Thứ Ba, 1 tháng 6, 2010

Việc lách qua qua các bụi rậm về bằng sáng chế phần mềm

Hacking through the Software Patent Thickets

24 May 2010, 17:45

by Glyn Moody

  1. Những bụi rậm về bằng sáng chế phần mềm

  2. Tiến lên nhanh chóng

  3. Một giải pháp...

1. Software Patent Thickets

2. Fast forward

3. A solution ..

Theo: http://www.h-online.com/open/features/Hacking-through-the-Software-Patent-Thickets-1006091.html

Bài được đưa lên Internet ngày: 24/05/2010

Lời người dịch: Một bài phân tích tuyệt vời về thực trạng hệ thống bằng sáng chế phần mềm trên thế giới và tại nước Mỹ. Sẽ là một bài học tuyệt vời cho Việt Nam để chọn cho mình con đường đi đúng, như New Zealand và hầu như toàn bộ Liên minh châu Âu - loại bỏ bằng sáng chế phần mềm ra khỏi danh sách những vấn đề được bảo vệ bởi pháp luật - vì lợi ích của chính quốc gia mình. Bài viết còn đưa ra một giải pháp, mà “Theo cách này, cộng đồng phần mềm tự do có thể cung cấp một trình diễn thực tế, mạnh về cách mà các bằng sáng chế bây giờ *làm suy giảm* sự đổi mới sáng tạo và gây hại cho mọi người nhiều đến thế nào - sự ngược lại hoàn toàn của những gì mà những người ủng hộ chúng đang kêu ca”.

Hầu hết mọi người trong cộng đồng luồn lách biết rõ rằng các bằng sáng chế đại diện cho một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với phần mềm tự do. Nhưng tình trạng thực sự còn tồi tệ hơn người tả tưởng, vì sự bùng nổ của những gì được gọi là các bụi rậm về bằng sáng chế. Để hiểu vì sao những thứ này thực là tồi tệ, và vì sao chúng đại iện cho một vấn đề đặc biệt đối với phần mềm, cần thiết phải quay trở ngược về ban đầu của luật về bằng sáng chế.

Most people in the hacking community are well aware that patents represent one of the most serious threats to free software. But the situation is actually even worse than it seems, thanks to the proliferation of what are called patent thickets. To understand why these are so bad, and why they represent a particular problem for software, it is necessary to go back to the beginning of patent law.

Như tên của chúng ngụ ý, các bằng sáng chế làm thứ gì đó được “công nhận là sáng chế”, hoặc công khai, sao cho những người khác có thể sử dụng và xây dựng trên một sự đổi mới sáng tạo - nhưng chỉ sau một khoảng thời gian nào đó, trong khoảng thời gian đó thì người chủ của bằng sáng chể có một quyền độc quyền (dạng của quyền được bàn bên dưới). Quả thực, bản gốc ban đầu của luật về bằng sáng chế của Anh – và của nhiều quốc gia nói tiếng Anh mà dựa luật của họ vào truyền thống này - là Đạo luật về sự Độc quyền năm 1623.

Ý tưởng về các bằng sáng chế từng để đảm bảo rằng những phát minh mới không bị trở thành bí mật. Việc cho phép một sự độc quyền được chính phủ đảm bảo trong một thời gian hạn chế từng là sự tiến bộ đối với việc hé lộ những chi tiết về sự phát minh đối với mỗi người. Ngay cả mặc dù các nhà độc quyền luôn được xem như một Thứ Tồi Tệ đối với xã hội, thì tại thời điểm khi những sáng tạo còn khá hãn hữu thì nó có ý nghĩa để đưa ra sự khích lệ mạnh mẽ này. Không có nó, sự nguy hiểm từng là việc những tri thức mới có thể vẫn bị khóa như những bí mật thương mại, mà có thể gây thiệt hại cho toàn bộ sự tiến bộ của công nghệ.

Điều quan trọng để lưu ý là độc quyền được trao bởi các chính phủ không phải là một quyền để sử dụng sáng tạo đó; như được giải thích bởi Wikipedia:

As their name implies, patents are about making something “patent”, or public, so that others can use and build on an invention – but only after a certain period, during which time the patent-holder has a monopoly right (what kind of right is discussed below). Indeed, the origin of British patent law – and of many anglophone countries that base their law on this tradition – is the 1623 Statute of Monopolies.

