMCN4.0), Việt Nam rất cần ứng dụng và phát
triển khoa học mở với truy cập mở, dữ liệu mở và
tài nguyên giáo dục mở. Sáng kiến “Tạo video truy cập
mở” có thể giúp các thủ thư, các thư viện, các
trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam triển khai
thực tế bước khởi đầu các công việc đó, chứ không
chỉ dừng ở mức nói mãi lý thuyết để nâng cao nhận
thức về chúng nhưng chưa biết thực hành bắt đầu phải
làm từ đâu.
A.
Rất cần khoa học mở cho CMCN4.0
Đây
chính là đầu đề một bài viết cách đây không lâu
trên tạp chí Tia Sáng[1]. Bài viết khẳng định,
để tiếp cận được với cách mạng công nghiêp 4.0
(CMCN4.0), Việt Nam rất cần ứng dụng và phát triển khoa
học mở với truy cập mở, dữ liệu mở và tài nguyên
giáo dục mở.
Trong
số các gợi ý ở phần kết luận của bài viết đó,
tác giả bài viết đã nêu:
-
Việt Nam cần các hệ thống thư viện số, mở, kết nối được với nhau theo các tiêu chuẩn mở quốc tế với lực lượng các thủ thư thế hệ mới với đủ các kỹ năng và khả năng để quản lý toàn bộ vòng đời dữ liệu nghiên cứu.
-
Việt Nam thời gian tới cần tập trung vào xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho CMCN4.0 theo cách thức của khoa học mở, từng bước một để với tới được đầy đủ các đặc tính FAIR+TLC, bao gồm: (1) Các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và khác; (2) Các hệ thống mã nhận diện duy nhất, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Nếu
như gợi ý trước chỉ ra rất rõ có sự liên quan hoàn
toàn, thì gợi ý sau chỉ ra sự liên quan có lẽ một phần
rất quan trọng tới hoạt động thông tin - thư viện, ví
dụ như trong vai trò của các thủ thư, các thư viện
và/hoặc những người chuyên nghiệp về thông tin để
quản lý toàn bộ vòng đời dữ liệu nghiên cứu hay xây
dựng các bộ từ vựng nhằm tạo ra bộ mã nhận diện
tài nguyên thống nhất - URI (Uniform Resource Identifier) của
quốc gia - điều tối cần thiết để giúp các dữ liệu
có khả năng đạt được đầy đủ các sao theo lược đồ
tiêu chuẩn 5 sao dành cho dữ liệu mở liên kết - LOD
(Linked Open Data) để không chỉ con người hiểu được,
mà cả máy cũng hiểu được các dữ liệu đó - nét đặc
trưng chỉ có trong CMCN4.0, như được nêu trong một bài
khác[2] được viết cho Hội
thảo khoa
học: “Dịch vụ thông tin - thư viện trong xã hội hiện
đại” do Thư
viện Đại
học Văn hóa Hà Nội tổ
chức ngày
07/11/2017 vừa
qua.
B.
Hiện
trạng:
tài nguyên không thể truy cập mở vì rào cản sở hữu
trí tuệ?
Các
khái niệm tài nguyên giáo dục mở - OER (Open Educational
Resources) và khóa học mở - OCW (OpenCourseware) đã tới
Việt Nam khá sớm, từ những năm 2005-2008. Tuy nhiên, phải
từ năm 2015, phong trào này mới thực sự được nhiều
người biết tới hơn ở Việt Nam, đặc biệt là trong
cộng đồng thư viện và cộng đồng nguồn mở ở Việt
Nam, chủ yếu được như vậy là nhờ vào các hoạt động
có liên quan tới OER đã được tiến hành liên tục từ
năm 2015 cho tới nay, như hội thảo quốc tế thường niên
về OER trong các năm 2015, 2016 và 2017, hay các hoạt động
nâng cao nhận thức về OER qua chương trình OER@University
RoadShow và nhiều hội thảo, khóa huấn luyện khác nhau có
liên quan tới OER.
