Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

TÍNH TƯƠNG HỢP, MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA QUI TRÌNH VÀ DỮ LIỆU TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ


Các tỉnh - bộ - ngành trong chính phủ đều có những dự án xây dựng các hệ thống thông tin với các ứng dụng đặc thù với các qui trình nghiệp vụ cụ thể nào đó của chúng, trong số đó có nhiều ứng dụng và/hoặc các phần của ứng dụng có thể gần giống nhau hoặc giống nhau hoàn toàn cả về tổ chức, kỹ thuật và ngữ nghĩa đối với các qui trình và/hoặc dữ liệu của chúng. Điều này làm phát sinh nhu cầu về tính tương hợp, việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa cả qui trình cũng như dữ liệu mà chúng ta sẽ đề cập tới một cách khái quát trong bài viết này, đặc biệt khi xây dựng các ứng dụng - dịch vụ cho chính phủ điện tử (CPĐT).
A. TÍNH TƯƠNG HỢP
Dù là xây dựng tài liệu khung tương hợp hay tài liệu về chuẩn và kiến trúc thì một trong những mục tiêu hàng đầu của các tài liệu dạng đó là phải đảm bảo tính tương hợp.
Định nghĩa tính tương hợp
Tính tương hợp, từ quan điểm nghiệp vụ của kiến trúc của các ứng dụng CPĐT, được hiểu như việc đảm bảo cho sự hợp tác giữa một loạt các ứng dụng CPĐT với nhau để trao đổi thông tin có hiệu quả giữa các các cơ quan chính phủ với các công dân, doanh nghiệp và giữa các cơ quan chính phủ với nhau. Còn từ quan điểm ứng dụng, tính tương hợp được hiểu như là khả năng của 2 hoặc nhiều hơn các thành phần, phần mềm hoặc hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) trao đổi được với nhau một cách trong suốt và có ý nghĩa các thông tin - dữ liệu và sử dụng được các thông tin - dữ liệu được trao đổi với nhau đó một cách có an ninh và hiệu quả.
Phân loại tính tương hợp: Tính tương hợp tổ chức, kỹ thuật và ngữ nghĩa
Khi nói về tính tương hợp, thông thường những cán bộ kỹ thuật, các nhân viên lập trình phần mềm thường nghĩ ngay tới việc sử dụng một loạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, ví dụ như ngôn ngữ siêu văn bản mở rộng XML (Extensible Markup Language) để trao đổi các dữ liệu và qui trình của các ứng dụng nghiệp vụ. Điều này là đúng nhưng không đủ. Đúng, vì XML, cùng với một số tiêu chuẩn kỹ thuật khác, sẽ giúp giải quyết được vấn đề tương hợp về kỹ thuật. Không đủ, vì XML, không thể giải quyết được vấn đề tương hợp về tổ chức và ngữ nghĩa.
  1. Tính tương hợp về tổ chức
Tính tương hợp về tổ chức trước hết xác định khi nào và vì sao các dữ liệu nhất định nào đó được trao đổi. Rõ ràng, từ quan điểm kỹ thuật – công nghệ, chúng ta sẽ không thể có câu trả lời nào làm thỏa mãn được câu hỏi này. Điều này có nghĩa là trong phạm vi của tính tương hợp về tổ chức, những qui trình trao đổi các dữ liệu sẽ được phối hợp với các thông số pháp lý, theo các qui định của pháp luật.
Một ví dụ thường thấy, là tại nhiều quốc gia, các dữ liệu về tính riêng tư được pháp luật bảo vệ nghiêm ngặt, và chúng thường chỉ được phép trao đổi trong những trường hợp cụ thể nào đó, trong những cơ quan nhất định có thẩm quyền nào đó. Việc tiết lộ các thông tin về tính riêng tư được coi là một hành vi vi phạm pháp luật.
