Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

Giải pháp về bằng sáng chế phần mềm từng có ngay đây suốt - Phần 2

-->
The software patent solution has been right here all along
Báo chí từ các nhà nghiên cứu pháp lý gợi ý một sự sửa đổi cho đám lộn xộn về bằng sáng chế phần mềm đã và đang bị che dấu trong các luật lệ mọi lúc.
New paper from legal researcher suggests a fix for the software patent mess has been lurking in the statute all this time
By Simon Phipps | InfoWorld, September 14, 2012
Bài được đưa lên Internet ngày: 14/09/2012
Lời người dịch: Theo Luật về bằng sáng chế của Mỹ năm 1952, thì chưa ai khi đó có thể biết nó sẽ được áp dụng thế nào cho các bằng sáng chế phần mềm sau này. Các luật sư đã sử dụng mẹo mực trong ngôn từ của mình để giành được các bằng sáng chế phần mềm với “các yêu sách theo chức năng” mà đáng lý ra không được xảy ra. “Kết quả của sự “đổi mới” này từng là một sự nở rộ vô số các bằng sáng chế phần mềm, tiếp sau sự nổi lên của các công ty mà vai trò của chúng chỉ là để nặn bóp tiền từ các nhà đổi mới sáng tạo đích thực bằng việc sử dụng các đe dọa các vụ kiện bằng sáng chế. Tài liệu trích ước lượng của Bessen và Meurer rằng các quỉ lùn bằng sáng chế gây thiệt hại cho nền kinh tế hơn 500 tỷ USD cho tới nay. Lemley ước tính có hàng chục, có lẽ hàng trăm ngàn, các bằng sáng chế sử dụng mẹo mực khái niệm này trong lĩnh vực phần mềm để giành được các bằng sáng chế về các ý tưởng - hành động mà chúng ta được dẫn tới tin tưởng là không thể xảy ra”.  Xem các phần [01], [02], [03].
Để trả lời, Quốc hội đã bị vận động hành lang nặng nề để thay đổi luật và một lần nữa cho phép “yêu sách theo chức năng”. Sau tất cả, đây là một công cụ mạnh và sinh lợi nhất cho việc kiểm soát sự cạnh tranh trong các thị trường mới. Quốc hội đã giới thiệu Luật về Bằng sáng chế năm 1952, nó đã nói lại khả năng tạo ra những yêu sách theo chức năng, nhưng đã ép buộc các điều kiện lên cách mà chúng có thể đi xa tới đâu được. Phần sống còn của qui định này là phần 112(f), nó nói là tốt để viết một yêu sách bằng sáng chế mà mô tả một sự sử dụng mới cho một thứ đang tồn tại trong các điều khoản theo chức năng. Yêu sách đó phải xác định một “phương tiện” được thiết lập - một điều được sử dụng theo một cách thức mới - và có thể mô tả một chức năng mới cho điều khoản đó.
Sự giới thiệu lại yêu sách theo chức năng về các điều khoản đó đã không phải là một thảm họa mà ai đó có thể mong đợi. Luật mới đã làm việc được tốt, làm giảm được nhiều phạm vi các bằng sáng chế yêu sách quyền sở hữu của một chức năng; khi chúng được nêu theo cách này, thì chúng chỉ có thể tác động tới chức năng nào trong mối quan hệ với mục đích được mô tả trong bằng sáng chế đó. Theo Lemley, các luật sư về bằng sáng chế trong nhiều lĩnh vực tránh dạng ngôn ngữ yêu sách “phương tiện cộng chức năng” và thay vào đó sử dụng những mẹo mực khác trong ngôn từ trong những mưu đồ của họ để đệ trình các bằng sáng chế rộng lớn hơn.
Nhưng vào năm 1952, không ai biết trước được vấn đề có thể xảy ra khi ngôn ngữ này đã được áp dụng đối với phần mềm. Cùng thời điểm đó, một luật sư thông minh về bằng sáng chế đã nhận thức được rằng nếu “một máy tính” được sử dụng như là “phương tiện”, thì nó có thể thể hiện không có khó khăng cho mục đích của các “chức năng” đi sau đó. Trong khi “một máy tính” nghe có vẻ đặc thù cho một thẩm phán, thì những hệ quả của tính đầy đủ của Turing có nghĩa là bất kỳ máy tính nào cũng có thể được sử dụng như những “phương tiện”. Hệ quả là, phần 112(f) của Luật về Bằng sáng chế đã được đối xử như một cổng cho việc cấp bằng sáng chế chỉ về bất kỳ ý tưởng có khả năng tưởng tượng nào trong phần mềm. Lemley nói:
In response, Congress was lobbied heavily to change the law and once again allow "functional claiming." After all, it was a lucrative and powerful tool for controlling competition in new markets. Congress introduced the Patent Act of 1952, which reinstated the ability to make functional claims, but imposed conditions on how far they could go. The crucial part of the statute is section 112(f), which says it's OK to write a patent claim that describes a new use for an existing thing in functional terms. The claim has to identify an established "means" -- a thing to be used in a novel way -- and can describe a new function for that item.