Các
khái niệm dữ liệu mở, khoa học mở và truy cập mở có
lẽ tới Việt Nam còn muộn hơn nhiều, mới chỉ vài năm
trở lại đây. Mặc dù vậy, trong thời gian vài tháng trở
lại đây, đã có hàng loạt các cuộc tọa đàm, hội
thảo, khóa huấn luyện trong cả nước đã và đang đề
cập nhiều hơn tới những khái niệm mới này, đặc biệt
là trong khoảng trước và sau sự kiện Tuần lễ Truy cập
Mở Thế giới 2017 (International Open Access Week 2017) vừa
diễn ra trong tuần từ 23-29/10/2017 vừa qua. Măc dù vậy,
nhận thức chung của toàn xã hội về các khái niệm này
còn ở mức khiêm tốn và sơ khai.
Có
lẽ cũng vì vậy mà ở Việt Nam hiện nay, thực tế là
một vài nơi cũng đã và đang tiến hành số hóa nhiều
tài nguyên giáo dục nhưng lại không thể và/hoặc không
dám chia sẻ để mọi người có thể truy cập mở được
tự do tới các tài nguyên đã được số hóa đó vì lo
sợ vi phạm bản quyền và mang tiếng ‘đạo văn’, bên
cạnh các lý do có thể khác. Mặt khác, ở chiều ngược
lại, có nơi lại bán ‘thoải mái’ các tài nguyên đã
được số hóa mà không cần quan tâm tới việc các tài
nguyên đó có vi phạm bản quyền của bất kỳ ai hay
không.
Thực
tế này đặt ra nhu cầu cho các thư viện, các cơ sở
giáo dục đại học và cao đẳng ở Việt Nam phải tìm
ra cách thức làm sao vừa tôn trọng được bản quyền và
vừa có khả năng đổi mới sáng tạo để phát triển
khi làm việc với các tài nguyên số.
Nhân
Hội thảo Quốc tế lần thứ 3 về tài nguyên giáo dục
mở - OER (Open Educational Resources) vừa được tổ chức
tại Hà Nội ngày 19/10/2017 với chủ đề “Triển
khai tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học:
bản quyền và giấy phép mở - Implementation of Open
Educational Resources in Higher Education: Copyright and Open
Licence”, một
trong số các bài viết cho hội thảo[3]
[4] đã nêu
lên thực tế trên thế giới, phong trào khoa học
mở với truy cập mở, dữ liệu mở và tài nguyên giáo
dục mở như ở châu Âu và nước Mỹ đã vận dụng rất
tốt các luật sở hữu trí tuệ theo hướng đưa toàn
quyền quyết định các quyền bản quyền về với (các)
tác giả, thay vì các bên trung gian như các nhà xuất bản,
với sự trợ giúp của các chính sách khoa học mở
và/hoặc truy cập mở từ nhà nước và/hoặc từ bản
thân các cơ sở giáo dục và nghiên cứu. Bằng cách này,
các cơ sở giáo dục và nghiên cứu vừa tôn trọng được
luật bản quyền, vừa tôn trọng được chính sách khoa
học mở của nhà nước và vừa tôn trọng được các
yêu cầu của các nhà xuất bản trong các thỏa thuận với
các tác giả là các nhà nghiên cứu, đặc biệt với các
nghiên cứu có sử dụng tiền của những người đóng
thuế để tiến hành nghiên cứu.
Chính
kinh nghiệm trên của châu Âu và nước Mỹ và các nước
khác trên thế giới đã gợi ý cho chúng ta cách để
thoát khỏi hiện trạng bế tắc và/hoặc bất cần như
được nêu ở bên trên, để hướng theo khoa học mở với
truy cập mở, dữ liệu mở và tài nguyên giáo dục mở
nhằm phát huy sức sáng tạo của các thủ thư, các thư
viện, các giảng viên và sinh viên, các trường đại học
và cao đẳng, các viện nghiên cứu và cả các nhà khoa
học công dân.
Không
là ngẫu nhiên, khi trong năm 2015, UNESCO đã cho xuất bản
2 bộ tài liệu với 9 cuốn tất cả đều về truy cập
mở, trong đó có 4 cuốn cho các trường thư viện[5]
và 5 cuốn cho các nhà nghiên cứu[6].