  1. Tính tương hợp về kỹ thuật
Tính tương hợp về kỹ thuật tham chiếu thuần túy tới khả năng để trao đổi thông tin. Tính tương hợp về kỹ thuật bao gồm định nghĩa các cách thức trao đổi và các giao thức truyền tải dữ liệu. Với việc trao đổi dữ liệu, thì tiêu chuẩn XML là bắt buộc phải sử dụng. Còn đối với sự truyền tải các dữ liệu, các giao thức thường được sử dụng như SOAP, HTTP, FTP, IP, SMTP... mà trong phạm vi của bài viết này, chúng ta sẽ không đề cập tới chúng xa hơn.
  1. Tính tương hợp về ngữ nghĩa
Tính tương hợp về ngữ nghĩa được đưa ra khi 2 hệ thống trao đổi các dữ liệu sao cho các dữ liệu được hiểu theo một cách thức cùng y hệt như nhau đối với cả 2 đối tác giao tiếp và sự hiểu lầm được loại trừ. Điều này được áp dụng cho các mẫu biểu và các nội dung của dữ liệu được truyền.
Một ví dụ cụ thể tính tương hợp về ngữ nghĩa mà chúng ta có thể thường gặp khi xây dựng các cơ sở dữ liệu có liên quan tới họ và tên của người sử dụng, ví dụ là Lê Việt Nam, như được nêu trong bảng bên dưới.
STT
Trường trong bảng của cơ sở dữ liệu
Cách lưu trữ 1
Cách lưu trữ 2
Cách lữu trữ 3
Cách lưu trữ 4
1
Trường thứ 1
Lê Việt Nam
Lê Việt
2
Trường thứ 2
-
Nam
Việt Nam
Việt
3
Trường thứ 3
-
-
-
Nam
Bảng 1: Ví dụ về các khả năng lưu trữ họ và tên người trong các trường của cơ sở dữ liệu
Giả thiết chúng ta sẽ phải trao đổi các dữ liệu về họ và tên của cùng một người sử dụng nằm trong 2 cơ sở dữ liệu khác nhau của cùng một cơ quan, ví dụ như, cơ sở dữ liệu quản lý nhân sự và cơ sở dữ liệu quản lý tiền lương của cùng một bộ trong Chính phủ. Giả thiết cơ sở dữ liệu quản lý nhân sự làm theo cách lưu trữ 1, còn cơ sở dữ liệu quản lý tiền lương làm theo một trong các cách lưu trữ từ 2-4. Dễ nhận thấy rằng, nếu không có những qui định và/hoặc xử lý bổ sung, thì việc trao đổi dữ liệu giữa các trường lưu trữ họ và tên của 2 cơ sở dữ liệu trên là không thể thực hiện được đối với các cán bộ dù là trong cùng một Bộ đó. Lý do không trao đổi được nằm chính ở ngữ nghĩa của dữ liệu, chúng không đồng nhất với nhau và vì thế không thể trao đổi qua lại giữa từng trường của 2 cơ sở dữ liệu cần được trao đổi với nhau đó.
Điều không tương hợp về ngữ nghĩa đối với cùng một cá nhân rất có thể sẽ xảy ra trầm trọng hơn, nếu một cá nhân đó nằm trong nhiều cơ sở dữ liệu của các cơ quan khác nhau. Hãy tưởng tượng về dữ liệu của cùng một cá nhân được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu quốc gia khác nhau theo tinh thần của Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/08/2010 về việc Quyết định Phê duyệt Chương trình Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động các cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 như giữa (1) Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức và (2) Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, và chúng không thể trao đổi được cho nhau. Khả năng không thể trao đổi được các dữ liệu cho nhau về một cán bộ cũng có thể được thấy giữa các hệ thống khác nhau, như các hệ thống của Chính phủ và của Đảng, ví dụ như các dữ liệu cá nhân của các cán bộ ở 2 cơ sở dữ liệu cá nhân nêu trên với cơ sở dữ liệu quản lý Đảng viên.