The reintroduction of functional claiming on these terms wasn't the disaster one might expect. The new law worked well, greatly reducing the scope of patents claiming ownership of a function; when they were phrased in this way, they could only affect that function in association with the object described in the patent. According to Lemley, patent lawyers in many fields avoid this sort of "means-plus-function" claim language and instead use other linguistic tricks in their attempts to file broad patents.
But in 1952, no one anticipated the problem that would result when this language was applied to software. At some point, a clever patent attorney realized that if "a computer" was used as the "means," it would present no obstacle to the scope of the "functions" that followed it. While "a computer" sounds specific to a judge, the consequences of Turing completeness mean any computer could be used as the "means." As a consequence, section 112(f) of the Patent Act was treated as a gateway to patenting just about any idea imaginable in software. Lemley says:
Một người được trao bằng sáng chế yêu sách “các phương tiện cho việc tính toán một giới hạn cảnh báo” đang viện tới những giới hạn của phần 112(f), và yêu sách đó sẽ được giới hạn phù hợp với thuật toán phần mềm đặc biệt hoặc sự triển khai mà người được trao bằng sáng chế đã mô tả trong đặc tả. Nhưng nếu chính người được cấp bằng sáng chế đó yêu sách “một máy tính được lập trình để tính toán một giới hạn cảnh báo”, thì các tòa án ngày nay sẽ đọc khoản “máy tính” như là cấu trúc đủ và sẽ hiểu các yêu sách đề cập tới bất kỳ máy tính nào mà có thể tính toán được một giới hạn cảnh báo, tuy nhiên sự tính toán được lập trình.
Thực hiện qui định nghiêm túc
Kết quả của sự “đổi mới” này từng là một sự nở rộ vô số các bằng sáng chế phần mềm, tiếp sau sự nổi lên của các công ty mà vai trò của chúng chỉ là để nặn bóp tiền từ các nhà đổi mới sáng tạo đích thực bằng việc sử dụng các đe dọa các vụ kiện bằng sáng chế. Tài liệu trích ước lượng của Bessen và Meurer rằng các quỉ lùn bằng sáng chế gây thiệt hại cho nền kinh tế hơn 500 tỷ USD cho tới nay. Lemley ước tính có hàng chục, có lẽ hàng trăm ngàn, các bằng sáng chế sử dụng mẹo mực khái niệm này trong lĩnh vực phần mềm để giành được các bằng sáng chế về các ý tưởng - hành động mà chúng ta được dẫn tới tin tưởng là không thể xảy ra.
Lemley khảo sát một dải các giải pháp mà những người khác đã đề xuất cho vấn đề này, từ việc loại bỏ các bằng sáng chế phần mềm (ông tranh luận nó có thể là không thể vì thiếu một định nghĩa lành mạnh về “bằng sáng chế phần mềm”) cho việc yêu cầu xuất bản các thuật toán. Nhưng Lemley khẳng định có một giải pháp đơn giản hơn nhiều. Ông quan sát thấy rằng trong các lĩnh vực khác của luật về bằng sáng chế, các tòa án đã yêu cầu rằng “điều đang tồn tại trước đó” minh chứng cho sự sử dụng cấu trúc “phương tiện cộng chức năng” để làm cho một yêu sách bằng sáng chế “phải nhiều hơn chỉ là sự trang hoàng cho cái cửa sổ”.
A patentee who claims "means for calculating an alarm limit" is invoking the limits of section 112(f), and the claim will accordingly be limited to the particular software algorithm or implementation the patentee described in the specification. But if the same patentee claims "a computer programmed to calculate an alarm limit," courts today will read the term "computer" as sufficient structure and will understand the claims to cover any computer that can calculate an alarm limit, however the calculation is programmed.
Taking the statute seriously
The result of this "innovation" was an enormous proliferation of software patents, followed by the eventual emergence of companies whose only role is to extract money from genuine innovators using threats of patent suits. The paper cites Bessen and Meurer's estimate that patent trolls have cost the economy over $500 billion so far. Lemley estimates that tens, perhaps hundreds of thousands, of patents use this conceptual trick in the field of software to gain patents on ideas -- the very act we're led to believe is impossible.
Lemley surveys a range of solutions others have proposed to this problem, from abolishing software patents (he contends it would be impossible because of the lack of a rigorous definition of "software patent") to demanding publication of algorithms. But Lemley asserts there is a far simpler solution. He observes that in other areas of patent law, the courts have required that the "preexisting thing" justifying the use of the "means-plus-function" structure to make a patent claim "must be more than mere window-dressing."
Dịch: Lê Trung Nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.