Đây là 2 bộ sách đã ghi lại một cách có hệ thống
các kinh nghiệm của thế giới trong ứng dụng và phát
triển khoa học mở với truy cập mở, bước tiên quyết
đầu tiên hướng tới việc ứng dụng và phát triển dữ
liệu mở và tài nguyên giáo dục mở, vì bản chất tự
nhiên của dữ liệu mở và tài nguyên giáo dục mở trước
hết đều phải là các tài nguyên truy cập được tự do
- truy cập mở được tới tất cả mọi người, đặc
biệt đối với các tài nguyên được sinh ra từ tiền
của những người đóng thuế.
C.
Truy cập mở: định nghĩa và các điểm đáng lưu ý
qua các trích dẫn
“Truy
cập mở[7]
tới tư liệu ngụ ý tính sẵn sàng tự do trên Internet
công khai, cho phép bất kỳ người sử dụng nào để đọc,
tải về, sao chép, phân phối, in, tìm kiếm, hoặc liên
kết tới toàn văn các bài báo đó, đi sâu vào chúng để
đánh chỉ mục, truyền chúng như là dữ liệu tới phần
mềm, hoặc sử dụng chúng vì bất kỳ mục đích hợp
pháp nào khác, mà không
có các rào cản về tài chính, pháp lý hoặc kỹ thuật
ngoại trừ những rào cản gắn liền với sự truy cập
tới bản thân Internet”.
“Truy
cập mở[7]
- OA (Open Access) ngụ ý truy
cập tự do tới thông tin
và
sử
dụng không có giới hạn các tài nguyên điện tử đối
với bất kỳ ai. Bất kỳ dạng nội dung điện tử nào
cũng có thể là OA, từ các văn bản và dữ liệu cho tới
các
phần mềm,
audio, video, và đa phương tiện. Trong khi hầu hết chúng
có liên quan chỉ tới các văn bản, thì số lượng ngày
một gia tăng đang tích hợp văn bản với hình ảnh, dữ
liệu, và mã
thực thi được.
OA cũng có thể áp dụng cho các nội dung phi hàn lâm, như
âm nhạc, phim ảnh, và các tiểu thuyết.
Một
xuất bản phẩm được coi là OA nếu:
-
nội dung của nó truy cập được vạn năng và tự do, độc giả không mất chi phí, qua Internet hoặc khác;
-
tác giả hoặc chủ sở hữu bản quyền trao cho tất cả những người sử dụng một cách không thể hủy bỏ, qua một giai đoạn thời gian không có giới hạn, quyền để sử dụng, sao chép, hoặc phân phối bài báo, với điều kiện thừa nhận ghi công thích hợp được đưa ra;
-
nó được ký gửi, tức thì, đầy đủ và ở dạng điện tử phù hợp, ít nhất vào một kho truy cập mở được thừa nhận quốc tế và rộng rãi, cam kết truy cập mở”.
“Vào
đầu thế kỷ 21 đã nổi lên phong trào Truy cập Mở - OA
(Open Access) với Sáng kiến Truy cập Mở Budapest - BOAI
(Budapest Open Access Initiative). Triết lý của truy cập mở
là để cung cấp sự truy cập miễn phí và không có rào
cản tới nghiên cứu và các xuất bản phẩm của nó mà
không có các hạn chế về bản quyền. Phong
trào đó có sự hỗ trợ từ các nhà khoa học lớn nhất,
các nhà giáo dục, các nhà xuất bản, các cơ sở nghiên
cứu, các hiệp hội nghề nghiệp và các tổ chức thư
viện.
Các tuyên bố OA khác ở Berlin và Bethesda đặt nó vào vị
thế mạnh mẽ. Triết
lý của nó là: nghiên cứu được những người đóng
thuế cấp tiền sẽ là sẵn sàng không mất tiền cho
những người đóng thuế
[8]”.