Điều tương tự này cũng hoàn toàn có thể xảy ra đối với các cơ sở dữ liệu quốc gia khác nhau trong Chính phủ như giữa (3) Cơ sở dữ liệu quốc gia kinh tế công nghiệp và thương mại với (4) Cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp; Giữa (4) Cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp với (5) Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên và môi trường và/hoặc với (6) Cơ sở dữ liệu quốc gia về các dự án đầu tư khi chúng sẽ có liên quan tới dữ liệu của cùng một doanh nghiệp nhưng nằm ở các cơ sở dữ liệu quốc gia khác nhau, với các cách thức sử dụng mã định danh và biểu diễn các tên doanh nghiệp và họ và tên các chủ doanh nghiệp là khác nhau và, về mặt ngữ nghĩa, các dữ liệu của các cơ sở dữ liệu đó, rất có thể, sẽ không thể trao đổi được các dữ liệu đó cho nhau. Chắc chắn, khi đi sâu hơn, sẽ còn có nhiều vấn đề hơn nữa về sự trùng lặp, chồng lấn các dữ liệu, không thể trao đổi được với nhau từ sự không tương hợp về ngữ nghĩa này.
B. MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA QUI TRÌNH
Kiến trúc CPĐT thường có cấu tạo từ nhiều lớp hoặc quan điểm, trong đó quan điểm nghiệp vụ là điểm khởi phát, là động lực để thúc đẩy tất cả những quan điểm còn lại trong mô hình kiến trúc tổng thể. Bên cạnh những công việc khác, quan điểm nghiệp vụ có liên quan trực tiếp tới công việc quản lý hành chính, tới cải cách hành chính. Tới lượt mình, một trong những hoạt động quan trọng trong cải cách hành chính, có liên quan tới sử dụng CNTT-TT làm công cụ để trợ giúp, là mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ bằng việc sử dụng các công cụ mô hình hóa phù hợp.
Không có việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ thì việc sử dụng các công cụ CNTT-TT để xây dựng các ứng dụng CPĐT sẽ gặp vô vàn khó khăn và trong nhiều trường hợp là không thể thực hiện được vì mỗi người có thể sẽ hiểu và diễn giải một qui trình nghiệp vụ cụ thể nào đó theo các cách thức khác nhau hoàn toàn. Lý tưởng mà nói, với một qui trình nghiệp vụ của một ngành cụ thể nào đó được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa bằng các công cụ tiêu chuẩn thì dù bạn có là người ngoài ngành đó, thậm chí là người của một quốc gia khác, cũng sẽ hiểu được qui trình nghiệp vụ đó y hệt như bất kỳ ai khác hiểu biết tường tận về qui trình nghiệp vụ của ngành đó. Nói ngắn gọn, việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa một qui trình nghiệp vụ làm cho qui trình nghiệp vụ trở nên rõ ràng, minh bạch và được hiểu y hệt như nhau. Những qui trình nghiệp vụ như vậy sẽ là cơ sở nhất quán cho việc xây dựng các ứng dụng nghiệp vụ đặc thù sử dụng trong CPĐT. Ví dụ được nêu trong phần “Ví dụ về một ứng dụng – dịch vụ trực tuyến với vài thành phần cơ bản” của bài “Giới thiệu kiến trúc phần mềm tham chiếu trong CPĐT” đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống số tháng 04/2012 là được xây dựng trên cơ sở của một qui trình nghiệp vụ đã được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa tới từng bước, dựa vào tổng cộng 20 bước đó các lập trình viên phần mềm đã tạo ra một ứng dụng – dịch vụ đặc thù sử dụng trong môi trường CPĐT triển khai tốt được trong thực tế.
Công việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa qui trình nghiệp vụ là một lĩnh vực rộng lớn, có liên quan tới nhiều vấn đề về quản lý trong hành chính, và về bản chất, là do những người có chuyên môn về hành chính thực hiện chứ không phải là công việc của những người có chuyên môn về CNTT-TT. Tuy nhiên, CNTT-TT có thể cung cấp những công cụ và các thông tin liên quan để những người có chuyên môn về hành chính có khả năng tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ sao cho những người có chuyên môn về CNTT-TT sau đó có thể dựa vào những qui trình đã được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa đó để xây dựng các ứng dụng - dịch vụ CPĐT một cách có an ninh và hiệu quả. Việc trao đổi và phổ biến các thông tin trợ giúp này có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, trong đó phổ biến nhất hiện nay là thông qua các website và diễn đàn chuyên môn.