The idea of patents was to ensure that new discoveries were not kept secret. Allowing a time-limited government-granted monopoly was the quid pro quo for revealing the details of the discovery to everyone. Even though monopolies have always been regarded as a Bad Thing for society, at a time when inventions were relatively rare it made sense to offer this powerful incentive. Without it, the danger was that new knowledge would remain locked away as trade secrets, which would have been detrimental to the overall advancement of technology.

It's important to note that the monopoly granted by governments is not a right to use that invention; as Wikipedia explains:

Một bằng sáng chế không phải là một quyền để thực hành hoặc sử dụng sáng chế. Đúng hơn là, một bằng sáng chế cung cấp quyền để loại bỏ những người khác khỏi việc tạo ra, sử dụng, bán, chào bán, hoặc nhập sáng chế được trao bằng đối với điều khoản của bằng sáng chế đó, mà nó thường là 20 năm từ ngày được lưu trữ [3] phải thanh toán phí duy trì.

Nghĩa là, trong trái tim của bằng sáng chế là sức mạnh loại bỏ những người khác khỏi việc sử dụng nó. Điều này có một hệ quả rất quan trọng:

Tuy nhiên, một bằng sáng chế đang có quyền loại trừ thì không cần thiết phải trao cho người chủ sở hữu bằng sáng chế đó cái quyền khai thác bằng sáng chế. Ví dụ, nhiều phát minh là những cải tiến của những phát minh trước đó mà có thể vẫn còn chịu ảnh hưởng của bằng sáng chế của ai đó khác. Nếu một nhà phát minh đem thiết kết bẫy chuột hiện hành và được cấp bằng sáng chế, bổ sung một tính năng mới để làm thành một bẫy chuột được cải tiến, và giành được một bằng sáng chế về sự cải tiến đó, thì anh hoặc chị ta chỉ xây dựng một cách hợp pháp cái bẫy chuột được cải tiến của mình với sự cho phép từ người giữ bằng sáng chế của cái bẫy chuột ban đầu, giả thiết là bằng sáng chế đó vẫn còn có hiệu lực. Mặc khác, người chủ sở hữu của bằng sáng chế được cải tiến có thể loại trừ người chủ của bằng sáng chế ban đầu khỏi việc sử dụng sự cải tiến này.

Trong những ngày đầu của các bằng sáng chế, điều này không phải là một vấn đề gì lớn lao. Hầu hết các sáng chế đã tự đứng được, và vì thề đã không tương tác với những bằng sáng chế trước đó (không ít hơn vì đã có quá ít các sáng kiến). Nhưng với thời gian, ngày càng có nhiều bằng sáng chế đã có vấn đề, nên xu hướng tương tác gia tăng, thường đòi hỏi quyền từ những giữ các bằng sáng chế trước đó để triển khai chúng.

Một yếu tố quan trọng khác là sự gia tăng theo tính phức tạp của những sáng kiến qua năm tháng. Trong khi những sáng chế đầu tiên từng là cho toàn bộ một chiếc máy hoặc toàn bộ một qui trình, thì sau này những sáng kiến thường có xu hướng chỉ là cho một số phần của một chiếc máy hoặc qui trình (vì những ý tưởng và kỹ thuật chính từng hoặc là đã được cấp bằng sáng chế, hoặc bây giờ đang nằm trong miền công cộng).

A patent is not a right to practice or use the invention. Rather, a patent provides the right to exclude others from making, using, selling, offering for sale, or importing the patented invention for the term of the patent, which is usually 20 years from the filing date [3] subject to the payment of maintenance fees.

That is, at the heart of the patent is the power to exclude others from using it. This has a very important consequence:

A patent being an exclusionary right does not, however, necessarily give the owner of the patent the right to exploit the patent. For example, many inventions are improvements of prior inventions that may still be covered by someone else's patent. If an inventor takes an existing, patented mouse trap design, adds a new feature to make an improved mouse trap, and obtains a patent on the improvement, he or she can only legally build his or her improved mouse trap with permission from the patent holder of the original mouse trap, assuming the original patent is still in force. On the other hand, the owner of the improved mouse trap can exclude the original patent owner from using the improvement.

In the early days of patents, this wasn't much of a problem. Most inventions were self-standing, and therefore didn't interact with earlier patents (not least because there were so few of them). But as time went on, and more patents were issued, so the tendency to interact increased, often requiring permission from holders of pre-existing patents in order to implement them.

Another important factor was the increase in complexity of inventions over the years. Whereas the first patents were for an entire machine or complete process, later inventions necessarily tended to be for parts of a machine or process (because the key ideas and techniques were either already patented, or by now in the public domain).

Đón xem: Tiến lên nhanh chóng

Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.