“Truy
cập Mở từng là kết quả của sự không thỏa mãn của
các nhà nghiên cứu với các mô hình giá thành của các
nhà xuất bản khoa học, và các nhà xuất bản khoa học
kiếm lợi nhuận khổng lồ từ nghiên cứu được tài
chính nhà nước cấp vốn để hưởng lợi tất cả.
Internet đã mở ra toàn bộ một thế giới mới và đã
làm cho Truy cập Mở trở thành có thể. Khả năng không
chỉ tải về thông tin, mà còn tải lên thông tin đã dẫn
tới - cùng với các lý do khác - sự phát triển phần mềm
để cung cấp và quản lý các dịch vụ truy cập mở[9].”
“Khi
triển khai dịch vụ truy cập mở ở cơ sở, phần mềm
nguồn mở được khuyến cáo vì nó là đồng nghĩa với
truy cập mở - vì nguyên tắc được chia sẻ của ‘tính
mở’[10].”
“Trong
thế giới truy cập mở (OA), điều rất quan trọng là sử
dụng các công cụ nguồn mở, các tài nguyên truy cập mở
và các giải pháp mở để thu hút các tác giả và các
nhà nghiên cứu vào nghiên cứu có tính cộng tác, chia sẻ
ngang hàng thông tin hàn lâm và đánh giá có tính cộng tác
các tác phẩm hàn lâm[11].”
D.
Sáng
kiến ‘Tạo video truy cập mở’ - khởi đầu ứng dụng
và phát triển các tài nguyên truy cập mở?
Để
khắc phục được hiện trạng như được nêu ở trên,
vừa tuân thủ các nguyên tắc và tận dụng được các
kho tài nguyên truy cập mở khổng lồ trên thế giới,
đồng thời tham gia phát triển các tài nguyên truy cập mở
nhằm từng bước xây dựng kho tài nguyên tri thức mở,
được cấp phép mở theo đúng các chuẩn mực quốc tế,
bài viết này đề xuất sáng kiến ‘Tạo video truy cập
mở’.
D1.
Lược đồ tạo video truy cập mở
Tuân
thủ với nguyên tắc của truy cập mở là “không có các
rào cản về tài chính, pháp lý và kỹ thuật” đối với
các tài nguyên truy cập mở, tất cả các phần mềm được
sử dụng để tạo ra video truy cập mở cũng là các tài
nguyên truy cập mở, được cấp phép mở, và vì vậy,
chúng phải là các phần mềm nguồn mở, bao gồm cả hệ
điều hành, các phần mềm ứng dụng được dùng để
tạo ra các video đó, các phần mềm dùng để cấp phép
mở và các phần mềm kho dùng để chia sẻ các video truy
mở đó trên Internet. Điều này được thể hiện như các
ô ở hàng giữa trong lược đồ tạo video truy cập mở ở
Hình 1.
Một
mặt, sử dụng các phần mềm nguồn mở, mặt khác (các)
video truy cập mở và được cấp phép mở hoàn toàn có
khả năng được tạo ra từ các tài nguyên truy cập mở,
được cấp phép mở từ các kho sẵn có trên Internet với
mọi dạng nội dung như văn bản, hình ảnh, âm thanh,
video và dữ liệu nghiên cứu - hàng trên của Hình 1.
Tương
tự, (các) video truy cập mở và được cấp phép mở có
thể được tạo ra từ các tài nguyên truy cập mở, được
cấp phép mở do (các) tác giả tạo ra - hàng dưới của
Hình 1.
(Các)
video truy cập mở và được cấp phép mở có thể được
tạo ra với sự kết hợp của 2 nguồn tài nguyên có sẵn
trên Internet và của (các) tác giả như được nêu ở
trên.
Sau
khi (các) video truy cập mở và được cấp phép mở được
tạo ra, chúng sẽ được tải lên các kho truy cập mở và
được cấp phép mở sẵn có trên Internet để bất kỳ
ai cũng có thể truy cập tới được mà không có các rào
cản nào về tài chính, pháp lý và kỹ thuật.