Cần thiết và cấp bách phải có một bộ phận chuyên làm công việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ bằng việc sử dụng các công cụ chuyên dụng, được tiêu chuẩn hóa cho công việc mô hình hóa qui trình nghiệp vụ như ngôn ngữ Mô hình hóa Thống nhất UML (Unified Modeling Language) để trợ giúp đặc lực trong quá trình xây dựng các ứng dụng – dịch vụ CPĐT.
Càng muốn sử dụng mô hình hướng dịch vụ (SOA) có hiệu quả bao nhiêu, thì càng phải mất nhiều công sức hơn cho việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa qui trình (và dữ liệu, mà sẽ được đề cập sau trong bài viết này) bấy nhiêu, vì bản thân việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ đồng nghĩa với việc để các hoạt động nghiệp vụ được thực hiện một cách lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ được xây dựng thành các dịch vụ cung cấp cho người sử dụng có hiệu quả nhất.
Ngày nay, để triển khai có hiệu quả mô hình hướng dịch vụ SOA hay sau này là mô hình điện toán đám mây, các quốc gia tiên tiến trước hết hướng tới việc quản lý các qui trình CNTT có hiệu quả và tin cậy, dựa vào “Thư viện Hạ tầng CNTT”, gọi tắt là ITIL (Information Technology Infrastructure Library), như một thư viện các qui trình đưa ra những thực tiễn tốt nhất, bây giờ đã trở thành như những tiêu chuẩn defacto được chấp nhận toàn cầu. Hy vọng các nội dung của ITIL sẽ được đề cập tới trong một bài khác của loạt bài này.
C. MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA DỮ LIỆU
Trong kiến trúc CPĐT, bên cạnh quan điểm nghiệp vụ luôn có quan điểm thông tin. Cũng tương tự như với quan điểm nghiệp vụ, tính tương hợp giữa các ứng dụng – dịch vụ và/hoặc hệ thống CPĐT được cải thiện bằng việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các dữ liệu thông qua việc sử dụng các công cụ được tiêu chuẩn hóa và các tiêu chuẩn được các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế thừa nhận.
Ở trên, chúng ta vừa nhắc tới tính cấp thiết phải có một bộ phận chuyên làm công tác mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ trợ giúp cho việc xây dựng các ứng dụng – dịch vụ CPĐT. Chúng ta cũng cần có bộ phận có trách nhiệm trong việc tiến hành công việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các dữ liệu. Đây là nơi có trách nhiệm đưa ra các thông tin về cách thức chuẩn bị và thực hiện việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu, về việc phân tích và tối ưu hóa các mô hình dữ liệu hiện đang tồn tại và quan trọng hơn, đưa ra các chỉ dẫn và được minh họa bằng các ví dụ cụ thể để các lập trình viên, các công ty, giới CNTT có thể biến các dữ liệu (và các qui trình) được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa thành các ứng dụng – dịch vụ CPĐT sử dụng được có hiệu quả và an ninh vào thực tế cuộc sống.
Một câu hỏi được đặt ra khi chúng ta mong muốn đưa ra các dự án mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu là sẽ tập trung vào cái gì? Trong thực tiễn triển khai các ứng dụng – dịch vụ CPĐT, chúng ta có thể thấy có các mô hình dữ liệu đặc thù và các mô hình dữ liệu chung:
  1. Mô hình dữ liệu đặc thù
Mô hình dữ liệu đặc thù được hiểu là mô hình dữ liệu thường chỉ được sử dụng trong một lĩnh vực ứng dụng thậm chí khi vài cơ quan nhà nước có thể có liên quan trong việc trao đổi các dữ liệu đặc thù đó. Một ví dụ về mô hình dữ liệu như vậy là lĩnh vực các dịch vụ đăng ký của công dân như đăng ký chứng sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký bằng lái xe máy và ô tô, đăng ký kinh doanh...
  1. Mô hình dữ liệu chung.
Ngược với mô hình dữ liệu đặc thù, mô hình dữ liệu chung là các mô hình dữ liệu được sử dụng trong nhiều lĩnh vực ứng dụng khác nhau. Ví dụ của các mô hình dữ liệu như vậy như các dữ liệu có liên quan tới từng cá nhân, như “Họ và Tên” và “Địa chỉ”...