Rà soát lại ngang hàng. Việc rà soát lại ngang hàng là rất quan trọng để nâng cao liên tục chất lượng của các video truy cập mở, được cấp phép mở. Rà soát lại ngang hàng có thể được thực hiện trước và/hoặc sau thời điểm cấp phép mở cho video được tạo ra, nó phần lớn tương ứng với việc triển khai rà soát lại ngang hàng tại cơ sở/thư viện của (các) tác giả và của cộng đồng mạng những người sử dụng các video đó trên toàn cầu.
D2.
Mục tiêu và dự kiến các bước tiến hành của
sáng kiến
Như
ở bên trên đã nên, mục tiêu tổng quát của sáng kiến
là để khắc phục được hiện trạng, tuân thủ các
nguyên tắc và tận dụng được các kho tài nguyên truy
cập mở khổng lồ trên thế giới, đồng thời tham gia
phát triển các tài nguyên truy cập mở nhằm từng bước
xây dựng kho tài nguyên tri thức mở, được cấp phép mở
theo đúng các chuẩn mực quốc tế.
Sáng
kiến dự kiến được chia thành các giai đoạn với các
mục tiêu cụ thể của từng giai đoạn được nêu ở
bên dưới:
Giai
đoạn 1: Mục tiêu kép: Các thủ thư, sau khi đi qua
(các) lớp huấn luyện, có khả năng tạo ra các video truy
cập mở, được cấp phép mở để quảng bá, giới thiệu
và chỉ dẫn khai thác vô số các kho tài nguyên truy cập
mở, được cấp phép mở đang có sẵn trên thế giới
cho các độc giả là các sinh viên, giảng viên và các nhà
nghiên cứu ở từng cơ sở và viện nghiên cứu – việc
này phù hợp với chức năng nhiệm vụ của bất kỳ thủ
thư hay thư viện nào; Tuân thủ các nguyên tắc của truy
cập mở, được cấp phép mở và thừa nhận ghi công
(các) tác giả đúng thích đáng, như được thể hiện
trong Hình 1, các video được tạo ra hoàn toàn có khả
năng chia sẻ tự do trên Internet, đảm bảo không vi phạm
bản quyền của bất kỳ ai ở phạm vi toàn cầu.
Giai
đoạn 2: Mục tiêu là để mở rộng việc tạo
video truy cập mở tới một số giảng viên ở tất cả
các khoa, những người có thiện chí chia sẻ các tài
nguyên giảng dạy của họ trên trực tuyến.
Trên
cơ sở thành công của giai đoạn 1, các thủ thư giới
thiệu các video truy cập mở đã làm được ở giai đoạn
1 cho các giảng viên tất cả các khoa, những người có
thiện chí chia sẻ các tài nguyên giảng dạy của họ
trên trực tuyến và tổ chức các lớp huấn luyện ít
người cho các giảng viên đó để thực hành xây dựng
video truy cập mở theo lược đồ như Hình 1;
Đề
xuất xây dựng trong thư viện vài không gian (phòng) làm
nơi để xây dựng video truy cập mở với các thiết bị
được cài đặt sẵn hệ điều hành nguồn mở và (các)
phần mềm nguồn mở để sẵn sàng tạo video truy cập mở
và chia sẻ chúng trên trực tuyến.
Kết
quả của giai đoạn này sẽ là các video truy cập mở
chuyên ngành của các giảng viên đã tham gia hoạt động
tạo video truy cập mở và chia sẻ chúng trên trực tuyến
theo lược đồ như Hình 1.
Giai
đoạn 3: Mục tiêu là để xây dựng
khoa điển hình về tạo video truy cập mở. Cách thức
tiến hành các hoạt động như được nêu ở giai đoạn
2 nhưng với mức độ mở rộng hơn, trước hết tới
(các) khoa có các giảng viên đã tham gia trong giai đoạn
2, rồi tới các giảng viên ở các khoa khác trong một cơ
sở giáo dục và nghiên cứu.
Giai
đoạn 4: Mục tiêu là để xây dựng cơ sở điển
hình về tạo video truy cập mở và có chính sách về truy
cập mở, mở rộng phạm vi sáng kiến tới các cơ sở
trong toàn quốc. Cách thức tiến hành các hoạt động như
được nêu ở giai đoạn 3 nhưng với mức độ mở rộng
hơn, trước hết tới (các) cơ sở có các khoa đã có đa
số các giảng viên tham gia tạo (các) video truy cập mở
và chia sẻ chúng trên trực tuyến trong giai đoạn 3.
Các
giai đoạn các các mục tiêu tương ứng được nêu ở
trên chỉ có tính tương đối. Phụ thuộc vào điều kiện
cụ thể của từng cơ sở, các giai đoạn và mục tiêu
có thể được tùy biến sửa đổi cho phù hợp.
D3.
Dự kiến các hoạt động triển khai khác trong quá trình
triển khai sáng kiến
Trong
quá trình triển khai các lớp huấn luyện tạo video truy
cập mở và chia sẻ chúng trên trực tuyến, ở những nơi
cần thiết, sẽ liên tục tiến hành đan xen các hoạt
động bổ trợ sau:
-
Huấn luyện bổ sung về bản quyền và cấp phép mở cho các cơ sở có nhu cầu.
-
Huấn luyện nâng cao nhận thức về các vấn đề có liên quan tới khoa học mở, truy cập mở, dữ liệu mở, tài nguyên giáo dục mở, … cho các cơ sở có nhu cầu.
-
Huấn luyện để sử dụng các ứng dụng phần mềm nguồn mở trợ giúp làm video truy cập mở như các phần mềm soạn sửa hình ảnh, âm thanh, …
-
Tổ chức thường xuyên các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm của các thư viện, cơ sở.
D4.
Hạ tầng kỹ thuật và tính khả thi của sáng kiến
Theo
lược đồ ở Hình 1, để tạo ra video truy cập mở tuân
theo đầy đủ các nguyên tắc truy cập mở, cần có các
phần mềm và công cụ sau:
-
Phần mềm hệ điều hành máy trạm: Sử dụng các phần mềm nguồn mở như GNU/Linux Ubuntu và/hoặc Fedora, … là các hệ điều hành nguồn mở phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay.
-
Công cụ cấp phép và giúp các độc giả thừa nhận ghi công cho tác giả: các công cụ có sẵn của Creative Commons (bao gồm cả bộ chọn giấy phép và bộ sinh giấy phép khi kết hợp 2 tài nguyên) và/hoặc trình giúp cấp phép và ghi công mở của dự án Open Washington. Các công cụ này đều có sẵn và truy cập mở, tự do trên Internet.
Lưu
ý: Để mức
độ khả thi của sáng kiến là cao nhất có thể, ngay cả
trong trường hợp bạn đang sử dụng hệ điều hành
không phải là GNU/Linux trong công việc hàng ngày, thì bạn
vẫn có khả năng tạo video truy cập mở khi sử dụng các
máy riêng do cơ sở của bạn thiết lập, có cài đặt hệ
điều hành GNU/Linux và các phần mềm ứng dụng cần
thiết để tạo video truy cập mở.
Nói một cách khác,
trong khi bạn vẫn sử dụng các hệ điều hành không phải
GNU/Linux trong công việc hàng ngày, thì bạn sẽ tạo video
truy cập mở trên các máy riêng rẽ khác được cài đặt
sẵn hệ điều hành GNU/Linux và các phần mềm nguồn mở
cần thiết để tạo video truy cập mở. Thư
viện của cơ
sở của bạn sẽ là nơi cung cấp không gian (phòng) và
các thiết bị được cài đăt sẵn các phần mềm như
vậy.
Trong
khi từng cơ sở giáo dục chưa có khả năng xây dựng hạ
tầng kỹ thuật, tất cả các phần mềm được nêu ở
trên đều là các phần mềm nguồn mở - các phần mềm
truy cập mở được - đặc biệt là các phần mềm kho
chứa các sản phẩm video được tạo ra, các cơ sở hoàn
toàn có khả năng để sử dụng các phần mềm nguồn mở
và các kho có sẵn trên Internet được liệt kê ở trên.