D. MỘT SỐ GỢI Ý
Với mục đích để hỗ trợ và phối hợp sự phát triển và cung cấp các tiêu chuẩn kỹ thuật cho trao đổi dữ liệu điện tử, sao cho các qui trình hành chính điện tử có thể được triển khai có hiệu quả và theo một cách thức thống nhất, gợi ý thiết lập một số dự án mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu ban đầu cho các ứng dụng – dịch vụ CPĐT như:
  1. Quản lý các qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành chính
  2. Các dịch vụ đăng ký của công dân đối với các cơ quan hành chính nhà nước
  3. Các giao tiếp pháp lý điện tử
  4. Nhà đất – Xây dựng – Công trình
  5. Các dịch vụ tài chính
  6. Đăng ký các phương tiện giao thông
Để thực hiện được các dự án mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa như gợi ý ở trên, cần thiết phải xây dựng các nhóm làm việc với các chuyên gia đại diện cho các chuyên ngành và các dự án tiêu chuẩn hóa được nêu như:
  1. Nhóm xác định và định nghĩa các mô hình dữ liệu chung để đưa ra được các mô hình và tiêu chuẩn cho các mô hình dữ liệu chung đó sẽ được đưa vào triển khai trong thực tế trong các dự án tiêu chuẩn hóa khác nhau được nêu ở trên.
  2. Nhóm phổ biến và triển khai các tiêu chuẩn để đưa các kết quả được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa trong các dự án nêu trên vào được trong thực tế thông qua các qui định chung, kể cả việc thay đổi các phiên bản các kết quả khi cần.
Các kết quả của việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu cần phải được công bố rộng rãi trên các site phục vụ cho việc xây dựng CPĐT để các đơn vị, cả các đơn vị thụ hưởng là các cơ quan hành chính nhà nước và các công ty tham gia xây dựng các ứng dụng và dịch vụ CPĐT luôn có khả năng truy cập để tham khảo bất kỳ lúc nào họ muốn, giúp cho các đơn vị đó những thông tin chính thống và chính xác khi xây dựng các ứng dụng – dịch vụ CPĐT.

Các kết quả không chỉ giới hạn ở các tài liệu mô hình hóa và các tiêu chuẩn, mà còn có thể là cả các tài liệu chỉ dẫn thực hiện, các công cụ cho việc tự động hóa cho việc tạo các mô hình – sơ đồ, các yêu cầu đặc thù cho từng dự án và các kho chứa được phân loại một cách khoa học và rõ ràng... Tất cả những kết quả này sẽ giúp rất nhiều cho các lập trình viên các công ty CNTT khi xây dựng các ứng dụng, dịch vụ CPĐT.
E. LỜI KẾT
Xây dựng thành công các ứng dụng – dịch vụ CPĐT là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi sự kết hợp làm việc cả từ phía những người có chuyên môn về hành chính và CNTT.
Những người làm việc chuyên môn về CNTT không thể làm thay các công việc của những người có chuyên môn về hành chính, nhưng có thể giúp một cách đắc lực cho những người có chuyên môn về hành chính trong việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành chính bằng các công cụ và các tiêu chuẩn CNTT.
Bên cạnh việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành chính, điều quan trọng khác phải tiến hành là mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu, cả các dữ liệu chung và các dữ liệu đặc thù.
Để tiến hành việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ, các thủ tục hành chính và các dữ liệu, cần có bộ máy những người chuyên nghiệp để thực hiện, là các chuyên gia từ các dự án mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa phục vụ cho CPĐT.
Kết quả của việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa cần phải được đưa lên công khai trên Internet để bất kỳ ai tham gia trong quá trình xây dựng các ứng dụng - dịch vụ cho CPĐT cũng có thể truy cập được tới chúng bất kỳ lúc nào, kể cả các phiên bản cập nhật – nâng cấp của các kết quả đó.
Trần Lê
Bài đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 09/2012, trang 66-69.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.