Điều này đồng nghĩa là sáng kiến tạo video truy cập
mở được nêu ở đây là hoàn toàn khả thi với chi phí
cho hạ tầng bằng không (0), ít nhất trong thời gian thí
điểm, ngoại trừ, có thể, các chi phí tối thiểu phát
sinh từ sự cần thiết có các máy tính riêng rẽ được
cài đặt sẵn hệ điều hành GNU/Linux và các phần mềm
ứng dụng cần thiết để tạo video truy cập mở.
Sau
này, khi triển khai nhân rộng, các cơ sở cần tính tới
việc nâng cấp không gian lưu trữ theo nhu cầu [01]
[02]
[03]
trên các kho đó với khoản chi phí định kỳ chấp nhận
được. Một tiếp
cận khác có thể là xây dựng hạ tầng dùng chung để
chia sẻ các video như vậy.
E.
Dự kiến hiệu quả của sáng kiến - Thay cho lời kết
Việc
triển khai thành công sáng kiến có thể mang lại các hiệu
quả cụ thể sau:
-
Việc tạo ra các video truy cập mở, được cấp phép mở chính là tạo ra các tài nguyên giáo dục mở, dù nhỏ bé, nhưng sạch về bản quyền, vì thế chia sẻ tự do và mở được.
-
Việc phát triển và ứng dụng các kho OER được hiện thực hóa, có khả năng cao được đưa vào cuộc sống hàng ngày trong các cơ sở giáo dục và các viện nghiên cứu, chứ không chỉ dừng ở mức lý thuyết.
-
Nâng cao vai trò của các thủ thư và cộng đồng các thủ thư trong kỷ nguyên số, một trong số các nguồn nhân lực cần thiết và không thể thiếu để tiếp cận CMCN4.0.
-
Các thủ thư và các giảng viên có khả năng sử dụng một loạt các phần mềm truy cập mở để xây dựng các video truy cập mở, điều thực sự giúp nâng cao năng lực của họ trong kỷ nguyên số và khả năng tiếp cận CMCN4.0.
-
Việc tạo ra các video truy cập mở cũng mở ra cho các giảng viên cách thức dạy học hiện đại hơn trong kỷ nguyên số.
-
Nâng cao năng lực cho thủ thư và các giảng viên về việc tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ trong kỷ nguyên số, trong khi vẫn phát triển được sức sáng tạo của mỗi người.
-
Là thực tế tốt để đề xuất xây dựng các chính sách truy cập mở và các chính sách cho các vấn đề đương thời khác được quan tâm như khoa học mở, truy cập mở, dữ liệu mở, dữ liệu mở liên kết… ở tất cả các cấp, bao gồm cả cấp quốc gia.
F.
Phụ lục
F1.
Triển khai thực tế theo hướng tạo
video truy cập mở
Đã
có vài lớp huấn luyện tạo video truy cập mở theo tinh
thần của sáng kiến này, cụ thể:
-
Lớp tập huấn ‘Các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở’ ở Đại học Thăng Long, Hà Nội trong 2 ngày 21-22/09/2017[12] [13].
-
Lớp thực hành tạo video truy cập mở & được cấp phép mở tại đại học Hoa Sen, thành phố Hồ Chí Minh ngày 03/11/2017 (1 lớp sáng và 1 lớp chiều)[14].
-
Lớp thực hành tạo video truy cập mở và được cấp phép mở tại đại học Văn Lang, thành phố Hồ Chí Minh ngày 17/11/2017[15].
F2.
Yêu cầu tối thiểu đối với một lớp thực hành tạo
video truy cập mở
Từ
kinh nghiệm triển khai các lớp thực hành ở trên, để
đảm bảo chất
lượng thực hành, yêu
cầu tối thiểu cho
một lớp thực hành tạo video truy cập mở cần được
chuẩn bị sẵn
trước gồm:
-
Mỗi lớp 10 máy tính được cài đặt sẵn hệ điều hành GNU/Linux Ubuntu 16.04 LTS phiên bản 64 bit. Nên lựa chọn cài đặt sẵn bộ gõ tiếng Việt trong Ubuntu.
-
Cấu hình máy tính: máy tính thông thường hiện nay, với RAM nên từ 4GB trở lên.
-
Sau khi cài đặt xong hệ điều hành, từ Ubuntu Software Center, tìm và cài đặt sẵn trước các phần mềm tạo video truy cập mở OpenShot và ghi màn hình Kazam.
-
Phòng cho các lớp thực hành có kết nối Internet, băng thông càng rộng càng tốt.
-
Phòng cho các lớp thực hành có máy chiếu – Projector, hệ thống loa, micro.
G.
Tài liệu và thông tin tham khảo
[1]
‘Rất cần khoa học mở cho CMCN 4.0’, bài đăng trên tạp
chí Tia sáng ngày 26/08/2017 tại:
http://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Rat-can-khoa-hoc-mo-cho-CMCN-40--10878
hoặc tại địa chỉ:
https://vnfoss.blogspot.com/2017/08/khoa-hoc-mo-rat-can-cho-cmcn40-o-viet.html
[2]
‘Xã hội hiện đại hướng dữ liệu và tác động của
nó tới các thư viện’, bài đăng trong kỷ yếu Hội
thảo khoa học: “Dịch vụ thông tin - thư viện trong xã
hội hiện đại” do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
tổ chức ngày 07/11/2017, tại:
https://vnfoss.blogspot.com/2017/11/xa-hoi-hien-ai-huong-du-lieu-va-tac-ong.html
[3]
Bài trình bày ngày 19/10/2017 tại Hội thảo Quốc tế lần
thứ 3 về Tài nguyên Giáo dục Mở (OER), phiên bản toàn
văn,
https://vnfoss.blogspot.com/2017/10/xu-ly-van-e-ban-quyen-tac-gia-e-tuan.html.
[4]
Bài trình bày tại Hội thảo Quốc tế lần thứ 3 về
Tài nguyên Giáo dục Mở (OER), 19/10/2017, phiên bản slide,
https://www.dropbox.com/s/9b03j6r9ycec8hn/OA-And-Copyright-Law-LeTrungNghia.pdf?dl=0.
[5]
Bộ 4 tài liệu do UNESCO xuất bản năm 2015 cho các trường
thư viện, gồm: (1) Giới thiệu truy cập mở,
https://www.dropbox.com/s/u1wc3yp0i9vib9h/232204E-Vi-16082017.pdf?dl=0;
(2) Hạ tầng truy cập mở,
https://www.dropbox.com/s/u1wc3yp0i9vib9h/232204E-Vi-16082017.pdf?dl=0;
(3) Tối ưu hóa tài nguyên,
https://www.dropbox.com/s/d7oh3271m0z622h/232201E-Vi-22082017.pdf?dl=0;
(4) Tính tương hợp và truy xuất,
https://www.dropbox.com/s/1xkxe2y8oy0ln2m/232199E-Vi-06082017.pdf?dl=0
[6]
Bộ 5 tài liệu do UNESCO xuất bản năm 2015 cho các nhà
nghiên cứu. (1) Truyền thông hàn lâm,
https://www.dropbox.com/s/6irainzgx3qa65h/231938e-Vi-20092017.pdf?dl=0;
(2) Các khái niệm về tính mở và truy cập mở,
https://www.dropbox.com/s/bnpg9kn6phkqnii/232207E-Vi-27092017.pdf?dl=0;
(3) Các quyền sở hữu trí tuệ,
https://www.dropbox.com/s/dboxp5uju3kjy0u/232208E-Vi-09092017.pdf?dl=0;
(4) Đo đếm đánh giá nghiên cứu,
https://www.dropbox.com/s/n1xohy7tgjdnt4o/232210E-Vi-12102017.pdf?dl=0;
(5) Chia sẻ tác phẩm của bạn theo truy cập mở,
https://www.dropbox.com/s/bff7xp7ppmm6yun/232211E-Vi-14092017.pdf?dl=0
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.